← Quay lại trang sách

Chương XXV TÀU

Đêm xuống. Quá yếu ớt vì bị chảy máu nhiều, Pitơ vất vả đi đến chào từ biệt vua và hoàng hậu Tây Ban Nha. Hai người này đã nói với chàng một lô những lời tốt đẹp. Họ gọi chàng là tấm gương sáng chói của giới hiệp sĩ, và nếu chàng đồng ý ở lại phục vụ họ, thì họ sẽ giao cho chàng quyền cao chức trọng. Tuy nhiên Pitơ chỉ cảm ơn và từ chối, nói rằng chàng đã phải chịu quá nhiều tai họa ở đất nước Tây Ban Nha này, nên không thể sống ở dây được. Vua và hoàng hậu ôm hôn vợ chàng, tức là nàng Macgaret xinh đẹp, người bây giờ đang bám lấy ông chồng bị thương của mình như một sợi dây leo bám chặt cây sồi, và không chịu rời chàng nửa bước. Bởi vì vừa mới lúc nãy nàng đã mất hết hi vọng được ôm chàng sống sót. Vâng, vua và hoàng hậu hôn nàng, sau đó hoàng hậu cởi chiếc dây chuyền quý đang mang đeo vào cổ nàng, như món quà tiễn biệt được bà tặng. Hoàng hậu chúc nàng sống hạnh phúc với một người chồng dũng cảm như thế.

- Than ôi, thưa hoàng hậu, - Macgaret đáp, và đôi mắt đen của nàng ứa đầy lệ, - làm sao tôi có thể hạnh phúc khi nghĩ tới ngày mai.

Ixaben đỏ mặt nói:

- Tiểu thư Macgaret Brum, tiểu thư hãy cảm ơn vì những gì ngày hôm nay đã mang lại. Đừng nghĩ tới ngày mai với những gì có thể xảy ra. Đi đi, cầu Chúa phù hộ cho hai người!

Rồi Pitơ và Macgaret ra đi, một toán nhỏ các thủy thủ mặc áo khoác Tây Ban Nha đi theo. Trong thời gian xảy ra trận đấy, những người này ngồi trên khán đài xuýt xoa mỗi lần "đại bàng" tấn công, và đã bùng lên hoan hô khi "chim ưng" chiến thắng. Bây giờ họ đang dẫn, hay nói đúng hơn đang bế Pitơ đi trong bóng tối về hướng con thuyền đang đợi sẵn ở một nơi không xa cách trường đấu. Họ lặng lẽ chèo thuyền đi để không ai nhìn thấy, cả người xem lẫn cả những tên lính hầu của Pitơ cũng vậy. Mọi người tin chắc rừng chàng sẽ cùng vợ trở lại lâu đài vua như chàng đã hứa. Cứ thế họ chèo thuyền đi tới tàu "Macgaret". Con tàu nhổ neo và đi xuôi theo dòng sông ra cửa biển.

Đó là một đêm thật nặng nền, không có chỗ cho tình yêu và sự âu yếm. Lẽ nào Pitơ và Macgaret có thể nghĩ tới những điều ấy, khi họ bị dày vò bằng những sự nghi ngờ và nỗi sợ, khi họ đã trải qua những điều kinh khủng và những niềm vui vô hạn như hôm nay? Vết thương của Pitơ sâu và khá nặng. Mặc dù tấm khiên đã đỡ phần nào sức mạnh của cú chém, và mũi kiếm của Môrela may mắn chỉ chạm vào phần mềm trên vai, nhưng chàng đã để mất khá nhiều máu. Thuyền trưởng Xmit, một nhà phẫu thuật tài giỏi hơn nhiều so với người ta tưởng, đã cho lấy cồn rửa sạch vết thương của Pitơ, làm chàng rất đau, sau đó lấy một sợi chỉ lụa khâu lại. Hai tay và hai bắp chân Pitơ đầy những vết tím bầm khủng khiếp, còn lưng chàng thì bị nát nhừ khi chàng cùng Môrela ngã từ lưng ngựa xuống đất.

Pitơ nằm hôn mê hầu như suốt đêm hôm ấy. Khi trời rạng sáng, chàng chỉ có thể ngồi nhỏm dậy trên giường để cùng Môrela quỳ xuống cầu xin Đức Chúa cho bố nàng thoát khỏi bàn tay những người linh mục Tây Ban Nha độc ác.

Trong đêm, lợi dụng thủy triều, thuyền trưởng Xmit cho tàu quay ngược lại, đậu lẫn giữa những con tàu hư hỏng vô chủ như Pitơ đã dặn. Trước đấy ông ta cho xóa tên tàu và viết lên đó hai chữ "Xanh Maria", là tên một con tàu nghe nói đang đậu trong cảng, cũng có hình dáng và sức chở như tàu "Macgaret". Cũng có thể vì thế hoặc vì trên sông lúc ấy có nhiều tàu nên đã không ai trong số các nhà chức trách chú ý tới sự quay lại của họ, mà giả sử có nhận ra, thì cũng cho là điều không quan trọng và sẽ không báo lên cấp trên. ít ra tạm thời một việc đều tốt đẹp.

Theo tin tức của linh mục Enrikê, đã được kiểm tra lại bằng các nguồn khác, thì đoàn người thuộc "một hành động tôn giáo" sẽ phải đi tới bờ sông vào khoảng tám giờ, đi dọc theo nó chỉ một trăm mét rồi sẽ sang một đường phố dẫn tới quảng trường, nơi được chuẩn bị để tiến hành lễ cầu hồn. ở đấy những người đã được "rửa tội" xong sẽ bị nhốt vào cũi để đưa đi Quêmanđêrô.

Và lúc sáu giờ sáng, thuyền trưởng Xmit tập hợp trong cabin mười hai thủy thủ mà ông đã chọn để giúp mình thực hiện kế hoạch. Pitơ, có Macgaret đứng bên cạnh, đã báo cho họ biết một cách tỉ mỉ kế hoạch hành động và yêu cầu họ hãy làm tất cả những gì có thể làm được để cưú ông chủ của họ khỏi một cái chết thê thảm.

Các thủy thủ tuyên thệ: họ đang nóng lòng muốn được sớm ra tay, đang sôi máu lên vì tức giận, đấy là chưa kể tới việc họ được hứa sẽ có phần thưởng lớn, cả cho những gia đình có người không may bị chết. Sau đó họ ăn sáng, chọn kiếm và dao, rồi khoác lên mình những chiếc áo dài Tây Ban Nha, mặc dù thực ra khó có thể gọi những chàng trai quên ở Êxec và Luân Đôn này giống người Tây Ban Nha được. Thuyền đã sẵn sàng, và mặc dù còn đứng chưa vững, Pitơ vẫn nói rằng chàng sẽ đi với họ. Nhưng thuyền trưởng Xmit, có lẽ được Macgaret nói trước, liền dẫm mạnh chân lên boong tàu, tuyên bố rằng ông là người chỉ huy ở đây, và nhất quyết không cho chàng đi. Ông nói chiếm thêm vào chỗ trong con thuyền nhỏ bé, và không thể làm gì được để giúp họ, cả trên cạn lẫn dưới nước. Vả lại, hôm qua Pitơ đã được hàng nghìn người nhìn thấy mặt, nên chắc chắn chàng sẽ bị phát hiện, trong khi sẽ không có ai chú ý tới những người thủy thủ từ một con tàu nào đó lên bờ đẻ dạo chơi hay xem lễ. Cuối cùng, chàng nên ở lại trên tàu "Macgaret", vì nếu có chuyện gì xấu xảy ra, sẽ còn lại quá ít người để đưa tàu nhanh chóng ra biển khơi và về tới nước Anh.

Pitơ vẫn tiếp tục đòi được đi, cho đến khi Macgaret ôm chàng hỏi phải chăng chàng muốn một lúc nàng phải mất cả bố lẫn chồng, vì rất có thể họ sẽ thất bại. Chỉ lúc ấy Pitơ, vì quá đau và yếu, mới chịu nhân nhượng. Thuyền trưởng Xmit dặn dò người thuyền phó những điều cuối cùng, bắt tay Pitơ và Macgaret, rồi cùng mười hai thủy thủ của mình xuống thuyền. Cố tránh sau những con tàu cũ, con thuyền tiến vào bờ.

Tàu "Macgaret" ở cách bờ một quãng tên bay, và ở trên boong giữa mũi và đuôi hai chiếc tàu cũ khác, có thể nhìn rõ lên bờ. Pitơ và Macgaret ngồi ở đấy. Một thủy thủ trèo lên cột buồm, là nơi có thể nhìn thấy hầu như toàn bộ thành phố, thậm chí cả lâu đài cổ của người Mô, bây giờ là chỗ tòa án dị giáo đóng. Cuối cùng người thủy thủ này kêu lên, rằng đoàn người đã đi ra khỏi lâu đài. Anh ta nhìn thấy cờ xí và nhiều người ngồi xem bên cửa sổ hoặc trên mái nhà. Ngoài ra, để báo tin ấy, chuông nhà thờ cũng bắt đầu vang lên từng tiếng chậm rãi. Sau đó là một sự im lặng kéo dài. Họ nhìn thấy một toán thủy thủ mặc áo khoác dài Tây Ban Nha lên tới bờ và đứng dẫn với một toán người không đông lắm đang đứng ở đấy. Phần lớn người xem hiện tập trung ở quảng trường và các phố lân cận.

Cuối cùng, khi chuông đồng hồ nhà điểm tám tiếng cả đoàn người "oai hùng" ấy - nó được gọi như vậy - đã ra tới bờ sông. Đi đầu là một toán lính có trang bị bằng các mũi giáo, tiếp theo là một cây thánh giá màu đen do một linh mục vác. Theo sau ông ta là các quan chức khác của nhà thờ, mặc quần áo trắng toát tượng trưng cho sự trong sạch. Sau đó xuất hiện những người đang vác các hình người đàn ông và đàn bà được làm bằng gỗ hay da thú. Những người này đang chạy ra nước ngoài hoặc đã chết nên mới thoát khỏi bàn tay của tòa án dị giáo. Tiếp theo là các quan tài, mỗi chiếc được bốn người khiêng. Trong các quan tài ấy là xương cốt của những kẻ phản đạo đã chết.

Sau đó là những kẻ phản đạo đã hối lỗi. Đầu họ bị cạo trọc, chân trần, một số mặc quần áo đen, số khác được khoác lên người một tấm vải màu vàng có hình chữ thập đỏ, gọi là "sanbemlô". Tiếp tho những người này là một toán những kẻ phản đạo khá bị kết án phải đem thiêu sống trên giàn thiêu. Họ đeo lên người một tấm da cừu có vẽ các sừng của quỷ sức và chân dung của chính họ với những ngọn lửa bao quanh. Trên dầu những con người bất hạnh này là những chiếc mũ cao như mũ của các giám mục, gọi là "côrôđa", trên đó có vẽ hình những ngọn lửa. Một sợi dây thừng được thít chặt giữa hai hàm răng họ để không thể làm bẩn xung quanh bởi những lời lẽ phản đạo. Tay họ cầm những ngọn nến, chốc chốc lại được các linh mục đi cạnh thắp lại nếu bị tắt.

Trái tim của Pitơ và Macgaret đau nhói khi họ thấy cuối cuộc diễu hành khủng khiếp ấy là một người cỡi lừa mang tấm da cừu, đội "côrôđa" và cổ đeo một chiếc thòng lòng. Cha Enrikê đã nói dúng - không còn nghi ngờ gì nữa, đó là Giôn Caxten. Pitơ và Macgaret nhìn bộ trang phục nhục nhã của ông mà cứ tưởng mình đang nằm mơ. Đi sau ông là những người ăn mặc lộng lãy. Đó là quan chức tòa án dị giáo, các nhà quý tộc và các thành viên của Hội đồng dị giáo. Trước họ là một ngọn cờ gọi là "Cờ thiêng liêng của lòng tin".

Khi Caxten đi ngang qua một tốp nhỏ những người thủy thủ, thì hình như có chuyện gì đó xảy ra với sợi dây dắt con lừa mà ông đang cưỡi. Con lừa đứng lại, và một người mặc quần áo thư kí của tòa án đi tới, có lẽ để sửa lại dây buộc, và bằng cách ấy đã làm ngừng lại đoàn người đang đi sau. Những người đi trước đi hết quãng đường dọc theo bờ sông và đã rẽ sang đường góc. Không hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng tên phản đạo buộc phải xuống lừa. Người ta kéo hắn khỏi lưng con vật một cách thô bạo, còn con vật thì hình như được giải phóng khỏi gánh nặng, lấy làm thích thú, nghếch cao đầu rồi kêu toáng lên.

Một số người từ đám đông không lớn lắm đi dọc bờ sông liền đi tới như thể định giúp đỡ. Trong họ có một số người cũng mặc như các thủy thủ trên tàu Macgaret. Các sĩ quan và các nhà quý tộc đi sau bắt đầu quát, "đi đi! đi đi!" nhưng những người đang đứng quanh con lừa lại xô nó cùng kẻ dị giáo mà nó chở lại gần dòng sông. Lúc ấy mấy tên lính canh phi ngựa đến để xem chuyện gì đã xảy ra.

Bỗng nhiên có sự lộn xộn xảy ra, mà không ai biết nguyên nhân do đâu. Mấy giây sau, Macgaret và Pitơ, lúc này đang nắm chặt tay nhau, nhìn thấy người cưỡi lừa được nhanh chóng kéo theo các bậc lên xuống về phía có con thuyền của tàu "Macgaret". Ông thuyền phó đang đứng cạnh tay lái cũng nhìn thấy điều này. Ông ta huýt sáo ra hiệu,và theo hiệu này, dây thừng cột neo bị chặt đứt - không có thời gian để kéo neo lên, - còn bác thủy thủ liền trương buồm, và con tàu bắt đầu chuyển động.

Trong khi trận đánh vẫn tiếp tục trên bờ, Caxten đã được đưa lên thuyền cùng với một số thủy thủ, nhưng những thuỷ thủ còn lại vẫn ở trên bờ để giữ không cho một đám đông các linh mục và quan chức nhà thờ được trang bị vũ khí cướp lại Caxten. Một linh mục tay cầm kiếm lách qua các thủy thủ và cũng bị xô nhào xuống thuyền. Cuối cùng tất cả đã lên thuyền trừ một người - đó là thuyền trưởng Xmit lúc này đang bị ba đối thủ tấn công. Các mái chèo được nâng lên, nhưng các thủy thủ vẫn đợi. Ông thuyền trưởng vung kiếm, và một trong ba kẻ tấn công ông ngã gục. Hai tên còn lại lao bừa vào ông, một đứa nhảy lên lưng, đứa khác ôm vào cổ. Ông thuyền trưởng đem hết sức nhảy ùm xuống nước, kéo theo cả hai tên ấy. Một tên không ai còn nhìn thấy nữa, vì thuyền trưởng Xmit đã đâm kiếm xuyên người hắn, còn tên thứ hai thì lặn dưới nước gần con thuyền, lúc này đã ở xa bờ mấy mét. Một thủy thủ vung mái chèo nện vào đầu hắn, và hắn chìm nghỉm.

Tuy nhiên không thấy thuyền trưởng Xmit đâu. Pitơ và Macgaret đã nghĩ rằng ông bị chìm. Hình như các thủy thủ cũng nghĩ như vậy, vì họ đã bắt đầu chèo thuyền, nhưng bỗng nhiên một cánh tay to lớn sạm nắng nhô lên mặt nước và bám lấy đuôi thuyền.

- Chèo đi các cậu, tôi ở đây! - Một giọng nói ồm ồm vang lên.

Các thủy thủ chèo mạnh, đến nỗi mái chèo cong lên thành hình cánh cung. Trong lúc ấy, hai thủy thủ túm lấy vị linh mục trước đó đã nhảy xuống thuyền, rồi ném hắn xuống sông. Hắn còn quẫy cựa một lúc, nhưng vì không biết bơi, hán đưa tay chới với trong không khí rồi chìm hẳn. Nhờ dòng chảy con thuyền đi nhanh, chẳng mấy chốc đã tới mũi của một trong những con tàu cũ mà tàu "Macgaret" dựa vào để lẩn trốn. Gió thổi nhẹ, và tàu "Macgaret" tăng tốc độ.

- Cho thang xuống và chuẩn bị dây thừng! - Pitơ kêu to.

Lệnh của chàng đã được thi hành ngay, nhưng vẫn không kịp, vì liền lúc ấy có tiếng va của con thuyền vào mạn tàu. Các thủy thủ kịp túm lấy dây thừng để giữ con thuyền. Trong khi ấy thuyền trưởng Xmit liền bám lấy tấm ván phía sau đuôi tàu, nước hầu như phủ kín đầu ông.

- Trước hết hãy cứu thuyền trưởng đã! - Pitơ ra lệnh.

Một thủy thủ chạy xuống theo các bậc thang rồi ném cho ông thuyền trưởng một chiếc thòng lọng. Ông thuyền trưởng bắt nó bằng một tay rồi từ từ cột vào người. Các thủy thủ khác túm vào dây kéo ông lên boong. Ông nằm sõng soài, hổn hển thở, miệng luôn ợ ra nước. Con tàu đi mỗi lúc một nhanh hơn, nhanh đến mức họ lặng người đi vì sợ con thuyền bị va vào tàu khác và sẽ chìm.

Nhưng các thủy thủ biết rõ công việc của mình. Họ từ từ xô thuyền ra phía sau, cho đến khi mũi nó nàng với chân cầu thang. Người đầu tiên được họ đỡ lên là Caxten. Ông bám vào bậc thang, và những cánh tay khỏe mạnh khác đỡ ông. Từng bước một, ông bò lên dần, cho đến khi chiếc mũ khủng khiếp có vẽ hình quỷ sứ, khuôn mặt với bộ râu bị cạo nhẵn có những chấm trắng và cái miệng há to cho đến bây giờ vẫn còn bị buộc chặt bởi một đoạn dây thừng to, nhô lên trên boong tàu. Sau này ông thuyền phó có nói rằng Caxten lúc ấy trông giống như quỷ Satăng vừa chạy thoát từ địa ngục. Các thủy thủ kéo ông lên, và ông ngất đi trong vòng tay của con gái. Theo sau ông, các thủy thủ lần lượt trèo lên tàu, tất cả đều còn sống, dù hai người bị thương, máu loang lổ. Vâng, không có ai hi sinh, tất cả đã trở về tàu "Macgaret" an toàn.

Sau khi nôn ọe xong những ngụm nước sông cuối cùng, thuyền trưởng Xmit ra lệnh mang cho ông một cốc rượu, và ông liền uống hết. Trong khi ấy Pitơ và Macgaret tháo bỏ đoạn dây thừng đáng ghét khỏi miệng Caxten và cho ông uống một ngụm cồn. Như một con chó khổng lồ, thuyền trưởng Xmit rùng mình giũ nước khỏi người, rôi những nói một lời nào, ông tới cầm lái thay cho ông thuyền phó: lái tàu đi theo sông là một việc khó, mà đoạn sông này thì không ai biết rõ bằng thuyền trưởng Xmit. Đúng khi tàu "Macgaret" đến ngang Tháp Vàng nổi tiếng, bỗng có tiếng đại bác nổ to, nhưng viên đạn bay ngang, rơi cách xa tàu.

- Hãy trông kìa! - Macgaret kêu to, tay chỉ những người cưỡi ngựa đang phi dọc bờ sông phía nam.

- Chúng muốn báo cho các đồn phía trước, - Pitơ lên tiếng, - Chúa đã cho ta cơn gió này, và ta phải nhanh chóng vượt ra tới biển.

Gió mỗi lúc một mạnh hơn, thổi từ phương bắc tới, nhưng dù sao hôm ấy cũng là một ngày dài và thật nặng nền. Hết giờ này đến giờ khác, tàu họ chạy theo dòng sông đang mỗi lúc một rộng thêm. Lúc thì họ chạy ngang những khu làng mạc, nơi có một vài một tốp người nhìn thấy họ, liền giơ vũ khí ra dọa; lúc họ đi ngang qua những khu đầm lầy vắng vẻ và những khu rừng thông bằng phẳng.

Khi họ tới Bônanxa, mặt trời đã xuống rất thấp, còn khi vượt qua Anh Luca thì mạt trời lặn hẳn. ở cửa sông rộng lớn, nơi những con sóng trắng cuộn lên do gặp một gờ sông hẹp, họ thấy có hai chiếc tàu chiến chạy bằng sức chèo đang vội vã lao tới để bắt họ. Những chiếc tàu này chạy rất khỏe, và thiết tưởng không thể có cách nào thoát khỏi chúng.

Macgaret và Caxten được đưa xuống khoang tàu. Các thuỷ thủ ai ở vào vị trí người ấy. Pitơ cương quyết đi về phía đuôi tàu, nơi ông thuyền trưởng Xmit đang kiên nhẫn đứng bên tay lái và nhất thiết không cho ai đụng đến ông. Thuyền trưởng nhìn lên bầu trời, lên bờ và ra phía biển rộng mong đợi trước mặt. Sau đó ông ta ra lệnh kéo tất cả các buồm lên, và ông mím môi nhìn những chiếc tàu chiến đang đứng rình họ như những con chó ngay cửa biển. Hai chiếc tàu này đứng chặn ngang giữa lạch sông, hai bên là các bãi nông sùi bọt trắng không một con tàu nào có tehẻ đi qua nổi.

- Ông định làm gì bây giờ? - Pitơ hỏi.

- Thưa ông Pitơ, - thuyền trưởng Xmit nghiến răng nói, - hôm qua, khi ông đánh nhau với thằng Tây Ban Nha kia, tôi không hề hỏi ông định làm gì với hắn. Xin ông hãy im lặng và để cho tôi quyết định tất cả.

"Macgaret" là một con tàu chạy nhanh, nhưng chưa bao giờ nó chạy nhanh như lúc này. Gió réo lên phía sau nó. Các cột buồm vững chắ của nó cong xuống như cần câu, còn các dây buộc thì kêu lên cót két dưới sức nặng của những cánh buồm đầy gió. Mạn trái của nó nghiêng gần như sắp chạm mực nước, vì thế Pitơ phải nằm trên boong - chàng không đứng dậy nổi. Chàng thấy nước đã mấp mé cách chàng hơn nửa mét.

Hai chiếc tàu chiến đứng thành hàng chắn đường tàu "Macgaret". Khi cách tàu "Macgaret" nửa dặm, chúng liền quay mũi vào nhau, và biết chắc rằng không tàu nào có thể vượt qua nổi các bãi nông. Chúng chờ tàu "Macgaret" giảm tốc độ - nhất định sẽ phải thế, lúc ấy chúng sẽ dùng móc móc tàu chúng vào tàu "Macgaret", và sẽ giết chết đội thủy thủ ít người của nó. Thuyền trưởng Xmit ra lệnh điều gì đó cho ông thuyền phó, và thế là bỗng nhiên dưới ánh sáng của mặt trời đang lặn, một ngọn cờ Anh quốc phần phật tung bay trên đỉnh cột buồm chính. Thấy thế các thủy thủ reo lên sung sướng, và chiếc buồm cuối cùng còn lại được kéo lên. Bây giờ thỉnh thoảng mạn trái con tàu đã chìm hẳn xuống nước, Pitơ, đã bắt đầu cảm thấy nước biển mặn cắn vào tấm lưng bị thương của chàng.

Các thuyền trưởng Tây Ban Nha vẫn giữ nguyên tàu của chúng ở vị trí cũ. Chúng không sao hiểu nổi những gì đang thấy: Người thuyền trưởng của con tàu nước ngoài này điên chăng, hay hắn không biết lái tàu đi trên sông? Vì chắc chắn con tàu sẽ chìm, kéo luôn tất cả những người trên nó. Chúng đứng yên chờ đợi khi ngọn cờ có vẽ hình con báo và các cánh buồm lộng gió được kéo xuống. Nhưng con tàu "Macgaret" vẫn lao thẳng về phía chúng với một tốc độ ghê gớm. Khi khoảng cách chỉ còn lại không đầy một phần tư dặm, và thấy nó vẫn không thay đổi hướng đi, các thuyền trưởng trên hai chiếc tàu chiến Tây Ban Nha hiểu rằng tàu "Macgaret" đang lao vào chỗ chết, nhưng không phải chết một mình.

Bắt đầu có sự lộn xộn trên các tàu Tây Ban Nha. Có tiếng quát nhau, tiếng huýt sáo, và tiếng các tên cai chạy xuống khoang để thúc giục các tay chèo nô lệ. Trong ánh hoàng hôn, các mái chèo vung lên hạ xuống có màu đỏ như máu. Mũi của hai tàu chiến bắt đầu tách ra - một mét, hai mét, và có thể hai, ba chục mét. Như một viên đá ném xuống mặt nước, như một mũi tên được phóng đi, nhờ gió nâng đỡ, tàu "Macgaret" bay thẳng qua khe hở đó.

Rồi chuyện gì đã xảy ra? Xin hãy hỏi những người đánh cá ở Xanh Luca và những tên cướp biển ở Bônanxa, nơi chuyện này được truyền tụng hết đời này sang đời khác. Các mái chèo lớn gãy răng rắc như củi khô. Boong trên của chiếc tàu chiến nằm phía trái bị tàu "Macgaret" cào rách như một tờ giấy, còn một hông của tàu bên phải bị va bẹp rúm. Và tàu "Macgaret" vượt qua an toàn.

Thuyền trưởng Xmit quay nhìn lại phía sau - cả hai chiếc tàu chiến Tây Ban Nha đang chìm. Như những con thiên nga bị thương, chúng dập dềnh nghiêng ngả trên bãi nông sùi bọt trắng. Sau đó ông buông bánh lái, và gọi người thợ mộc tới hỏi tàu có bị thương không?

- Không thủng chỗ nào, thưa ông - người kia đáp, - nhưng ta sẽ buộc phải sơn lại. Chẳng khác gì cây gỗ sồi va vò vỏ trứng. Vả lại tàu ta lúc đó đang đi nhanh.

- Tốt! - Thuyền trưởng Xmit nói. - Hai bên là bãi cạn, chỉ còn lại một lối thoát duy nhất - sống hoặc chết! Nhưng lúc ấy tôi tin chắc chúng sẽ phải né cho ta đi. Hãy mời ông thuyền phó lại đây cầm lái. Tôi phải đi ngủ.

Mặt trời đã chìm hẳn xuống đại dương đang sôi động. Và vượt khỏi bàn tay của Tây Ban Nha, con tàu "Macgaret" quay cái mũi sây sát của mình về phía Uetxan. Về phía nước Anh.