← Quay lại trang sách

Chương 1

Yêu tinh Kijimuna của đảo Okinawa, yêu tinh Kenmun ở quần đảo Amami, quỷ đỏ hói đầu Namahage tỉnh Akita hay thần Masau của bộ tộc Hopi tận hải ngoại xa xôi… những vị thần ở gần nơi con người sinh sống dường như đều mang một vẻ ngoài đáng sợ.

Anh mắt sắc lạnh, những chiếc răng nanh, cơ thể màu đỏ rực và luôn cầm vũ khí.

Có thể ngoại hình đó là để họ tự vệ, nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là để họ thử thách con người. Bởi vì chỉ có những người vượt qua được sự ngần ngại đối với vẻ bề ngoài mới có thể chạm được vào sức mạnh của tâm hồn tinh tế ẩn bên trong.

Lũ trẻ ban đầu sẽ chân thành khiếp sợ dáng vẻ đó, nhưng rồi sẽ chấp nhận chính hình dáng đó cũng chân thành như vậy.

Dường như Hajime cũng có một thứ gì thần bí đầy ma thuật theo kiểu như vậy.

Nhưng tôi không còn là trẻ con nữa, mà sao vẫn có thể dễ dàng len được vào thế giới của em?

Tôi nghĩ khi con người gặp gỡ con người, chúng ta thật ra không nhìn vào khuôn mặt, ta nhìn vào tận trong tâm. Ta cảm nhận mọi thứ từ bầu không khí, giọng nói, rồi cả mùi hương… Tâm của Hajime hoàn toàn không xáo động. Thông thường hầu hết mọi người đều gây cho ta ấn tượng họ chứa một phần nào đó mập mờ trong tâm khảm, nhưng Hajime thì hoàn toàn thẳng thắn, pha đôi chút bóng tối, tôi cảm thấy em vô cùng mạnh mẽ.

Nếu nói rằng tôi không hề giật mình khi gặp Hajime lần đầu, thì đó là nói dối.

Do vết bỏng từ tai nạn ngày còn nhỏ mà nửa bên phải khuôn mặt và cơ thể em đen thẫm.

Dù được nghe kể chi tiết đến đâu thì ấn tượng khi nhìn thực tế cũng khác hẳn. Khi nhìn thấy nửa khuôn mặt ấy hiện lên sau ô cửa sổ con tàu, trong chốc lát trái tim tôi như đông cứng lại, tôi đã phải nhanh chóng gạt đi cảm xúc đó trước khi Hajime bước xuống cầu thang nối từ tàu và hiện ra trước mặt mình.

Mắt bên nửa mặt vẫn nguyên màu da trắng của em trông có vẻ to hơn bên mắt kia. Em vừa giữ mũ để không bị gió thổi đi mất vừa nói, giọng rất đáng yêu: “Rất vui được gặp chị.”

Đôi mắt nheo nheo hình tráng khuyết, mái tóc ngắn nhạt màu trong suốt dưới ánh mặt trời.

Tôi gần như quên ngay lập tức cái thứ cảm xúc vừa cố gạt bỏ.

Ra là vậy, cô gái này vốn là như thế. Chỉ tình cờ mà em có hình dáng này thôi, giống như loài kiến chính là loài kiến, loài cá chính là loài cá.

Không hiểu sao tôi đã có thể coi đó là một điều hiển nhiên, kể từ giây phút đó.

***

Một khi đã quen với ngoại hình của em, sẽ thấy bầu không khí em mang đến tinh khiết tựa như giọt nước trong suốt đọng trên cánh hoa bụp giấm.

Ví dụ như… khi cùng ngồi bên nhau ngắm biển, tôi luôn có cảm giác mơ hồ tựa như ngay bên cạnh mình là chất thạch trong suốt đang run rẩy, cảm giác về một luồng sáng rất mạnh rọi đến. Rồi mỗi khi bất giác ngắm cái hình dung ấy, tôi lại nghĩ xem điều gì có thể hiện ra trong tâm trí những người gặp em lần đầu. Nào là “Tội nghiệp thật!”, nào là “Khổ thân quá!” Thế nhưng tôi nhận ra những điều tôi cảm thấy khi không nhìn em mới chính là cảm xúc thật của mình.

Và rồi dần dần mỗi khi có ai đó nhìn Hajime rồi đâm ra luống cuống, thì tôi đã thành phản xạ, luôn cảm thấy ngạc nhiên “Tại sao?” Tôi hầu như đã quên hẳn sự tồn tại của vết bỏng. Tôi càng thấm thía hơn rằng, cuối cùng thì cái gì cũng có thể quen được hết. Chuyện vết bỏng đối với tôi đến đây là kết thúc. Hajime là Hajime, chỉ đơn giản có vậy thôi.

Đó là mùa hè chúng tôi gặp nhau lần đầu, một mùa hè chỉ đến một lần và không bao giờ quay trở lại.

Lúc nào Hajime cũng ở bên cạnh tôi, lặng thinh, buồn bã, và như luôn trong suốt khi ở cùng tôi.

***

Mùa hè đó, tôi vừa tốt nghiệp cao đẳng mỹ thuật ở Tokyo và quay trở về thị trấn quê nhà.

Cửa hàng bán kem đá bào tôi mở buôn bán khá phát đạt.

Thật ra tôi vốn định sẽ chuyển về phương Nam sống sau khi tốt nghiệp. Để chuẩn bị cho cuộc di cư, mùa hè năm ngoái tôi đã đi du lịch ở hòn đảo ấy.

Trái với Nishiizu nơi tôi đã sống, hòn đảo phía Nam có cảnh sắc thật hùng vĩ. Sau khi thuê xe, một mình lái tùy hứng khắp đảo, tôi bị cái nóng và phong cảnh lần đầu nhìn thấy chinh phục hoàn toàn. Tôi lập tức mơ mình sẽ sống hẳn ở đây, làm một cái gì đó.

Khi người ta mơ mộng, tất cả mọi thứ đều náo nức tươi vui như thể đang yêu. Tôi cứ mang mãi tâm trạng lâng lâng xao xuyến đó trong suốt thời gian nghỉ lại đảo.

Màu xanh của núi luôn đậm đặc, ánh nắng gắt buổi chiều tà đầy uy lực như gột rửa sạch tinh mọi thứ trong ngày. Làn khói tuyệt đẹp như sương vắt nhẹ trên mặt nước, biển lúc nào cũng âm ấm dịu mềm với làn da.

Những cây vạn tuế mọc nơi đó cũng làm tôi choáng ngợp. Bóng chúng in trên nền trời trông như bức tranh cắt giấy. Mớ quả tròn màu cam rực cháy chen nhau vươn đến tận trời xanh, lá chĩa thẳng nhọn hoắt, màu xanh cây vạn tuế hoang dại và đậm sắc hơn bất cứ loài cây nào. Có cảm giác khủng long sẽ chực nhào ra từ phía sau thân cây bất kỳ lúc nào.

“Thì ra tất cả những cây vạn tuế mình đã gặp đều chỉ là cây con!”

Tôi ngạc nhiên thầm nghĩ.

Rồi hình dáng thần thánh của những cây gừa mọc thật nhiều ven bờ biển. Chỉ cần mọc ở đấy thôi, chúng đã đẹp như những tác phẩm điêu khắc khổng lồ. Ngồi nghỉ dưới những tán gừa đan xen chằng chịt vào nhau, tôi có cảm giác thư thái như đang được sạc pin, như được ôm vào lòng. Những cây gừa đứng bên nhau toát lên bầu không khí tựa các linh hồn đang cùng trò chuyện.

Quyết tâm di cư của tôi cứ ngày một lớn lên như thế.

Thế nhưng vào một buổi chiều, một lần đi ăn đá bào tại bãi biển ở xa đã làm đảo lộn tất cả.

Tôi vốn thích đá bào đến bất thường, vì vậy khi đọc thấy trong cẩm nang du lịch rằng có món đá bào rất ngon ở cửa hàng đó, tôi đã quyết đi đến dù khá xa xôi.

Và rồi, có thể nói rằng một sự kiện tưởng chừng chẳng có gì to tát, theo một nghĩa nào đó lại trở thành sự kiện mang tính quyết định cuộc đời tôi.

Từ đường cao tốc đi bộ vào một chút, trước mắt tôi hiện ra thôn xóm với những nếp nhà vẫn nguyên như từ thuở xa xưa. Đường không được sửa sang mấy, những đứa trẻ nắm tay nhau chạy khắp khiến đất cát văng tứ tung.

Rất lâu rồi tôi mới lại được ngắm không khí nồng ẩm sáng lấp lánh trong buổi chiều nắng sau cơn mưa như vậy. Nếu không phải con đường đắp đất, hẳn sẽ không có bầu không khí ấy. Vũng nước nào cũng phản chiếu ánh sáng, lũ trẻ lội bì bõm qua những vũng nước vào nhà.

Quả thật ở một góc thôn có một cửa hàng đá bào nhỏ, một căn nhà gỗ màu sắc rất đẹp. Có thể thưởng thức món đá bào chua chua ngọt ngọt với nước cam hoặc chanh leo tự nhiên rưới lên trên với giá 200 yên. Tôi không kiềm chế được, đã gọi cả hai loại và tận hưởng vị ngon mộc mạc ấy cho đến khi bụng õng nước.

Trong lúc tôi đang ngồi tại bàn, vừa ăn đá bào vừa ngắm biển, có mấy cô bé cỡ chừng học sinh tiểu học nắm chặt mấy đồng xu trong tay chạy đến, các em ngồi xúm xít bên nhau trên ghế băng cùng ăn đá bào. Các cô bé vừa đung đưa những đôi chân trần đen bóng, mặc những bộ quần áo hơi quá khổ - chắc là đồ để lại từ chị gái hay chị em họ - vừa mải mê chuyện trò và say sưa ăn đến tận miếng cuối cùng, cảm xúc của các bé như lan tỏa đến tận nơi tôi.

Và ở phía sau cửa hàng ấy, có một con đường với hàng cây phúc.

Bà chủ quán đá bào vừa cười vừa nói:

“Chỉ cần đi một vòng quanh đây là tâm trạng có thể trở nên vui tươi đấy. Như thể có thứ gì đó gột rửa cho ta vậy. Thế nên ăn đá bào xong cháu đừng về vội, hãy đi thử một vòng xem sao.”

Sau khi cơ thể đã mát lạnh và mồ hôi ráo hẳn nhờ hai suất đá bào, tôi đi theo sau bà qua suốt con đường với hàng cây phúc như được chỉ. Đi trên con đường nhỏ ấy, cảm giác cơ thể được vuốt ve bởi một thứ màu sắc dịu dàng nào đó. Chúng tôi len lỏi dưới sắc lá dày dặn, chậm rãi đi bộ dưới những tán cây mạnh khỏe, đâm chồi kín đặc mà nghe đồn chính vì thế giúp bảo vệ nhà dân khỏi hỏa hoạn, như thể đang vượt qua đường hầm thời gian.

Đi hết con đường, biển dịu dàng trải rộng trước mắt. Trên bờ cát nhỏ hiền hòa vẫn còn thấp thoáng bóng khách đi tắm biển. Màu của những mái dù và những chiếc phao bơi hiện lên tươi tắn.

Đó là cảnh tượng một bãi tắm biển yên ả hệt như thuở xa xưa.

“Cô yêu khung cảnh này nên cuối cùng đã quay trở về đây.”

Bà chủ quán cười nói. Dưới làn da đen cháy và cái tâm tiếp đón khách hào sảng đó là một tấm lòng yêu quê hương tha thiết.

Tôi cảm thấy như bị giáng mạnh một cú.

Ra vậy, thì ra là vậy.

Đối với tôi, cây vạn tuế, cây phúc, cây mía và cả cây gừa đều rất lạ lẫm và mới mẻ. Tôi không ngớt mắt ngắm nhìn chúng mê mải, tôi say sưa với chúng như thể đang yêu.

Thế nhưng, giống như người phụ nữ này quay trở về đây với bãi biển và hàng cây phúc, nơi mà trái tim tôi luôn hướng về, mặc dù hơi u ám, không đâu khác chính là khung cảnh và những loài cây phản chiếu ánh mặt trời của Nishiizu ấy.

Hãy cứ thử về nơi ấy một lần, đúng rồi, mình thích đá bào đến như vậy không chừng vì đó chính là thiên chức của mình. Từ khi còn nhỏ tôi đã thích đá bào đến bất thường, tôi thường lén bố mẹ một ngày ăn đến ba ly. Thậm chí những năm đại học tôi còn mua máy làm đá bào, thường hay bào đá rồn rột tại phòng mình và ăn cả trong mùa đông.

Chính vì vậy, có thể coi món đá bào thưởng thức ở hòn đảo phía Nam đã quyết định cuộc đời tôi như một định mệnh.

“Mình đã học ngành sân khấu tại trường mỹ thuật nhưng rốt cuộc cũng chẳng thấy hứng thú lắm. Điều duy nhất mình có thể tự mãn trước mọi người, chắc chỉ có mỗi việc ăn bao nhiêu đá bào cũng không ngán mà thôi. Vì vậy, mình cũng sẽ mở quán bán đá bào.”

Suy nghĩ đó ngày càng trở nên đau đáu trong tôi, tôi cứ có linh cảm chắc chắn mình sẽ làm được.

***

Sau khi trở về, tôi nhận ra thị trấn quê nhà tàn lụi nhiều hơn mình từng hình dung.

Thỉnh thoảng về thăm một nơi với bắt đầu sống hẳn ở đó là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.

“Những người dân ở đây đã mất hứng thú với thị trấn rồi.”

Tôi có cảm giác như vậy.

Thị trấn đã dần dần lụi tàn từ rất lâu trước đó, vậy mà tôi - dù thường xuyên về thăm quê - lại không nhận ra.

Có lần lái xe đến thị trấn bên cạnh nằm bên kia đèo, tôi mới giật mình để ý.

Thị trấn ấy thu hoạch được số lượng lớn cua nhện, một đặc sản nổi tiếng, được phát sóng trên ti vi, do đó khách tham quan lũ lượt kéo đến, các quán cua của ngư dân buôn bán phát đạt hơn, các nhà trọ bình dân cũng nhộn nhịp, bên bến cảng thuyền bè đậu kín, trên đường lúc nào cũng đông đúc những người… Thị trấn ấy là một nơi như thế.

Ăn cua xong, bước ra đường, nỗi tiếc nhớ quê hương đã đánh gục tôi - người hiểu thấu trong từng hơi thở cái cảm giác nhộn nhịp ấy.

Đúng vậy, thị trấn quê hương tôi trước đây cũng mang lại cảm giác hệt như vậy. Có cảm tưởng góc nào cũng trù phú, người đi lại không dứt trên đường, ai ai cũng làm việc đầy hứng khởi. Ấy vậy mà chỉ bởi vì không có cua nhện mà thị trấn đã tàn lụi hoàn toàn.

Đến khi nhận ra thì tại thị trấn của tôi, hai bên đường các cửa hiệu đã đua nhau đóng cửa, những cánh cửa đóng im ỉm ngay từ buổi chiều ngày một nhiều hơn.

Nhìn những cửa hiệu ấy bị nung nóng rực sáng lóa dưới ánh nắng, cảm giác tựa như đây là chốn hoang phế thực thụ, những cửa hàng thi thoảng mở cửa lại càng tô đậm hơn vẻ tàn lụi u sầu.

Những nơi còn nhộn nhịp chỉ có siêu thị lớn thuộc chuỗi siêu thị nổi tiếng, các cửa hàng tiện ích và hiệu thuốc mà thôi.

Người trẻ thì lũ lượt rời quê lên Tokyo và những đô thị lân cận. Tôi vốn đã ít bạn, giờ thì những người đồng trang lứa mà tôi biết có thể nói không còn lại mấy ai. Số người cao tuổi tăng nhanh, có rất nhiều hộ gia đình chỉ còn toàn người cao tuổi. Thậm chí người ta còn xây viện dưỡng lão, thu hút cả người cao tuổi ở tỉnh khác đến sống.

Rồi ở sườn núi các khách sạn cao cấp liên tục được dựng lên, họ xây những bể tắm lộ thiên cho từng phòng, dù là nước nóng pha tạp nhưng cũng kiếm khá. Những người giàu đến đó chỉ ở lì trong phòng không bước một bước ra phố, khiến tôi thầm nghĩ nếu như vậy thì đi du lịch ở đâu mà chẳng như nhau. Nếu chỉ cần ngắm biển từ cửa sổ thì ở đâu mà chẳng được.

Hãy xuống núi, mặc áo kimono mùa hè, đi guốc mà dạo bộ; dạo phố mua đồ và ăn uống; hãy nhìn những tấm lưới mà ngư dân phơi; ngắm những loài cá biển hiếm có còn sống được bày bán tại hợp tác xã ngư nghiệp… Tôi nghĩ trong đầu như vậy, nhưng vì thị trấn hầu như chẳng có gì quý hiếm nên những người giàu chỉ nghỉ lại trong phòng một ngày, ăn uống rồi cứ thế bỏ về. Mọi người quá bận rộn, quá mệt mỏi, khó có thể thong thả tham quan thị trấn như ngày xưa.

Ngày xưa… Thị trấn này có cả quán ăn bình dân, rạp múa thoát y và cả trường bắn. Nơi đây đã từng là khu du lịch lớn hiếm hoi của cả vùng, bầu không khí luôn khiến con người ta náo nức dù là ban ngày hay đêm tối.

Tôi thường được bố mẹ dẫn đi chơi, dùng đôi tay nhỏ bé của mình ấn những viên đạn làm từ nút bần vào nòng súng và nhắm bắn. Mỗi khi bắn rơi được con búp bê thạch cao có hình dáng kỳ quái không xinh đẹp cho lắm, tôi lại ôm vào lòng rất trang trọng và mang về nhà. Dù con búp bê ấy vừa rẻ tiền vừa chẳng thuộc gu của tôi, nhưng cứ nghĩ mình đã giành được nó, tôi lại thấy nó xinh xắn không nỡ đem vứt.

Lễ hội pháo hoa được tổ chức rất hoành tráng vào mùa hè hằng năm, mọi người trong thị trấn cùng khách du lịch tụ tập bên bờ biển. Tiếng pháo nổ lớn vang xa trầm bổng khắp biển đêm. Những chùm pháo hoa được phóng lên ngang tầm mặt biển, phản chiếu xuống biển trông như được tách làm đôi. Biển đêm rung rinh soi bóng sắc màu chân thật, bừng sáng êm dịu mượt mà.

Có cả tàu du lịch chạy vòng quanh vịnh. Khách lên tàu được chọn một món đồ uống trong thùng lạnh rồi ngồi tại vị trí tùy thích trên tàu. Khách vừa nghe lời thuyết minh phát ra từ loa vừa tận hưởng cảm giác trôi trên biển trong tiếng động cơ và những đợt gió vờn gò má.

Vào buổi tối, các cửa hàng bán đồ ngọt và dưa hấu rộn rã đến tận khuya, người lớn thì uống bia, trẻ em ăn đá bào hoặc chè hoa quả thạch rưới mật, ai cũng hân hoan cho tới tận đêm muộn.

Khách sạn nằm ở rìa bãi biển có bể bơi mở cửa cho tất cả mọi người, những cây cọ vươn cao sừng sững. Nhạc Hawaii được phát, bên thành bể bơi bia và đậu nành luộc muối bán đắt như tôm tươi.

Và rồi, những thứ như vậy, tất cả đều biến đi đâu mất hút.

Mỗi lần về quê, chứng kiến khách sạn ấy ngày một tiêu điều rồi biến mất, trái tim tôi như thể bị bóp nghẹt.

Ở đó có thật nhiều kỷ niệm. Lần đầu tiên tôi biết bơi cũng là ở đó, tôi đã nằm ngửa trên làn nước và cứ thế ngắm nhìn hàng cọ. Tôi đã cùng cả nhà đến đó ăn trưa, bơi ở bể bơi và trở về dưới bầu trời đêm trong một cơ thể mát rượi.

Tôi có cảm giác cả những kỷ niệm đó cũng đang bị thứ gì đó giày xéo lên.

“Thứ gì đó” ấy, chắc chắn, là tiền.

Chính vì những đồng tiền được sử dụng không có tình yêu mà thị trấn này mới trở nên như vậy… Tôi có cảm giác như thế.

Dòng tiền đột ngột được bên ngoài trút vào đã cuốn phăng đi những thứ xinh xắn mà người dân ở đây sáng tạo ra, nó cũng cuốn đi cả những thứ nhỏ bé vốn được mọi người trân trọng.

Dường như sau tất cả, chỉ còn lại cảm giác thê thảm.

Thế nhưng tôi không có ý định kêu gọi phong trào phản đối, hay kiện tụng gì lên thống đốc tỉnh. Tôi chỉ luôn thắc mắc, tại sao không có sự chuyển giao đàng hoàng giữa các thế hệ? Dường như việc dốc hết tâm sức vào thị trấn yêu thương của mình đã bị dừng lại đột ngột rồi từ bỏ bởi một ai đó từ một thời điểm nào đó.

Dù tôi đã trở về, nhưng những thứ tôi quen thuộc và trân trọng đều đã mất đi cả rồi. Tự dưng cảm giác cô độc xâm chiếm lấy tôi, tôi cứ sững sờ như chàng tiều phu Urashima Taro trở về từ đáy biển.

Cái cảm giác nhung nhớ cứ từng hồi từng hồi cuộn lên trong tôi, tựa như một người bị thất tình.

***

Nhưng cứ u sầu trước sự thay đổi to lớn ấy cũng chẳng ích gì, chỉ còn cách hành động thôi. - Tôi đã nghĩ như vậy.

Và rồi tôi đã mở một hàng đá bào nhỏ dưới bóng thông giữa con đường dài nối từ bãi biển vào khu phố, đúng như nguyện vọng của mình.

Đó là một công viên trồng rất nhiều cây thông dọc theo bờ cát, vào mùa hè các gia đình trải bạt dưới bóng cây rồi xuống bơi ở biển ngay trước mặt. Nơi đây là một miền yên tĩnh với quả thông rơi thật nhiều, khiến con người cảm thấy ánh nắng chói chang cũng trở nên dịu nhẹ.

Tôi thương lượng với tất cả các gia đình từng mở cửa hàng ở đó và nay đã dẹp tiệm, tìm nơi cho thuê giá rẻ.

“Cô có thể dùng chỗ đó.” Một bà cụ trước đây mở hàng bánh kẹo tạp phẩm đã đồng ý cho thuê lại gian nhà kho ở mé ngoài với giá một vạn yên một tháng. Đổi lại, bà nhờ tôi bày bán luôn cả tranh và búp bê do bà tự làm từ đồng 5 yên, khiến tôi cứ phải hết sức vất vả kiếm cách từ chối mà không làm bà cụ phật ý. Khi tôi đề nghị được xem thử sản phẩm rồi sẽ quyết định, bà đưa ra nào là thuyền buồm, nào là lật đật sáng chóe. Cùng là người trong thị trấn, nên thành ra thỏa thuận sao cho không mất lòng nhau thật khó. Cuối cùng, nhờ có cô con dâu bà cụ thuyết phục hết lòng rằng “những người trẻ muốn tự tiến hành theo cảm quan của mình” mà vấn đề mới tạm êm xuôi, nhưng bà vẫn dúi cho tôi một con lật đật bảo để làm kỷ niệm, cũng coi như một thứ bùa may. Con lật đật đó giờ đây đang nghiễm nhiên đứng chói sáng trên bộ loa trong phòng tôi.

Thỉnh thoảng trong đầu tôi xuất hiện ý nghĩ “Nếu mình tháo rời con lật đật này ra không biết sẽ thu được bao nhiêu tiền nhỉ”, nhưng rốt cuộc tôi vẫn quyết định trân trọng gìn giữ nó vì tiếc công khó nhọc.

***

Quán của tôi chỉ rộng khoảng 10 mét vuông, tôi thì có thể ngồi mãi trong chiếc ghế da đẹp sửng sốt bố bảo không dùng nữa nên cho tôi sử dụng. Máy làm đá bào là loại máy quay tay, tôi được nhượng lại từ ông chú mở quán chè ở thị trấn ngày xưa, đã mang đi sửa lại. Nó có lịch sử lâu đời và vẻ ngoài trông cũng rất cổ kính. Đá viên thì đặt mang đến từ xưởng làm đá có từ xa xưa. Có mỗi cái tủ lạnh chứa những viên đá đó là đắt. Máy pha cà phê espresso do các bạn đại học của tôi chung tiền mua tặng. Còn lại tôi sửa sang từ những thứ có sẵn hay những thứ được cho và tự làm thợ mộc để lắp đặt. Tôi tự sơn màu, cũng tự vẽ menu. Cứ tôi đánh giá thì cửa hàng mình trông rất khá khẩm.

Từ xưa tôi đã luôn hoài nghi thứ phẩm màu lòe loẹt thường được rưới lên trên lớp đá bào. Vì cái vị ngọt ấy quá gắt, khó có thể ăn mấy ly một ngày được. Hơn nữa tôi bị ảnh hưởng khá nhiều bởi cửa hàng đá bào ở hòn đảo ấy, nên sau nhiều lần suy nghĩ và tìm tòi thử nghiệm, tôi đã tạo ra thứ xirô bằng đường mía có vị vừa đủ đậm.

Thực đơn chỉ có món “Đá bào trắng” gồm đá bào và nước xirô kể trên, “Đá bào quýt” dùng nước quả cô đặc từ loại quýt đặc sản, “Đá bào chanh leo” dùng nước quả đặt mua từ hòn đảo phía Nam để ghi ơn cửa hàng nhỏ đã tạo cảm hứng cho tôi, và “Đá bào Uji Kintoki” với trà xanh thành phố Uji và đậu đỏ Kintoki nổi tiếng. Tôi cũng có bán bia lon nhưng đồ uống chủ đạo chỉ bao gồm trà lúa mạch và cà phê espresso.

Tất nhiên vì là cửa hàng đá bào nên chỉ bán vào mùa hè… Ban đầu tôi dự định như thế nhưng cuối cùng lại nghĩ, sang mùa thu mình có thể làm thành quán cà phê espresso. Nếu làm một quầy bar theo kiểu Ý để mọi người dừng chân nghỉ ngơi uống thứ gì đó, không biết chừng cửa hàng sẽ được người dân trong vùng lui tới thường xuyên… Giấc mơ của tôi ngày càng nở rộng.

Trước cửa hàng tôi đặt hai bộ bàn ghế cắm trại mua hạ giá tại siêu thị nội thất, kèm theo dù che, tôi cũng đặt cả chiếc ghế băng tự mua ván về đóng. Ngoài ra tôi để sẵn một vài chiếc ghế gấp dự phòng.

Ban đầu tôi khá băn khoăn, vì cho dù có buôn may bán đắt nhưng tính giá rẻ thì chắc cũng không lãi mấy, thế nhưng dù sao tôi cũng sống cùng bố mẹ nên không lo thiếu ăn.

Tôi nghĩ dù sao đi nữa, giờ mình phải bắt đầu một cái gì đó ở đây. Mình phải yêu quê hương thêm một lần nữa.

Cũng có một vài yếu tố mệt mỏi khác như dân Yakuza trong vùng chẳng hạn, nhưng ở điểm này tôi đã khá khôn khéo, vì quen biết nhiều người nên tôi nhờ họ thương lượng giúp, cuối cùng các tay anh chị ấy cũng bỏ qua, coi cửa hàng của tôi chỉ như trò chơi đồ hàng con nít, thế là tôi vẫn được tiếp tục bán hàng mà không xảy ra chuyện gì.

Hơn nữa, chắc cũng chẳng ai nghĩ cái cửa hàng nhỏ xíu thô sơ này có thể làm nên chuyện gì. Cửa hàng của tôi không đến mức khiến mọi người phải nườm nượp xếp hàng, cũng không hề đạt doanh thu khủng.

Nói một cách văn hoa thì đây đúng là ước mơ đã thành hiện thực, nhưng thực tế hằng ngày là một chuỗi công việc rất tầm thường.

Chuẩn bị, dọn dẹp, lao động chân tay, chiến đấu với mỏi mệt. Chiến đấu với những bất an về tương lai. Cố gắng bỏ qua những điều đáng chán nhỏ nhặt, nghĩ về những điều tốt đẹp, cố gắng không tính trước những bận rộn không tính trước được, giải quyết thực tế các vấn đề ngay khi nó phát sinh… Không bắt được sóng của đài phát thanh nào phù hợp thì tự ghi đĩa CD để phát nhạc. Dù lười đến đâu cũng rửa ly tách thật cẩn thận. Giữ cho những chiếc khăn vải gai luôn trắng sạch.

Luôn đặt hàng đá viên nhiều một chút, bảo quản cách ly tuyệt đối sao cho không bị ám mùi khác. Hàng trăm lần bị hỏi kiểu như “Không có món đá bào nào khác nữa à? Như đá bào dâu chẳng hạn?” đều phải hàng trăm lần cười và trả lời “Xin thứ lỗi, cửa hàng chúng tôi không bán món đó.” Hằng ngày của tôi chính là cuốn theo những tiểu tiết như vậy. Đó chính là toàn cảnh về cái mà mọi người gọi là “ước mơ thành hiện thực”.

Tôi chọn mở hàng chủ yếu vào tầm trưa và chiều, tránh lúc nóng nhất, nhưng cứ giam mình trong một nơi nhỏ bé tối mờ, điều hòa hầu như không đủ mạnh và liên tục bào đá, thật là một việc vô cùng tầm thường. Tuy nhiên tôi vẫn luôn nhìn về phía bên kia sự tầm thường đó.

Tôi thường lên đường về nhà trước khi trời sẩm tối, cánh tay phải buông thõng vì quá mỏi do phải bào đá liên tục. Để về nhà, tôi phải đi bộ thật lâu dọc bờ sông về phía ngọn núi phía Bắc. Bên bờ sông có một cây liễu to đến mức khó có thể hình dung.

Cây liễu dang những cánh tay to xùm xòa, đung đưa hào phóng dưới bầu trời chiều. Cây liễu này đã có từ khi tôi còn bé. Những chiếc lá thuôn, mảnh dẻ rung rinh tràn xuống theo gió. Lúc nào tôi cũng cất lời chào cây liễu. Có một cây tỳ bà nhỏ mọc bên cạnh như sánh đôi cùng cây liễu. Những chiếc lá tỳ bà màu xanh lục đậm tương phản thật đẹp với sắc lá liễu nhạt.

Có rất nhiều chú cá chép đen đen bơi qua bơi lại, va vào nhau tại nơi dòng chảy cuộn xoáy, tạo cảm giác lòng sông kín đặc cá không còn chừa một chỗ trống.

Có thời điểm khi kinh tế phát triển cao độ, nước sinh hoạt từ sông chảy ra biển gây ô nhiễm. Thị trấn lập tức tiến hành cải tạo, nhưng tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt nước đầy những bọt khí màu cầu vồng. Vậy mà những chú cá chép vẫn sinh tồn được trong môi trường như vậy. Chẳng hiểu sao lại có cả đàn vịt đến sinh sống. Giờ đàn vịt không còn nữa, nhưng trước kia thường thấy những cái mông màu trắng ngúc nguẩy trong đám cỏ. Bao nhiêu giai đoạn đã trôi qua, sông vẫn ở nguyên đó không thay đổi.

Mỗi lần đi ngang qua đây, mỗi lần đứng dưới chân cầu ngắm ánh mặt trời chiều chiếu lên mặt biển, mỗi lần nhìn lên cây liễu đang rung rinh lòa xòa thật dịu dàng, tôi luôn có cảm giác chút ít tiếc nuối thời gian. Rồi đột nhiên thấy tim như thắt lại vì hạnh phúc. Đó chính là niềm hạnh phúc của người thật sự có một cõi riêng cho mình. A, quả là vậy. Mình đang thật sự điều hành cửa hàng của mình rồi. Cứ nghĩ như vậy lòng tôi lại ngất ngây như đang nằm mơ. Và tôi lại thêm nhuệ khí để ngày mai quay lại mở hàng.

So với chuỗi công việc vất vả, thì chính khoảng thời gian ngắn ngủi phút chốc ấy mới cho thấy vẻ lấp lánh thần bí của việc rõ ràng “ước mơ đã thành hiện thực”.