GA KODEMMACHO TÀU KHÔNG RÕ SỐ
Tôi nhìn thấy mặt hắn và nghĩ: ‘mình đã thấy thằng cha này ở đâu’"
Ken’ichi Yamazaki (25)
Anh Yamazaki là người thanh niên mà Ichiba đã thấy ngã khuỵu bất tỉnh ở trước ga Shibuya. Tìm anh có mất công, nhưng trong quá trình làm các cuộc phỏng vấn này, chúng tôi đã lần được theo nhiều đầu mối khác nhau.
Hoàn toàn ngẫu nhiên, Yamazaki từng cùng học trung học tại Kyoto với Yoshihiro Inoue ở Ban chỉ huy cấp cao Aum. Anh trông thấy mặt người bạn cùng lớp cũ trên tivi và nhận ra ngay. "Kìa, Inoue!" Anh và Ionue chưa bao giờ hợp nhau, và nói chuyện với anh ta thì sẽ dễ dàng thấy tại sao. Anh Yamazaki thích môn trượt tuyết, bóng rổ, các loại xe tốc độ cao (tuy anh nói gần đây đam mê này có nguội đi nhiều) và gần như là một típ người thể thao thoải mái; anh không có gì giống với Yoshihiro Inoue bí ẩn, hướng nội và thậm chí đa cảm thi ca. Từ lúc gặp Inoue trên xe buýt nhà trường, anh đã tự dặn mình, "Tay này không là bạn được. Cả nói chuyện cũng không." Mười năm sau ấn tượng đầu tiên tiêu cực ấy, ở trên tàu điện ngầm Tokyo xa xôi, những mối nghi ngờ của anh đã được xác nhận không mong đợi và kinh hoàng. Kỳ lạ thay những gặp gỡ của một đời người.
Là người mê trượt tuyết, cứ đến mùa đông thì ít nhất một tuần một lần, bất chấp có bận thế nào anh cũng tìm ra thì giờ lên các dốc núi cùng với cô bạn gái. Điều tốt đẹp duy nhất mà sau vụ đánh hơi độc mang lại là nó làm cho anh và cô bạn gái thêm gắn bó. Nó có vẻ đã bắt buộc anh trưởng thành mau chóng. Anh tò mò muốn biết Yoshihiro Inoue rồi sẽ ra sao.
Anh Yamazaki sống với bố mẹ và em gái ở Shin Urayasu, phía Đông vịnh Tokyo.
° ° °
Tốt nghiệp xong tôi tìm việc rất khó, mọi nơi đều thẳng thừng nói: "Không!" Tôi muốn làm trong lĩnh vực thiết kế thời trang nhưng các hãng lớn lại không tuyển ai cả. Vậy nên tôi quyết định thử sức ở các lĩnh vực khác – kiến trúc, viễn thông, bất cứ cái gì không dính đến thực phẩm. Cuối cùng tôi vẫn tay trắng hoàn tay trắng. Đó là năm sau vụ nổ bong bóng kinh tế Nhật, chẳng đâu có việc làm.
Không hiểu sao tôi lại xoay xỏa vào được ngành may mặc, làm ở đó cho tới tháng Ba vừa rồi. Tôi bỏ vì cảm thấy tôi chưa bao giờ tự thúc mình làm hết sức. Tôi thích việc gì đó khiến tôi được đánh giá cao hơn.
Tháng Mười vừa rồi, tôi nói điều này với bạn gái và cô ấy cũng quyết định bỏ việc nốt. Chúng tôi thế là thất nghiệp. Nhưng thực tế thì chúng tôi lại đến công ty của bố cô. Nó là một xí nghiệp nhỏ gồm 15 nhân viên. Chúng tôi làm cà vạt của đàn ông, được một hãng Ý nhượng quyền thương hiệu, với ba cửa hàng bán lẻ của chính mình ở Tokyo.
Bây giờ tôi bán hàng ở đó, như thế là nhất. Nhưng nó hoàn toàn là công việc của gia đình. Khi vào đây tôi đã ăn cơm tối với ông chủ tịch công ty – bố bạn gái tôi – và ông đã hỏi tôi. "Cậu có dự định lấy con gái tôi không đấy?" Tôi đang định cầu hôn cô ấy khi xây dựng xong bản thành tích của mình với công ty thì đấy, cơ hội lại hay thế chứ! [cười] "Dĩ nhiên rồi, thưa chủ tịch," tôi nói với ông, "Mai tôi sẽ lấy cô ấy ạ." Thì ông ấy nói, "Được rồi được rồi, hãy gác chuyện ngày giờ lại đã, nhưng cậu dứt khoát là người công ty chúng ta cần."
Ngày 20 tháng Ba, ngày xảy ra vụ hơi độc… Ừm, để xem nào, chúng tôi có bận không à? Chờ tôi một phút nhé. Tôi vẫn còn giữ quyển sổ Filofax ghi lịch làm việc từ ngày ấy (đi vào buồng lấy nó ra). Hừm, có vẻ chúng tôi bận thật. Mấy cửa hàng mới khai trương, cho nên tôi về nhà muộn, lúc 11 hay 12 giờ đêm. Vâng, đúng thế, những ngày ấy tôi còn đến trường học lái xe nữa.
Tôi bị lột bằng và đang cố xin cái mới. Tôi chạy xe phạm lỗi ba lần, hai lần vì quá tốc độ ở Hokkaido. Một khi ông đã bị lột bằng thì họ bắt ông vào trường học lại tất tần tật từ đầu.
Sáng 20 tháng Ba, tôi rời nhà sớm hơn thường lệ nửa giờ. Thứ Hai là phải vào sổ kết toán số liệu bán hàng những ngày cuối tuần. Cả họp hành nữa. Cho nên tôi dự tính sẽ đến vào quãng 8 rưỡi. Vì thế mà tôi xộc thẳng vào vụ đánh hơi độc. Nếu không phải là thứ Hai thì tôi đã thoát rồi.
Sáng ấy đầu óc tôi khá lơ mơ. Sau những ngày cuối tuần tôi thường như thế. Hôm trước, Chủ Nhật, tối tôi ra ngoài làm việc. Tôi đến một cửa hàng ở tận Machida để bàn việc với bộ phận bán hàng ở đấy, quyết định cách bố trí, thay đổi cách bày hàng. Những việc như thế này chỉ có thể làm được lúc cửa hàng đã đóng.
Hôm sau là ngày nghỉ lễ Xuân Phân nhưng tôi vẫn phải đi làm. Tôi phải đến lễ khai trương một cửa hàng mới trang trí lại ở Ginza. Ngành thời trang có vẻ như toàn là trình diễn, óng ánh lung linh nhưng kỳ thật ở bên trong thì gian nan lắm. Mà lương bổng cũng không cao như người ta tưởng.
Ở tuyến Hibiya, tôi thường lên toa thứ nhất hay thứ hai tính từ đầu tàu. Tôi vừa mới đổi tàu ở Hatchobori thì có thông báo, "Vài ba hành khách bị đau yếu. Chúng ta sẽ dừng tàu ở Tsukiji, ga sau. Xin cảm ơn các vị vì đã hợp tác." Khi đến Tsukiji, tàu đỗ và cửa mở thì – rầm – bốn người ngã đổ kềnh ra khỏi toa ngay sau toa tôi. Đổ thẳng ra khỏi cửa.
Một nhân viên nhà ga đi đến như thường lệ khi có người bị ngất nhưng ở đây họ lại đang cố vực người ngã dậy, điều này xem ra lạ. Đó là lúc bắt đầu nhốn nháo. Một nhân viên nhà ga hét vào micro. "Xe cứu thương! Xe cứu thương!" Rồi thì, "Hơi độc! Mọi người xuống tàu hết! Ra hàng rào soát vé rồi đi thẳng lên trên mặt đất."
Tôi không chạy. Tôi nghĩ sao phải chạy? Tôi gần như không tập trung. Tôi vừa xuống sân ga vừa nghĩ mình có nên ngồi xuống không. Thật tình tôi không để ý lắm. Cũng có những người khác nữa không chạy. Không có thông báo nào nói tàu sẽ lại khởi hành, nhưng cuối cùng thì mọi người đều đã nối hàng theo nhau đi ra. Chỉ đến lúc ấy tôi mới ngạc nhiên. "Thế ra ông bảo là tôi cũng phải đi à?" Rồi đứng lên. Tôi đại loại là người cuối cùng.
Chẳng ai có vẻ vội vã ra khỏi đây. Họ đi thủng thẳng. Các nhân viên nhà ga mới là những người hò hét nhiều hơn. "Xin đi nhanh lên! Ra ngoài!" Tôi không thấy được mối nguy hiểm nào. Không nổ hay cái gì cả. Nhân viên thì nhớn nhác hết cả lên trong khi hành khách lại đủng đà đủng đỉnh. Vẫn có những người nhởn nha trong nhà ga, cố quyết định xem làm gì.
Những người khuỵu xuống vẫn không cựa quậy. Họ ngất xỉu à? Hay là đã chết? Vài người chân còn trên toa mà người lại ở dưới đất, cần phải kéo họ ra. Tôi vẫn chưa cảm thấy nguy hiểm. Không hiểu vì sao. Nhớ lại chuyện này, thật lạ là sao tôi lại không sợ chứ? Nhưng lúc đó thì đâu có ai sợ.
Tôi không lại chỗ những người bị thương mà đi đến cửa ra của đền Tsukiji Honganji. Bất chợt một mùi ngòn ngọt, thật sự ngọt, như dừa vậy, xộc vào mũi tôi. Đang leo cầu thang, tôi nghĩ, "Cái gì thế nhỉ?" rồi dần dần thấy khó thở. Lúc ấy tôi nhớ ra là phải gọi điện cho công ty báo mình sẽ đến muộn. Có một cửa hàng xén ở gần cửa ra, tôi đã gọi điện ở đó. Nhưng vẫn còn quá sớm để gọi điện đến công ty nên tôi gọi về nhà. Mẹ tôi trả lời, tôi bảo mẹ, "Chẳng hiểu sao tàu lại đỗ ở Tsukiji nên con không đến sở làm đúng 8 rưỡi được."
Ngay trong lúc gọi cuộc điện thoại ngắn ngủi ấy, tôi đã khó thở rồi. Không phải như cổ họng tôi bị chẹn hay cái gì đó, tôi vẫn thở nhưng không nhận được đủ ôxy. Tôi hít, hít mãi nhưng tựa hồ phổi tôi không hoạt động. Lạ lùng. Giống như bị hụt hơi vậy.
Chỉ có lúc ấy tôi mới bắt đầu nghĩ có chuyện gì đó là lạ, rằng có thể nó có liên quan tới những người bị ngã trên sân ga. Gọi điện xong, tôi quay lại để nhìn tìm cửa ra, nơi tôi sẽ đi lên. Tôi thở hổn hển, nhưng tôi phải biết là đang xảy ra chuyện. Ngay lúc đó, vài người lính của Lực lượng Phòng vệ hay ai đấy có trời mới biết, đeo mặt nạ và thiết bị chiến đấu đặc biệt đi xuống cầu thang. Những nhân viên nhà ga đang được đưa lên bằng cáng. Trông họ hoàn toàn như bị dại: chảy dãi, mắt trắng dã. Một người trong họ không còn phản ứng với bất cứ thứ gì, một người khác hình như đang lên cơn, không thể đi thẳng người, đau đớn rên rỉ. Lúc ấy các con đường đã bị chặn, xe cảnh sát và xe cứu hỏa đỗ đầy trên quảng trường.
Tôi quyết định đi bộ đến ga Yurakucho, lên tuyến Yamanote đến Shibuya rồi đi xe buýt đến Hiro-o, nhưng càng đi tôi càng thấy tồi tệ. Lúc lên tàu chạy tuyến Yamanote, tôi cảm thấy như đã rồi đời. Làm gì cũng phải rất gắng sức. Mùi kia đã thấm vào quần áo tôi. Nhưng không hiểu sao tôi đã đi được đến ga cuối của xe buýt Shibuya. Tôi biết chắc là mình sẽ gặp một đồng nghiệp nào đó ở đấy. Nhiều người trong công ty tôi vẫn quen đi lại bằng xe buýt từ Shibuya. Nhưng nếu tôi ngã khuỵu xuống ở trên tàu thì sẽ không ai giúp tôi. Dù có phải bò ra thì tôi cũng phải đi đến bến đỗ của xe buýt tuyến Shibuya.
Tôi xuống tàu ở Shibuya, không hiểu sao đã xoay xở ra được đường và đến bến xe buýt, ở đó chân tôi không còn chút sức lực nào. Tôi ngồi bệt lên hè và dựa vào lan can, thẳng cẳng. Mới sáng ra chẳng ai trông lại thảm hại như thế, đúng không? Không ai trừ mấy tay xỉn, chắc thế. Vì thế chẳng ai nói gì với tôi. Họ thấy tôi ườn ra đó thì chỉ cho rằng tôi đã ăn chơi đập phá suốt đêm ở Shibuya.
Cuối cùng một người cùng công ty cũng bước tới nói chuyện với tôi, nhưng tôi không nói được. Hầu như không thở được nữa. Giọng nói của tôi như của một gã say mà lưỡi đã líu cứng lại. Muốn gì tôi cũng không thể chuyển ý nghĩ của mình thành lời. Tôi cố nói nhưng không cái gì lọt qua miệng. Tôi chỉ muốn được giúp đỡ, bất cứ kiểu gì cũng được, nhưng do không thể giải thích nên hình như không ai hiểu. Tôi đang lạnh run lên, càng lúc càng rét, không chịu nổi. Rồi một đồng nghiệp lớn tuổi hơn [Takanori Ichiba] đi qua và cứ y như là số phận muốn thế, anh ấy cũng lại đi tuyến Hibiya. Anh ấy hỏi tôi, "Kìa, có phải anh bị dính phải vụ ở Tsukiji kia không?" Anh ấy đã thấy ra vấn đề.
Tôi rất là may. Nếu không nhờ có anh thì không ai biết sự tình sẽ nghiêm trọng ra sao. Anh lập tức điện thoại gọi xe cứu thương nhưng tất cả các xe cứu thương đều đã được gọi đi. Vậy nên anh vẫy taxi, cùng hai đồng nghiệp nữa nhấc tôi vào xe. Chúng tôi lên cả xe và đến Bệnh viện Chữ thập Đỏ ở Hiro-o. Trên xe, một người nói, "Cái mùi gì ngòn ngọt như thế nhỉ?" Quần áo tôi thấm đẫm sarin.
Thở là cực nhọc nhất nhưng ngoài thế ra tôi còn cảm thấy tê bì toàn thân và không thể mở mắt, tựa hồ sức lực đã bị rút hết ra khỏi người và tôi đang trôi dạt vào một giấc ngủ li bì. Tôi thật lòng nghĩ mình đang sắp chết. Tôi không động đậy được. Nhưng tôi không sợ. Không thấy đau, tôi nghĩ, "Chết già có lẽ cũng giống kiểu này đây. Nếu tôi chết thì ít nhất cũng phải cho tôi nhìn thấy mặt bạn gái chứ." Còn hơn cả bố mẹ tôi, cuối cùng cô ấy là người tôi nhớ đến đầu tiên. Giống như câu hát, "Nói với nàng rằng tôi muốn nhìn mặt nàng" vậy.
Tôi không nhớ phải mất bao lâu những người đồng nghiệp mới tìm thấy tôi nhưng tôi nhớ rõ là đã rất điên tiết với tất cả những ai vờ không trông thấy tôi nằm đó. Bố láo! Con người mà sao có thể lạnh lùng đến như thế? Một người đang hấp hối ngay trước mắt họ mà họ không nói được cho một lời. Họ chỉ lảng tránh. Nếu ở vào địa vị họ, tôi đã nói gì đó. Nếu có ai có vẻ đau ốm trên tàu, tôi luôn nói, "Ông/bà/anh/chị ổn chứ? Có muốn ngồi không?" Nhưng phần lớn người khác thì không – tôi thật sự hiểu ra điều đó theo một cách khá khổ sở.
Tôi nằm bệnh viện hai ngày. Họ bảo tôi nằm lâu hơn nhưng tôi cảm thấy mình như con chuột lang để họ thí nghiệm một loại bệnh hiếm nên tôi về nhà. Bác sĩ nói, "Anh nên ở lại đây để chúng tôi có ví dụ tham chiếu cho các trường hợp khác giống anh." Không, xin cảm ơn! Trên tàu về nhà, tôi vẫn khò khè, nhưng tôi cứ muốn về nhà, ăn một cái gì ngon và thoải mái. Khá là lạ, tiêu hóa của tôi không bị ảnh hưởng. Dù vậy tôi đã không đụng đến thuốc lá và rượu từ lâu.
Tình trạng thẫn thờ ngơ ngẩn kéo dài chừng một tháng. Tôi nghỉ việc một tuần nữa nhưng trong một thời gian rất dài thể trạng của tôi vẫn chưa phục hồi hẳn. Tôi còn khó thở và không thể tập trung vào công việc. Khi bán hàng, tôi phải nói như lúc này đây – nhưng vấn đề là muốn nói cái gì tôi cũng phải gắng sức – a a a – để thu được đủ ôxy vào phổi. Lên thang gác thì thôi rồi. Tôi thường phải xin nghỉ việc. Tôi không đủ sức bán hàng.
Thật thà mà nói, với tôi nếu nghỉ ốm mà vẫn được hưởng lương thì sẽ tốt hơn nhưng công ty không thể hào hiệp như vậy. Vẫn tám tiếng cộng làm ngoài giờ như thường lệ. Như thế gay cho tôi nhưng tôi cho rằng ở một mặt nào đó cũng có những cái thú vị cho người khác. Theo kiểu nhiều lúc cũng buồn cười. Tôi gặp khách hàng và họ bảo tôi, "Yamazaki, tôi nghe nói anh nhiễm độc sarin." Mọi người đều biết. Tôi cố không nghĩ nhiều quá về chuyện đó, nhưng cái ức nhất là không ai thật sự hiểu điều tôi trải qua. Tuy vậy, chuyện tôi thay đổi công việc không liên quan gì đến vụ đánh hơi độc.
Ngay cả bây giờ tôi cũng không thể tập thể dục quá căng. Tôi từng có thể trượt tuyết hai giờ liền không nghỉ nhưng nay nhiều nhất là một giờ rưỡi.
Sau khi ra viện về, một dạo khi bị khó thở, tôi phải dùng bình ôxy. Ông biết đấy, giống như một loại bình các cầu thủ bóng chày vẫn dùng ở sân vận động Mái vòm Tokyo. Không to hơn bình xịt thuốc diệt côn trùng. Bạn gái tôi mua cho tôi.
Với tôi điều tốt đẹp duy nhất mà vụ đánh hơi độc mang đến là tôi đã hiểu bạn gái mình hơn. Trước lúc ấy, chúng tôi cãi nhau suốt. Chúng tôi không thật sự quan tâm đến cảm xúc của nhau. Tình cảm của cô ấy với tôi thế nào, tôi không chắc lắm. Cho nên tôi thật sự ngạc nhiên khi cô ấy khóc như mưa nhào đến bệnh viện. "Em cứ nghĩ là anh chết mất thôi," cô ấy nói, thật sự suy sụp. Lúc đó sếp tôi vẫn ở cạnh tôi, và trước sự chứng kiến của ông, cô ấy nắm chặt tay tôi không buông. Ngày nào cô ấy cũng đến bệnh viện và khi tôi ra viện về nhà, cô ấy lại đến thăm tôi. Ở công ty, chúng tôi vẫn giữ bí mật mối quan hệ này cho nên được cô ấy siết chặt tay ở ngay trước mặt sếp thì… [cười] Điều đó thổi bay tấm màn che chuyện của chúng tôi!
Tôi học cùng lớp với Yoshihiro Inoue ở trường trung học Rakunan tại Tokyo. Chúng tôi không chọn cùng môn học, chỉ học cùng khối. Chúng tôi cùng đi xe buýt từ bến Hankyu Omyia tới trường cho nên tôi biết hắn khá rõ. Một bạn tốt của tôi cũng chọn cùng môn học với Inoue vì thế chúng tôi đi học với nhau. Tôi không thân thiện với hắn bao giờ.
Thế nhưng tôi vẫn nhớ hắn như in. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là hắn lập dị đến khó tin. Kỳ quặc. Có cái gì cay nghiệt. Tôi không thích hắn ngay từ đầu. Vì thế tôi không nói chuyện với hắn. Chỉ nói chuyện vài câu là ông có thể thấy ngay mình có hợp với ai đó hay không: tôi thì, đúng thế, tôi không chơi được với hắn. Tôi nghe anh bạn kia chuyện trò với Inoue và nghĩ, "Cha này làm mình sợ." Chưa hết những năm đầu trung học tôi đã chuyển tới một trường ở Tokyo, nhưng sau này nghe các bạn nói Inoue đã tọa thiền ở ngay trong lớp, hàng giờ liền.
Tôi có nhiều bạn. Tôi mê xe đạp. Tất cả bọn chúng tôi đạp xe ra ngoài. Tôi thích ở ngoài trời nhưng Inoue thì không.
Khoảng hai tuần sau vụ đánh hơi độc, khi họ đưa bọn Aum lên báo và tivi, tôi đã nhìn mặt hắn và nghĩ: "Mình đã thấy cha này ở đâu rồi." Tôi gọi điện cho bạn học cũ thì cậu ấy nói: "Ừ, Inoue, đúng thế."
Tôi cáu điên lên. Tôi nhớ lại cảm giác khó chịu hồi ở trường trung học. Quả thật là tôi phẫn nộ. Tôi đã chuyển trường nhưng tôi vẫn có chút tự hào với ngôi trường cũ. Tôi không thể tin người nào tốt nghiệp ở Rakunan lại có thể làm một việc kinh khủng như vậy. Một cú sốc, một nỗi thất vọng lớn.
Tôi vẫn để mắt hóng tin tức về hắn. Tôi chỉ muốn biết họ sẽ làm gì với hắn, muốn biết cái tính gọi là chân thật của hắn nhiều được đến đâu.
"Anh ấy tốt như thế đấy. Dường như trước khi chết còn tốt hơn"
Yoshiko Wada (31)
vợ góa của anh Eiji Wada
Cô Wada đang mang thai thì chồng mất. Không lâu sau, Asuka, một cô con gái, ra đời. Sau vụ hơi độc, cô Wada hay xuất hiện trên truyền hình và nay nhiều người Nhật đã biết mặt cô. Trước khi gặp cô, tôi đã lướt qua khắp các bài báo và tạp chí có thể tìm thấy, nhưng sự khác nhau giữa hình tượng tôi tưởng tượng ra với con người mà tôi gặp thật sự đáng ngạc nhiên. Dĩ nhiên hình tượng kia thuần túy là do cá nhân tôi tạo ra và ở đây không có ai đáng trách, nhưng chuyện này khiến tôi phải ngưng lại mà nghĩ đến cách làm việc của giới truyền thông – cái cách họ dựng lên bất cứ hình tượng nào họ muốn.
Yoshiko Wada thật (đối lập lại với hình ảnh do giới truyền thông sáng chế ra) thì rạng rỡ, nói năng rành mạch, thông minh. Dùng chữ "thông minh", tôi muốn nói là cô chọn chữ nghĩa cũng thận trọng như lựa chọn cách sống vậy. Tuy tôi chưa hề gặp người chồng quá cố của cô, nhưng bằng cách nào đó tôi vẫn biết rằng người đã chọn cô làm bạn đời thì hẳn phải là một tay được lắm.
Với cô, cú sốc trước cái chết của chồng ắt phải rất lớn. Tôi ngờ là chẳng ai lại có thể hồi phục hẳn sau một chuyện như thế. Nhưng suốt ba giờ phỏng vấn, không lần nào cô để mất phong độ và nụ cười. Cô luôn trả lời cởi mở, dù câu hỏi của tôi có tế nhị đến đâu, và chỉ một lần để mình rơi lệ, vào lúc cuối. Tôi xin lỗi đã khiến cô phải chịu đựng nhiều đến vậy.
Cô gặp tôi, trên tay bế Asuka và sau đó tiễn tôi đến tận sân ga. Đường phố gần như vắng tanh dưới cái nóng mùa hè. Đi ra ngoài, cô nom giống y như các bà nội trợ ngoại thành khác, hạnh phúc, trẻ trung. Câu nói lúc chia tay của tôi khá vụng về, "Xin giữ gìn sức khỏe và sống vui vẻ" hay đại khái thế - tôi không nghĩ ra được gì khác để nói. Có những lúc lời nói thật vô dụng, nhưng là nhà văn, tôi chỉ có lời nói mà thôi.
° ° °
Tôi sinh ra ở Kanagawa [Tây Nam Tokyo] nhưng nhà tôi chuyển đến Yokohama [Nam Tokyo] từ hồi tôi học tiểu học rồi sống ở đó đến bây giờ. Tôi đi học ở Yokohama, làm việc ở Yokohama. Tôi là người Yokohama cho nên dĩ nhiên là tôi yêu nơi này. Năm ngoái khi tôi có con, tôi còn sống một thời gian dài ở nhà bố mẹ chồng ở Nagano. Không khí trong lành hơn, thay đổi hoàn toàn về môi trường, thật là tuyệt đủ đường, nhưng khi trở về đây tôi đã vui đến phát khóc lên.
Phần lớn bạn bè tôi đều ở đây, Yokohama. Bạn thời trung học, bạn cùng làm việc, bạn trượt tuyết, phải đến mười năm rồi… Bạn bè thật sự giúp tôi nhiều. Họ nay đều đã lập gia đình nhưng chúng tôi vẫn thỉnh thoảng tụ tập lại ăn thịt nướng hay đi chơi bowling hay gì đó.
Khi học xong trung học, tôi đi làm thư ký cho Cơ quan Tiết kiệm và Vay nợ Yokohama. Lấy chồng là tôi thôi việc ngay. Trước đó tôi sống với bố mẹ. Tôi là con một nhưng tôi luôn tranh cãi với bố mẹ, đặc biệt là bố. Về những cái lặt vặt vớ vẩn, thật sự thế. "Bố nói thế mà," "Không, bố không bao giờ nói thế!" [cười] Tôi khá ích kỷ. Giờ tôi đang sống với bố nhưng không cãi nhau nữa.
Tôi gặp chồng tôi khi đang trượt tuyết. Một cô bạn của tôi có bạn trai làm ở Công ty Thuốc lá Nhật Bản và tình cờ anh ấy lại rủ chồng tôi đi cùng. Đó là vào tháng Hai năm 1991.
Chồng tôi thực sự thích trượt tuyết. Lúc 20 tuổi tôi mới bắt đầu trượt tuyết cho nên trình độ tôi không bằng được anh. Nhưng tôi vẫn đi trượt tuyết, có lẽ mỗi mùa năm lần. Dù bố mẹ không muốn cho tôi đi. Các cụ bảo nguy hiểm lắm. [cười] Các cụ quá bao bọc con cái. Tôi bị giới nghiêm đến tận 25 tuổi. Mười giờ là phải về nhà. [cười] Đôi khi về muộn tôi bị khóa cửa, cuối cùng phải sang nhà bạn ngủ nhờ. Nghĩ lại lúc đó tôi cho rằng mình đã quá hư. Nay có con rồi, tôi biết, bố cáu vì bố quan tâm.
Bốn năm trước mẹ tôi chết vì ung thư vú. Nó di căn ra khắp cơ thể. Bố nghỉ việc để ở bên mẹ. Bố đau khổ, tôi biết. Nhưng ngay cả lúc ấy, bố và tôi vẫn cãi nhau liên tục. Bây giờ tôi thấy chuyện đó thật tồi tệ, nhưng khi đó đúng là tôi không kìm được. Mặt khác, cũng chính vì chúng tôi hay cãi nhau mà bây giờ chúng tôi thân nhau.
Bố bảo tôi đã thay đổi nhiều. Dịu dàng hơn một chút. Có thể tôi đã trưởng thành hơn. Asuka là lý do chính, chắc thế. Hễ cứ nhìn con bé là cho dù kiệt sức đến đâu tôi vẫn phải mỉm cười.
Nhớ lại những ấn tượng đầu tiên, chồng tôi có vẻ không giống với khi anh trượt tuyết. Không có chút sức hút nào. Anh đeo kính cận sau cặp kính bảo hộ to đùng. Tôi có nói chuyện với anh, nhưng cảm thấy như kiểu, "Tay này sao thế nhỉ?" Anh quá đỗi không thân thiện. Anh đúng là mải mê với trượt tuyết quá, chẳng bận tâm gì được đến ai. Anh không cho phép mình nghỉ trừ khi trượt tuyết thắng. Anh ít nói.
Nhưng một tối, khi chúng tôi ra ngoài uống, anh bất ngờ thay đổi hoàn toàn. Ý tôi là anh thật sự cởi mở, còn nói đùa nữa. Anh như một người khác. Chúng tôi ở lại khu trượt tuyết ba ngày, nhưng không hề gần gũi riêng, tuy có lẽ chúng tôi có cuốn hút nhau.
Thật lòng mà nói, khi tôi gặp anh lần đầu tiên, bản năng tôi mách bảo, "Đây là người mình có thể cùng hẹn hò, thậm chí còn lấy làm chồng được." Như kiểu, nói như thế nào nhỉ, trực cảm phụ nữ. Cho nên tôi nghĩ, "Cũng có thể cho anh ta số điện thoại nữa." Tôi khá là tự tin. [cười]
Cả hai chúng tôi cùng 26 tuổi và đều đã uống nhiều: bia, whisky, sake, vang, đủ kiểu. Anh thật sự muốn có một khoảng thời gian vui vẻ.
Chúng tôi gặp nhau nhiều sau chuyến đi trượt tuyết ấy. Anh sống trong khu ký túc xá độc thân ở Kawaguchi, cho nên nói chung chúng tôi hay gặp nhau ở đâu đó tại trung tâm Tokyo. Chúng tôi thường đi xem phim, gặp nhau hàng tuần và nếu có thể thì cả những ngày cuối tuần nữa.
Vâng, có vẻ thực sự chúng tôi sinh ra là để dành cho nhau. Giống như số phận hay gì đó. Chúng tôi hẹn hò một năm trời mà chưa lần nào tôi thấy chán.
Anh đã nói chuyện cưới xin với bố tôi còn trước cả khi nói với tôi. Anh bảo bố: "Cháu muốn xin phép bác được chính thức gặp gỡ Yoshiko, với ý định kết hôn với cô ấy." Dĩ nhiên tôi thích anh và mọi cái, nhưng việc anh và bố nói với nhau như thế trước khi tôi biết chuyện thật tình đã làm cho tôi khó chịu.
Chúng tôi lấy nhau tháng Sáu năm sau. Mẹ tôi mất hồi tháng Hai năm ấy nên chúng tôi phải chịu tang và hoãn đám cưới lại đến lúc đó. Chắc là khi ấy tôi thực sự muốn mặc váy cưới và mọi thứ. Chúng tôi dự định sống với bố tôi ở Yokohama sau khi cưới. Chúng tôi không muốn để bố phải thui thủi một mình… chính chồng tôi đã gợi ý như thế. Cho nên rốt cuộc ngày nào anh cũng phải đi tàu điện ngầm từ Yokohama đến Oji, mỗi lần đi về mất hai giờ đồng hồ. Ngày ngày anh rời nhà vào 6 giờ sáng. Hồi đó tôi cãi nhau với bố suốt và chồng tôi luôn phải hòa giải cho hai chúng tôi. Anh rất vất vả. Anh về nhà lúc 11 hay 12 giờ đêm, mệt tưởng chết đi được.
Chúng tôi sống với bố mười tháng rồi chuyển đến Kita-senju. Thế nào Thuốc lá Nhật Bản lại có nhà của công ty ở đó, nhưng như thế tôi lại phải mất một giờ rưỡi đồng hồ mới đến được chỗ làm ở Yokohama. Sau một năm đi lại, tôi mệt nhoài. Chồng tôi nói, "Sao em cứ hành hạ mình như thế chứ? Em cứ làm cái gì em muốn thôi."
Thế là tôi thành người nội trợ. Ba bữa ăn một ngày cộng giấc ngủ trưa à? Nếu ông hỏi thì tôi xin nói là không tồi. [cười] Có thể xem tivi cả ngày. Trước đây tôi không xem tivi ban ngày bao giờ, cho nên đầu tiên là tôi – vui! Và vào tháng Bảy, tôi có mang. Sống ở Kita-senju thật tuyệt. Nhiều cửa hàng, gần ga và khu nhà của công ty thì rộng rãi. Tôi cũng có bạn ở đấy.
Tháng Mười một năm 1994, chồng tôi được điều từ Oji đến nhà máy chính ở Shinagawa [gần Yokohama hơn] và anh phải làm việc trên công trường trụ sở chính họ đang xây dựng ở Toranomon [trung tâm Tokyo]. Tòa nhà dự định hoàn tất tháng Tư năm 1995 và anh phải trông coi công việc lắp đặt, xây dựng. Anh là chuyên viên điện, cho nên phụ trách hệ thống thang máy, đèn đóm và máy điều hòa nhiệt độ. Tôi có thể nhận thấy anh vui vì được thoát khỏi công việc bàn giấy.
Anh về nhà, vừa uống bia vừa kể chuyện về ngày làm việc của anh. Đó là lúc thú vị nhất, nghe anh nói về công ty, về các đồng nghiệp, như là "Có cha ấy, hắn thế này thế nọ, em bảo anh nên làm gì?" Phần lớn thời gian anh đùa nhưng đã vào việc là anh tập trung, thật sự nghiêm túc, đúng thế đấy. Anh rất đáng tin cậy.
Cả hai chúng tôi đều mong có con. Chúng tôi muốn khoảng ba đứa. Đặc biệt là tôi, có lẽ vì tôi là con một. Khi biết mình có thai tôi vui khôn kể. Chúng tôi đặt tên cho con trước cả khi nó chào đời. Tôi nghe thấy cái tên trong một giấc mơ. Tôi mơ thấy đứa bé chạy mất hút đi đâu đó và tôi đuổi theo, gọi ra cái tên ấy. Tôi không thể tự nhớ được nó nhưng chồng tôi bảo nghe thấy tôi hét, "Asuka! Asuka!"
Chúng tôi hiếm khi cãi nhau. Nhưng lúc có mang tôi dễ cáu. Tôi công kích anh vì những chuyện không đâu ra đâu nhưng anh dễ dàng bỏ qua tất cả. Thường là anh cười xòa. Anh ấy là kiểu người tốt như vậy. Dường như trước khi chết lại còn tốt hơn.
Nếu anh đi làm về mà cơm nước có gì không ổn thì anh đều nói, "Không sao, anh sẽ đi mua đồ ăn mang về." Anh còn hỏi quanh chỗ làm việc xem tôi có mang thì nên ăn gì. Anh thật sự chăm lo cho tôi. Buổi sáng, tôi thường bị mệt, chỉ ăn được bánh kẹp thịt sandwich và mứt nho, cho nên anh luôn nhớ mua cho tôi trên đường đi làm về.
Chủ nhật trước ngày 20 tháng Ba, chúng tôi đi mua sắm với nhau. Một việc anh ít khi làm.
Sáng hôm ấy trời mưa, chúng tôi nằm trong nhà ngủ, nhưng buổi chiều trời đã quang hơn nên tôi nói, "Mình đi mua sắm đi" và đó là lần duy nhất anh đáp, "Hay."
Chúng tôi đi mua quần áo, tã lót, các món như thế cho em bé. Lúc đó bụng tôi đã vượt mặt và tôi đi đứng khó khăn, nhưng bác sĩ luôn bảo tôi: "Vận động! Vận động! Vận động!"
Sau đó chúng tôi ăn tối. Anh nóng lòng được trở lại với công việc hôm sau. Anh đã nghỉ thứ Sáu, nhưng thời hạn hoàn tất trụ sở vào ngày 1 tháng Tư đã lấp ló trước mắt và ám ảnh đầu óc anh. Ngoài ra thì vào ngày thứ Hai ấy cũng có một buổi liên hoan đón tiếp gì gì đó mà anh đang trông chờ nữa.
Anh luôn xuống tàu ở Kasumigaseki trên tuyến Hibiya để đi đến sở ở Toranomon. Anh thường dậy vào lúc 7 giờ và rời nhà sau 7 rưỡi. Sáng đó anh dậy rất sớm, quãng 5 rưỡi. Thường tôi không có thì giờ làm điểm tâm cho anh nhưng tối hôm trước anh nói: "Đôi khi thức dậy được chiều bằng một bữa điểm tâm ra trò cũng hay." "Được, nếu anh ấy muốn vậy," tôi nghĩ và sáng hôm sau đã ép mình dậy thật sớm nấu nướng cho anh. Có vẻ anh thèm được chiều chuộng chút ít.
Tôi không phải là người dậy sớm. Tôi thường quên điểm tâm. Và anh cũng không dậy sớm nốt nên cứ luôn luôn là "Không sao", phút cuối cùng nháo nhào ra cửa, ăn vội ăn vàng trên đường đi làm. Nhưng sáng đó tôi để hai đồng hồ báo thức, dậy sớm, nướng bánh, pha cà phê, tráng trứng với xúc xích cho anh. Vui quá, anh hét lên: "U oa! Điểm tâm!"
Tựa hồ anh nhận thấy điềm gì báo trước. Tôi nhớ ngoài việc bảo tôi làm điểm tâm cho anh, anh còn nói đại khái cái gì như, "Nếu có chuyện gì xảy ra với anh thì em biết là em phải kiên cường chiến đấu nhé." Bất ngờ trước câu nói, tôi sững ra mà hỏi, "Cái gì khiến anh lại nói thế?"
Thì ra công ty anh có chế độ ca kíp mới, anh có thể sẽ phải ngủ liền hai đêm ở cơ quan. Sẽ có những ngày anh không về nhà cho nên anh muốn cầm chắc rằng tôi sẽ có thể tự lo mọi việc. Nhưng nếu anh ở lại sở hai đêm thì sẽ lại được những ba ngày nghỉ và như vậy anh có nhiều thì giờ hơn với em bé, một viễn cảnh dễ chịu.
Anh rời nhà khoảng 7 rưỡi. Tôi biết anh bắt chuyến 7 giờ 37 của tuyến Hibiya xuất phát từ Kita-senju. Tôi tiễn anh, rửa ráy rồi dọn dẹp qua loa một chút trước khi yên vị xem chương trình Morning Wide Show. Họ cho chạy phụ đề ở trên màn hình, "Như thế, như thế đã xảy ra ở ga Tsukiji," nhưng tôi không lo lắng vì tôi nhớ anh sẽ đi tuyến Marunouchi.
9 rưỡi, công ty gọi điện tới, nói, "Hình như anh nhà bị vướng phải chuyện rắc rối này. Chúng tôi sẽ gọi lại sau." Rồi mười phút sau thì, "Anh nhà đã được đưa đến Bệnh viện Nakajima. Chúng tôi sẽ fax cho cô thông tin để có thể liên hệ trực tiếp." Vậy là tôi gọi họ nhưng họ đang hoàn toàn rối bời. "Chúng tôi thậm chí còn chưa nắm được ai đang ở đây," họ nói và gác máy. Tôi chỉ còn mỗi cách kiên nhẫn chờ thôi.
Đúng 10 giờ họ lại gọi: "Tình hình có vẻ xấu đi, xin cô hãy đến bệnh viện càng mau càng tốt." Tôi chuẩn bị đi thì điện thoại lại réo: "Anh nhà đã chết." Tôi nghĩ đây là sếp của anh. Ông nói: "Bình tĩnh, thưa cô Wada, xin giữ bình tĩnh!"
Thế đấy, đi khỏi nhà thì được thôi nhưng tôi không biết mình đang đi đâu. Cũng không hay sẽ bắt chuyến tàu điện ngầm nào. Cả hai tuyến Hibiya và Marunouchi đều bị hủy. Tôi đến chỗ đỗ taxi ở nhà ga nhưng ở đó chừng năm chục người đã xếp hàng. "Không được," tôi nghĩ, rồi đi thẳng đến công ty taxi ở gần đó. Tất cả xe đều đã có người gọi. Họ điện đàm và tôi cứ chờ, chờ mãi mà vẫn chẳng có xe nào đến. May sao một người ở công ty taxi phát hiện ra một chiếc không khách ở bên kia chỗ chắn tàu, thế là tôi đi.
Lúc ấy thi thể anh ấy đã được chuyển từ bệnh viện đến đồn cảnh sát trung tâm ở Nihonbashi. Tôi đi một chiếc taxi khác đến Nihonbashi nhưng đường tắc do một tai nạn trên đường cao tốc. Chúng tôi rời Kita-senju hồi 10 giờ 10 và đến đồn cảnh sát vào khoảng 11 rưỡi. Trên taxi tôi nghe thấy tên chồng tôi. Người tài xế mở tin trên đài và họ đang đọc tên những người đã chết. "Là chồng tôi đấy," tôi nói, "chồng tôi chết rồi." Người tài xế hỏi: "Tôi có cần tắt đài không?" nhưng tôi nói, "Không, cứ để. Tôi muốn biết là đã xảy ra chuyện gì."
Một giờ trên chiếc xe taxi ấy là một cuộc tra tấn. Tim tôi đập thình thịch, tôi nghĩ nó có thể nhảy ra khỏi lồng ngực tôi mất. Nếu mình sinh con ngay lúc này và ở đây thì sao? Nhưng tôi lại nghĩ, "Mình chưa thể chắc chắn chừng nào chưa nhìn thấy mặt anh. Tuyệt đối không có lý nào mà chuyện ấy lại xảy ra với anh được, chắc là đã lầm lẫn. Tại sao, ôi, tại sao chồng tôi lại là người chết cơ chứ?" Tất cả cứ quay cuồng trong đầu tôi. "Mình sẽ không khóc chừng nào không biết chắc"… Tôi cứ hy vọng một cách tuyệt vọng như thế.
Họ đang khám nghiệm tử thi cho nên lúc tôi được nhìn anh thì đã 1 rưỡi. Tôi phải chờ ở đồn cảnh sát suốt thời gian ấy. Điện thoại réo không ngừng và ai cũng chạy nhớn nhác hoảng loạn. Rối tinh rối mù. Sếp của chồng tôi và một sĩ quan cảnh sát giải thích mọi sự cho tôi, tuy nhiều chi tiết lúc này vẫn chưa rõ. Chỉ là giải thích qua qua: "Anh nhà đã hít phải một thứ gì và cái thứ ấy đã giết anh ấy."
Tôi lập tức gọi bố tôi. "Bố cứ đến đi." Vừa trông thấy mặt bố là tôi không sao cầm được nước mắt. Bố mẹ chồng tôi là nhà nông, nếu thời tiết tốt thì họ luôn làm việc ngoài đồng cho nên tôi không gọi cho họ được. Sếp của chồng tôi đã cố gọi nhưng không ai trả lời. Tôi muốn gặp mẹ chồng càng nhanh càng tốt. Tôi cứ ngồi đó, không nói nên lời, nghĩ: "Mình đang làm gì ở đây?" Tôi chỉ có thể làm mỗi việc là gật đầu với các câu hỏi của nhân viên điều tra.
Cuối cùng tôi được đối mặt nhìn chồng tôi ở dưới tầng trệt. Trên gác là đồn cảnh sát. Tầng trệt là nhà xác. Tôi đến nhìn mặt anh ở đó. Trong một gian phòng không to hơn hai tấm thảm tatami. Họ để anh nằm thẳng đơ, một mảnh vải trắng trùm lên. Trần truồng hoàn toàn và phủ một mảnh vải trắng. "Đừng đụng vào anh ấy," họ bảo tôi, "Đừng lại gần quá." Trên người anh có cái gì đó mà nếu tôi đụng vào thì nó sẽ thấm vào da tôi.
Nhưng họ chưa kịp cảnh báo, tôi đã đến chạm vào anh. Anh vẫn ấm. Có những vết cắn rướm máu ở môi. Đã đóng vảy, như thể anh đã cắn thật chặt vào, và ở tai, mũi anh cũng vậy, những chỗ chảy máu đã đóng vảy. Mắt anh nhắm. Không phải một bộ mặt đau đớn. Nhưng những sẹo, những vết máu, trông chúng quá đau lòng.
Họ không cho tôi ở lại thật lâu vì "nguy hiểm". Tôi ở đó có lẽ một phút… không, không được đến cả một phút. "Tại sao anh ấy phải chết?" tôi nói. "Tại sao anh ấy bỏ tôi lại ở đây?" Và tôi sụp xuống.
Thi thể anh được chuyển đến Khoa Pháp y Đại học Tokyo, lúc 4 rưỡi. Bố cố khuyên tôi can đảm, nhưng tôi không nghe thấy những gì bố nói. Tôi không làm được một cái gì. Đến suy nghĩ cũng không nổi. "Mình sẽ làm gì bây giờ?" tôi chỉ có thể nghĩ được như thế.
Hôm sau tôi vĩnh biệt anh ở Đại học Tokyo. Lúc ấy, họ không cho tôi, không cho cả bà mẹ chồng ở Nagano xuống đụng vào người anh. Chúng tôi chỉ được nhìn. Tôi không thể tin được họ lại để anh suốt đêm thui thủi một mình ở cái nơi côi cút này. Ngay đến sở cảnh sát còn tốt hơn. Bố mẹ anh xuống Tokyo mà họ cũng không cho xem thi thể anh ở đồn cảnh sát. Thật tàn nhẫn.
Anh chồng tôi đưa anh về Nagano bằng xe hơi. Bố mẹ chồng tôi và ông của Eiji, tôi và bố tôi đi xe lửa. Tôi khóc suốt đường. Tôi tự nhủ, "Kiềm chế đi nào." Tôi phải lo liệu chu đáo tang lễ này, sau đó thì tôi bất cần. Muốn gì thì bố mẹ chồng tôi cũng đang cố hết sức, vậy nên tôi cũng phải thế thôi. Như họ nói, Đức Phật không thích thấy khóc lóc. Nhưng tôi thật sự không kìm được.
Đứa bé cựa quậy trong người tôi. Hễ tôi khóc là nó lại lăn bên này bên kia. Sau tang lễ bụng tôi càng xệ xuống. Ai cũng lo lắng cho tôi. Họ nói sinh nở thường đi theo mau sau một cú sốc.
Chúng ta thường giữ một bức ảnh nho nhỏ của người chết ở ban thờ Phật, đúng chứ? Tôi để tấm ảnh đó ở bên mình lúc sinh nở và nó cho tôi sức mạnh. Mẹ chồng và mẹ của một người bạn của chồng tôi cũng ở đây để an ủi tôi. Tất cả mất mười ba giờ đồng hồ. "Khá bình thường," họ nói. "Thế là bình thường ư?", tôi nghĩ. [cười] Đứa bé hơn ba cân, nặng hơn mong đợi. Lúc sinh cháu, tôi mải bận quá nên quên mất chồng tôi. Đau quá mà. Tôi gần như ngất đi nhưng mẹ chồng vào phòng sản, vỗ vỗ má tôi: "Cố lên." Nhưng tôi chẳng nhớ gì cả những chuyện này.
Khi sinh cháu xong, quá mệt, tôi chỉ muốn ngủ. Phụ nữ chắc phần lớn đều nghĩ, "Tuyệt vời làm sao!" hay "Con dễ thương quá" – nhưng tôi thì không. Sau khi gắng sức dữ đến vậy, tôi chỉ muốn buông hết…
Sau khi đẻ phải mất thì giờ nhiều mới sụt được cân nhưng mẹ chồng tôi chăm lo cho mọi cái. Bà săn sóc Asuka. Mẹ tôi mất đã lâu, bố tôi thì chẳng biết gì về chuyện này. Mẹ chồng tôi đúng là một người lão luyện, từng giúp trông hai đứa con của vợ chồng anh chồng tôi cho nên tôi thấy an toàn như ở trên một chiếc tàu du lịch viễn dương sang trọng vậy. Nếu chỉ có mình tôi, khéo tôi điên mất. Gia đình lớn có cái hay ở chỗ này.
Anh của Eiji có hai đứa con (và đứa thứ ba cũng được sinh cùng thời điểm với con tôi), hễ tôi chớm nức nở là hai cháu lại đến hỏi: "Cô có sao không?" hay "Tại vì chú Eiji chết phải không?" Với lũ trẻ ở bên, tôi không thể cứ khóc mãi được. Chúng là niềm an ủi lớn.
Đến tháng Chín, tôi quay về Yokohama, sau nửa năm sống với bố mẹ chồng. Thực tế nơi đó đã trở thành ngôi nhà thứ hai của tôi. [cười] Tôi vẫn năng trở về. Tôi thích nơi ấy. Ai cũng chào đón tôi, và mộ chồng tôi cũng ở đó.
Một năm qua đi, tôi cố gác mọi sự lại đằng sau phần nào. Tôi dần dần chấp nhận sự thật là anh không còn ở quanh đây nữa… Chồng tôi hay đi công tác hai ba tháng ở Mỹ cho nên ở một chừng mực nào đấy, việc anh không có ở đây có vẻ cũng bình thường. Ngay cả sau khi anh chết, tôi vẫn cứ nghĩ, "A, anh lại đi công tác xa nhà rồi." Cả năm như thế, tựa hồ anh sẽ bất ngờ bước qua cửa và nói: "Anh về rồi đây!" Và sáng dậy thì tôi nghĩ: "Anh lại đi rồi." Nhưng rồi lại trông thấy bức ảnh của anh trên bàn thờ. Đâu đó trong tôi vẫn không chấp nhận chuyện đã xảy ra. Tôi có vẻ sống pha giữa thực tại và hư ảo. Chẳng hạn ngay trong khi viếng mộ anh tôi lại nghĩ: "Anh sẽ về sớm thôi." Nhưng sau một năm, đầu óc tôi nay đã tỉnh táo hơn. "Ừ, anh đã chết."
Đó là phần khó khăn nhất. Đi dạo, thấy một người bố công kênh đứa con trên vai là điều khó chịu đựng nhất; hay nghe lỏm câu chuyện của một đôi trẻ tuổi – tôi chỉ muốn là mình không ở đó.
Tôi đã đọc những gì người ta nói về tôi trên báo nhưng họ không bao giờ viết điều thật sự quan trọng. Vì một lý do nào đó, tôi đã một lần xuất hiện trên tivi. Sau đó người ở đài truyền hình bảo tôi là có "nhiều phản ứng, nhiều thư" nhưng họ không gửi cho tôi cái gì sất. Làm gì mà tồi tàn thế chứ! [cười] Tôi không muốn lên tivi nữa. Không bao giờ nữa. Đơn giản bởi vì họ không nói sự thật. Tôi đã mong đợi một chút sự thật nhưng nhà đài đã có lịch của riêng họ về những cái họ phát sóng. Họ không bao giờ chiếu những cái tôi thật tình muốn nói.
Chẳng hạn khi luật sư Sakamoto kia mất tích, nếu cảnh sát Kanagawa cho phép điều tra sâu như lẽ ra phải thế thì sẽ không bao giờ xảy ra vụ đánh hơi độc. Tất cả các nạn nhân sẽ không sao cả 1. Đó là điều tôi muốn nói, nhưng họ cắt hết. Tôi hỏi tại sao thì được biết nếu phát cái đó, họ sẽ bị sức ép của các nhà tài trợ quảng cáo. Báo và tạp chí cũng vậy.
Khi chúng tôi đem áo quan đi Nagano đã có những kíp làm truyền hình chờ sẵn với camera. Vậy mới biết thế nào là vô cảm!
Khi tôi về nhà ở Yokohama, mọi người đều biết chuyện tôi. Tôi đi xuống phố thì ai cũng chỉ trỏ: "Xem kìa, cô ta đấy. Vợ góa vì sarin đấy." Lưng tôi rợn lên, tôi cảm thấy như bị ai đâm. Không chịu được nên tôi chuyển đi.
Lần đầu tiên tôi đến Văn phòng Ủy viên Công tố để dự một phiên tòa, họ có các lời khai của người đã đưa chồng tôi ra khỏi nhà ga. Họ cũng có lời chứng của các nhân viên nhà ga. Công tố viên hỏi tôi có muốn biết chồng tôi đã chết như thế nào không. "Dĩ nhiên," tôi nói và họ đọc các lời chứng cho tôi. "Sao cơ? Ông nói là anh ấy đã bị chết một cách đớn đau đến thế ư?" tôi nghĩ. Tôi muốn những kẻ đã làm chuyện này phải nếm thứ thuốc của chính chúng. Tại sao chúng ta cứ giữ cho bọn chúng sống? Hãy trừng phạt chúng hết mức vào, càng sớm càng tốt, tôi nghĩ như vậy. Sau này tôi vẫn sẽ luôn muốn thế. Các phiên tòa xét xử chỉ làm cho tôi tức giận. Vin vào lý do nào mà giết chồng tôi chứ? Giờ khi tương lai chúng tôi đã bị hủy hoại, tôi nên làm gì với sự trống rỗng này đây?
Tôi muốn tự tay giết Asahara. Nếu được phép, tôi muốn được giết hắn từ từ, đau đớn. Còn Hayashi, tên thủ phạm đánh hơi độc đoàn tàu Hibiya, thì vẫn xổng 2.
Tôi chỉ muốn biết sự thật. Biết sự thật thì biết sớm phút nào hay phút ấy.
Ngay cả truyền hình và đài phát thanh cũng chả nói chút gì về việc nạn nhân phải chết một cách đau đớn ra sao. Không một lời. Vụ Matsumoto còn nói một chút, nhưng đến vụ sarin thì không. Lạ lùng. Cho nên tôi chắc đa số người ta vẫn hình dung họ chỉ tự nhiên ngất đi rồi chết "bình thường". Các bài báo cũng như vậy. Chỉ khi công tố viên đọc các lời chứng, tôi mới biết chồng tôi chết đau đớn như thế nào. Tôi muốn nhiều người hơn biết sự thật về mức độ khủng khiếp của những cái chết ấy. Nếu không tất cả sẽ thành ra vấn đề của ai đó khác.
Điều tốt lành duy nhất là Asuka. Khi cháu nói những lời đầu tiên… Một vài cử chỉ nho nhỏ, một vài món ăn cháu thích lại làm tôi nhớ đến anh. Tôi hay bảo Asuka, "Bố thích cái này." Nếu tôi không bảo, cháu sẽ không bao giờ biết. Khi Asuka hỏi, "Bố đâu?" tôi chỉ vào bức ảnh trên ban thờ nói, "Bố, bố." Cháu nói, "Chúc ngủ ngon" với bức ảnh trước khi đi ngủ. Điều đó khiến tôi muốn khóc.
Tôi còn giữ một vài băng video về các chuyến đi trượt tuyết, về tuần trăng mật. Có thể nghe thấy tiếng anh ấy, nên tôi định sẽ mở cho cháu khi cháu lớn hơn. Tôi quá mừng vì chúng tôi đã ghi lại các video này. Kể cả tôi cũng đã bắt đầu quên hình dáng của anh. Đầu tiên, tôi vẫn có thể cảm thấy từng chút từng chút một khuôn mặt anh nơi ngón tay mình, nhưng dần dần tất cả rồi sẽ ra đi thôi.
Thứ lỗi cho tôi… Nó là thế đấy, nếu anh không còn hiện hữu thì tất cả bắt đầu phai đi.
Tôi đang nghĩ đến việc dạy Asuka trượt tuyết. Chồng tôi luôn nói sẽ dạy con. Tôi sẽ mặc bộ đồ của chồng tôi và dạy cháu. Chồng tôi và tôi mặc cùng cỡ. Có lẽ mùa sau tôi sẽ bắt đầu. Chắc là anh muốn như vậy.
"Nó là đứa con không đòi hỏi"
Kichiro Wada (64) và Sanae Wada (60)
bố mẹ của Eiji Wada đã chết
Kichoro và Sanae Wada sống ở Shioda-daira, nông thôn ngoại vi Ueda, không xa Suối nước nóng Bessho. Khi tôi tới nhà Wada, lá thu đang rụng, các quả đồi nhuốm màu đỏ thắm và vàng, những cây táo trong vườn nặng trĩu quả chín đỏ. Đây là một bức tranh thanh bình về quận Nagano vùng núi vào mùa thu hoạch.
Vùng này từng là trung tâm sản xuất lụa với những vạt rộng lớn trồng dâu để lấy lá nuôi tằm. Sau thế chiến II, vùng đất được chuyển sang trồng lúa, khiến ngành dệt lụa địa phương dừng lại đột ngột.
"Cách làm việc của chính phủ không có ý nghĩa gì nhiều cho một làng làm nghề nông bé như làng chúng tôi," ông Wada nói. Ông là người ít lời – tuy nếu muốn thì ông có thể nói rất nhiều chuyện. Vợ ông, Sanae, trái lại, là kiểu "bà mẹ" hay chuyện, ân cần.
Ông bà Wada có hai mẫu rưỡi trồng lúa, rau và táo. Khi tôi về Tokyo, hai người cho tôi một ôm táo chín cây từ vườn nhà – những quả táo ngon tuyệt!
Vài năm đầu sau khi kết hôn, hai ông bà chủ yếu sống nhờ nghề trồng lúa, nhưng do tình hình ngày càng khó khăn, ông đã phải làm việc ở một nhà máy cho đủ lần hồi, chỉ trông nom đồng ruộng vào những ngày nghỉ. Khối lượng công việc gấp đôi đã làm sức khỏe ông suy sụp. Khi con trai chết trong vụ đánh hơi độc, ông hầu như không vượt qua nổi cú sốc nên đã thôi việc ở nhà máy.
Tôi hỏi ông xưa nay Eiji là người con thế nào. "Tôi chẳng đóng góp mấy vào chuyện nuôi dưỡng thằng nhỏ," ông bảo tôi, "tốt nhất là hỏi nhà tôi." Ông quá bận rộn, không có thì giờ trông nom đến các con, tôi cho là vậy, nhưng đồng thời tôi có ấn tượng rõ rệt rằng ông thấy chủ đề về cái chết của con trai quá đau lòng để mà đem ra nói.
"Nó là đứa không đòi hỏi gì." Những nhận xét về điều này đã được nhắc đi nhắc lại suốt quá trình phỏng vấn. Eiji là một thanh niên mạnh mẽ, độc lập, chưa một lần làm bố mẹ phiền lòng. Chưa bao giờ, cho đến ngày thi thể anh được gửi về nhà không một lời giải thích…
° ° °
MẸ EIJI: Tôi sinh Eiji vào lúc 5 giờ 40 sáng ngày 1 tháng Tư. Tôi chỉ biết là không thể nhịn đến sáng cho nên trời vừa tang tảng tôi đã đến nhà hộ sinh. Lúc đó khoảng 4 giờ. Tôi gần như sinh ngay sau đó.
Tôi sinh không khó. Nó chỉ nặng chưa đầy hai cân rưỡi. Anh nó lúc sinh nặng những bốn cân. Eiji nhỏ con hơn nhiều. Tôi sinh thường, mất một giờ rưỡi, không cần gọi đến bác sĩ. Nhưng với thằng anh nó thì quả là vất vả gay go.
Chúng tôi chả có lựa chọn nào ngoài nuôi dê. Muốn gì thì quanh đây cũng có nhiều cỏ. Cho nên tôi vắt sữa dê và uống sữa dê để có nhiều sữa cho Eiji bú. Tôi đã nuôi Eiji lớn lên khỏe mạnh là nhờ thế. Tuy hơi gầy một chút, và không bao giờ lên cân nhiều. Nhưng chúng tôi cũng không bao giờ phải đưa nó đi bệnh viện.
Nó là một đứa không hay đòi hỏi. Chuyện gì nó cũng luôn tự làm lấy. Khi nó đến Công ty Thuốc lá Nhật Bản phỏng vấn, chúng tôi hỏi nó: "Con có muốn bố mẹ đi cùng không?" nhưng lại chỉ làm nó khó chịu: "Ai sẽ đi cùgn với con ư? Con đi một mình!" [cười] Hay khi nó sống một mình, tôi đã nói, "Hay là mẹ đến dọn dẹp nhà cho con?" thì nó nói: "Con có thể tự dọn dẹp nhà cửa lấy mà!" Mười năm qua duy chỉ ba lần tôi phải lo cho Eiji: khi nó đính hôn, khi nó cưới và khi chúng tôi đem thi thể nó về.
Anh con cả tôi trầm tính, còn Eiji thì lại ham hoạt động, hăm hở tự làm lấy hết mọi thứ. Ngay cả đến cơm nước. Cho nên nuôi nó lớn khôn với chúng tôi chẳng thành vấn đề gì. Nó tự lo được mọi sự cho bản thân.
Lúc nó vào trung học, chúng tôi bảo nó, "Sao không cố học tiếp lên đại học hả con?" Nhưng nó nói, "Con thích đồ điện nên con sẽ vào trường hướng nghiệp chứ không học cao lên nữa." Anh em nó đã bàn với nhau. Thằng anh nói, "Nếu anh ở lại trông nom ruộng vườn của gia đình thì sẽ dễ hơn," còn Eiji nói, "Em không trông đợi gì ở đây cho nên em sẽ ra đi tự lập." Hai đứa nó đã quyết định như vậy với nhau.
Anh của Eiji đã thử thi vào đại học ở Tokyo nhưng nó nói không thể chịu nổi cái nơi hổ lốn điên rồ ấy được nên quay về với trường nông nghiệp đây. Eiji thì không. Nó có thể thích nghi với bất cứ đâu. Nó hòa nhập ngay vào đời sống thành phố. Sau khi tốt nghiệp chương trình điện, nó đến làm việc cho Công ty Thuốc lá Nhật Bản năm 1983. Anh rể tôi làm ở đó. Khi sắp về hưu ông ấy nói, "Sao Eiji không vào Thuốc lá Nhật Bản mà làm nhỉ?" Lúc này là vào khoảng thời gian công ty đang tin học hóa máy móc. Và khi đến phỏng vấn, Eiji đã nói: "Tôi muốn vào làm để có thể học hỏi được các hệ thống máy tính này," nên có lẽ vì thế họ đã nhận nó vào. Ở lớp huấn luyện tại Nagaoka, nó bảo tôi, ai cũng tốt nghiệp đại học, có mỗi hai trong mười hai người ở đó là vào thẳng từ trung học.
Nó bảo ở Nagaoka tuyết dày cả mét. Cho nên nó nói món thứ hai nó muốn là học trượt tuyết. Nó cần quần áo, thiết bị, vậy tôi có thể gửi tiền cho nó được không? Gửi chứ. Thế là khi đã thật sự quen rồi thì nó trượt miết. Nó gặp Yoshiko chính là trên một dốc trượt tuyết.
Ở Nagaoka, xa nhà, nó bắt đầu cuộc sống mới một thân một mình nhưng có vẻ không thấy cô quạnh. Nó kết bạn với nhiều người, nó kiếm được tiền và được tự do vui vầy với chỗ tiền ấy.
Khi họ bảo tôi Eiji chết, nói thật là đầu óc tôi trống tênh. Đã nghe chuyện người ta bị "đầu óc trắng trơn", nhưng lần này thì nó đã thực sự xảy đến với tôi. Chẳng biết cái gì ra cái gì nữa.
Không một ai ở nhà lúc đó. Công ty nó và cảnh sát gọi điện, nhưng tất cả đều đang ở ngoài. Trước đó tôi đã ủ tương miso, tháng Tư nào tôi cũng làm một mẻ, nhưng vì sắp phải xuống trông giúp con của Eiji, tôi đã làm sớm hơn một tháng. Tôi bận là vì thế. Vào ngày 20, thời tiết quang đãng cho nên tôi giặt giũ hết đống quần áo đã chất đầy, làm mọi thứ bà dằn. Ông nhà tôi sáng ấy phải đi xén tỉa mấy cây táo trong vườn, còn tôi thì huyết áp có lên tí chút nên tôi đi bệnh viện lấy thuốc, vì thế mà không có ai ở nhà.
Cuối cùng họ gọi được cho bà chị cả tôi, bà ấy nói, "Tôi gọi cả nghìn bận mà chả có ai ở nhà. Dì đã xem tivi chưa?" Ở bệnh viện về, tôi định đi mua ít hoa, đang là ngày Higan mà [Xuân Phân theo đạo Phật ở Nhật], nhưng trước đó tôi đã về một lát. Đúng lúc ấy thì điện thoại réo.
"Thời tiết đẹp thế này, sao có người lại đi xem tivi chứ? Trời mưa thì em xem chứ lúc này thì em đang bận quá." Đó là lúc chị tôi nói, "Nghe này, đừng hốt hoảng. Hãy cứng rắn lên." Và tôi ngớ ra. "Hãy cứng rắn lên! Là vì chuyện gì đây?"
Thì là thế này, "Hiện trên tivi người ta đang báo Eiji đã chết." Chính lúc ấy đầu óc tôi bỗng hóa ra trống không. Ra là thế. Tôi không thể nhớ thêm cái gì nữa. Nó đến dữ như thế đấy. Cơn sốc đã xóa sạch mọi thứ…
Trước khi hai đứa lấy nhau một năm thì Eiji đưa Yoshiko về nhà. Đưa về vào mùa đông. Eiji chỉ về nhà hai lần một năm, dịp Obon [lễ của đạo Phật dành cho người chết vào tháng Tám ở Nhật] và cuối năm, và lần này vào mùa đông. Vì chúng tôi vừa làm xong mọi việc chuẩn bị cho mùa đông. Như tôi nhớ thì lần ấy Yoshiko không ở lại với chúng tôi mà trở về nhà cùng hôm ấy.
Từ đầu đến cuối tôi toàn nói, "Lấy một cô vợ nông thôn có phải là tốt hơn không? Như thế thì sẽ dễ về đây hơn, đây sẽ là quê hương chung của cả hai người." Và Eiji nói, "Không, lấy gái quê sẽ chỉ phiền phức thôi. Con sẽ tìm vợ cho con, mẹ khỏi lo. Mẹ cứ để con lo lấy."
BỐ EIJI: Với tôi thì chuyện ấy chẳng sao. Nó thích ai thì để nó chọn, cái chính là đừng có nay cô này mai cô khác. Bố hay mẹ không có quyền can thiệp vào chuyện hôn nhân của con cái. Tôi nói thế này, để chúng làm chuyện ấy cho bản thân chúng.
MẸ EIJI: Đám cưới của hai đứa làm ở nhà nguyện tại Aoyama. Lễ nhỏ thôi. "Sảnh sẽ không đủ chỗ cho hàng chục người đâu," nó bảo chúng tôi, cho nên chỉ những quan hệ thân thiết mới dự. Nhưng khi tôi nói, "Ta sẽ phải tổ chức một lễ nữa khi con đưa vợ về quê", thì nó bảo, "Con là con thứ. Anh con là người nối dõi tông đường. Còn con, ai biết cuối cùng liệu có về đây hay không cơ chứ, cho nên không cần làm cái gì đặc biệt cho con đâu."
Chúng tôi nghe tin Yoshiko có thai khi Năm Mới hai đứa nó về thăm. Tôi đã phần nào cảm thấy điều đó khi chúng lên đây vào tháng Tám. Lúc ấy sắc má Yoshiko nom không tốt lắm, và tôi thầm nghĩ, đúng, có lẽ là thế cũng nên. Cho nên tôi hỏi, thì Yoshiko nói, "Chắc là thế ạ."
BỐ EIJI: Ngày 20 tháng Ba, như vợ tôi nói lúc nãy, tôi ra ngoài tỉa xén vườn cây táo ngoài đồng. Ở đó từ sáng. Phải làm xong trước khi hết tháng Ba. Chúng tôi có bốn chục cây táo cả thảy.
Con cả của chúng tôi sống với chúng tôi nhưng ở một gian khác. Ăn uống và mọi thứ đều riêng. Nó ở với vợ con nó cho nên điện thoại chúng tôi có réo thì ở bên ấy cũng không nghe thấy được. Với lại đằng nào thì vợ nó cũng đang thai nghén và đang đến bệnh viện sản khoa lấy thuốc.
Nhưng thật là tình cờ khi nó đang nghe đài phát thanh thì cái tên "Eiji Wada" chợt cất lên. Thế là nó chạy như bay đến chỗ chúng tôi. Nó gọi điện thoại trước, gọi mãi nhưng không ai thưa cho nên nó nghĩ chúng tôi đang ở ngoài đồng. Nhưng trước cả nó, vợ tôi đã về nhà và nhận được cú điện thoại của bà chị.
Cảnh sát cũng báo tin. Sở cảnh sát gọi cho đồn cảnh sát sở tại, bảo đi thẳng ra ngoài tìm chún