← Quay lại trang sách

PHẦN HAI NƠI ĐƯỢC HỨA HẸN

Đây là nơi đã được hứa hẹn,

khi tôi đi ngủ,

khi tôi thức dậy thì nó bị lấy đi.

Đây là nơi lạ với bất kỳ ai,

nơi tên những con tàu và những vì sao

dạt ra xa ngoài tầm với.

Núi không còn là núi,

mặt trời chẳng phải mặt trời.

Nó từng thế nào, người ta muốn quên đi.

Tôi trông thấy tôi, tôi trông thấy

trên lông mày tôi bờ bóng tối.

Đã có thời tôi là toàn vẹn, đã có thời tôi tuổi thanh xuân…

Tựa như điều đó giờ này quan trọng

như bạn có thể nghe thấy tôi

như bão tố nơi đây chẳng bao giờ ngừng.

Tựa

Khi viết Ngầm, tôi coi việc tránh đọc mọi tường thuật của thông tin đại chúng về Aum là một điều có tính nguyên tắc. Tôi cố đặt mình càng nhiều càng tốt vào cái tình huống mà các nạn nhân của vụ đánh hơi độc đã sa vào hôm ấy, bị một sức mạnh chết người mình không hề hay biết chộp lấy hoàn toàn bất ngờ.

Vì lý do ấy, tôi cố tình loại bỏ khỏi Ngầm bất cứ quan điểm Aum nào. Tôi sợ sẽ làm cho quyển sách lạc trọng điểm. Trên hết tôi muốn tránh cái kiểu tiếp cận thiếu chính kiến khi cố nhìn cho thấy đủ quan điểm của cả hai bên.

Vì thế một số người đã phê bình quyển sách là một chiều nhưng dẫu sao tôi cũng đã chủ ý đặt máy camera của tôi vào một điểm cố định. Tôi muốn tìm kiếm một quyển sách đem người ta đến gần hơn với những người được phỏng vấn (nhưng không phải lúc nào cũng có nghĩa là ở cùng một bên.) Tôi muốn một quyển sách khiến bạn cảm thấy những gì ở nạn nhân đã cảm thấy, nghĩ cái mà họ nghĩ. Như thế không có nghĩa là tôi hoàn toàn phớt lờ ý nghĩa xã hội của Aum Shinrikyo.

Nhưng khi quyển sách này được phát hành và các dư âm từ sự kiện ấy đã lắng xuống, câu hỏi "Aum Shinrikyo là gì?" lại nổi lên trong tôi. Sau tất cả, quyển sách này là một nỗ lực khôi phục lại ý thức về sự cân bằng cho điều mà tôi coi là tường thuật thiên vị. Một khi nhiệm vụ đó được thực hiện xong, tôi sẽ phải nghĩ liệu chúng ta có nhận được từ câu chuyện những thông tin đúng và chính xác về phía Aum hay không.

Trong Ngầm, Aum Shinrikyo giống như một mối đe dọa không thể nhận diện – một "cái hộp đen", gọi như thế cũng được, thình lình, từ đâu không biết, tấn công vào cái thường ngày. Nay, bằng cách riêng của mình, tôi muốn cố hé mở chiếc hộp đen đó ra để nhòm một cái xem có gì bên trong. Đem so và đối chiếu các nội dung của nó với quan điểm được tập hợp lại trong Ngầm, tôi hi vọng có thể hiểu được sâu hơn.

Một động cơ nữa thúc giục tôi là cảm thức mạnh mẽ về nỗi sợ mà chúng ta vẫn chưa đụng đến, chứ chưa nói đến giải quyết, vấn đề cơ bản nào nổi lên từ vụ đánh hơi độc. Đặc biệt vẫn còn chưa có sự lựa chọn hữu hiệu hay mạng lưới an toàn nào cho những người ở bên ngoài hệ thống chính tắc của xã hội Nhật (cụ thể là thanh niên). Chừng nào trong xã hội của chúng ta còn tồn tại khoảng cách then chốt ấy, giống như một thứ hố đen, thì cho dù Aum có bị trấn áp, các trường sức hút từ tính khác – các nhóm "giống như Aum" – vẫn sẽ nổi lên, và cầm chắc vẫn sẽ xảy ra các sự cố tương tự.

Trước khi viết Nơi được hứa hẹn, tôi cảm thấy băn khoăn: nay khi đã viết xong, tôi còn cảm thấy một linh tính gở mạnh mẽ hơn. Tìm các nạn nhân vụ đánh hơi độc bằng lòng trả lời phỏng vấn không phải lúc nào cũng dễ, và vì nhiều lý do khác nhau, tìm để phỏng vấn các thành viên của Aum Shinrikyo, kể cả các cựu thành viên, cũng không phải một việc dễ dàng. Có thể dùng loại tiêu chuẩn nào để chọn người mình sẽ phỏng vấn? Làm thế nào để chọn ra một đại diện tiêu biểu? Và ai có thể nói đó là đại diện tiêu biểu? Tôi cũng lo rằng dù chúng ta có tìm được người như thế và nghe những gì họ cần nói thì có thể hóa ra đó chỉ là sự truyền đạo. Liệu chúng tôi có thể giao tiếp với nhau theo một cách nào đó có ý nghĩa không?

Ban biên tập tạp chí Bungei Shunju, các bài phỏng vấn được đăng đầu tiên trên tờ báo này, đã tìm các thành viên và cựu thành viên của Aum cho tôi. Nói chung các phỏng vấn đều được thực hiện theo phong cách và cách trình bày tương tự với trong Ngầm. Tôi quyết định hết sức chiều theo ý từng người, để người được phỏng vấn muốn dùng bao nhiêu thì giờ để trả lời cũng được. Mỗi bận phỏng vấn lâu ba, bốn giờ. Các băng ghi âm được chuyển sang thành bản viết và những người trả lời phỏng vấn được yêu cầu xem lại. Họ có thể bỏ những phần mà sau khi suy nghĩ họ không muốn thấy sẽ được in ra và có thể cho thêm vào những câu họ nghĩ là quan trọng mà trong lúc phỏng vấn họ đã quên không nói. Cuối cùng khi họ bằng lòng cho làm thì các bài phỏng vấn mới được đăng. Tôi muốn dùng tên thật của họ càng nhiều càng tốt, nhưng các cuộc phỏng vấn này thường kèm một điều kiện là khi đã dùng tên giả thì không được đưa ra chỉ dẫn nào.

Nói chung chúng tôi không cố gắng điều tra xem các lời phát biểu trong phỏng vấn có thật sự chính xác hay không, chỉ trừ phi rõ ràng những gì họ nói ra mâu thuẫn với các sự kiện đã biết. Một số người có thể phản đối cách làm này, nhưng việc của tôi là nghe những cái người ta cần nói và ghi lại càng minh bạch càng tốt. Cho dù có vài chi tiết không đúng với hiện thực thì cách kể tập thể của những câu chuyện này tự nó đã mang một hiện thực đầy sức mạnh. Đây là một điều mà các nhà tiểu thuyết nhận thức được sâu sắc, và là lý do tại sao tôi nhìn nhận nó là công việc thích hợp cho một nhà tiểu thuyết.

Nhưng các phỏng vấn ở Ngầm và các phỏng vấn thu thập ở đây không thật giống nhau về trình bày. Lần này tôi thường xen ý kiến của tôi vào, nói lên những hồ nghi và thậm chí thảo luận về nhiều vấn đề khác nhau. Trong Ngầm tôi cố giữ mình ở hậu trường càng nhiều càng tốt nhưng lần này tôi quyết định làm một người tham gia tích cực hơn, như đôi khi câu chuyện bắt đầu đi chệch sang hướng tôn giáo quá nhiều chẳng hạn, tôi thấy như vậy là không thích hợp.

Tôi không phải một chuyên gia về tôn giáo, cũng không phải là một nhà xã hội học, dù cho có muốn tưởng tượng thế nào. Tôi chẳng là gì hết ngoài một nhà tiểu thuyết đơn giản, không trau chuốt lắm. (Đây không phải là khiêm tốn vờ, nhiều người có thể làm chứng.) Hiểu biết của tôi về tôn giáo không nhiều hơn trình độ một người hoàn toàn nghiệp dư cho nên có ít cơ may là tôi sẽ đứng vững nếu lên đài tranh luận với một vài tín đồ sùng đạo.

Tôi đã bận tâm như vậy khi bắt đầu các cuộc phỏng vấn này nhưng đã quyết định không để điều đó làm mình chùn bước. Khi không hiểu một cái gì đó, tôi cứ đi tới và trình bày điểm mình chưa rõ; khi tôi nghĩ phần đông sẽ không chấp nhận một quan điểm nào đó, tôi sẽ tỏ ý nghi ngờ. "Chắc nó phải có một logic gì đó," tôi nói, "nhưng những người thông thường chắc sẽ không xài được nó." Tôi nói thế không cốt để tự vệ hay tỏ ra mình táo tợn như thế nào. Tôi muốn dành thì giờ để làm sáng tỏ những thuật ngữ và ý tưởng cơ bản – đại khái, "Khoan đã. Cái đó nghĩa là gì thế?" – hơn là chỉ gật đầu rồi để mặc cho các thuật ngữ chuyên môn bay vèo qua.

Ở mức hiểu biết thông thường, hàng ngày, chúng tôi đã có thể trao đổi quan điểm của mình và tôi cảm thấy mình có thể hiểu được các ý tưởng cơ bản mà người được phỏng vấn cố truyền đạt. (Còn tôi chấp nhận hay không thì lại là chuyện khác.) Thế là rất đủ cho kiểu phỏng vấn tôi đang làm. Mục tiêu đề ra của tôi cho dự án này không phải là phân tích đến chi tiết trạng thái tâm trí của người được phỏng vấn, đánh giá các lời họ bào chữa cho lập trường của họ về mặt đạo đức và logic. Tôi để dành việc nghiên cứu sâu hơn các vấn đề tôn giáo nổi lên cùng ý nghĩa xã hội của chúng cho các chuyên gia. Điều mà tôi cố thể hiện ở đây là cách biểu lộ của những người theo Aum trong một cuộc trò chuyện mặt đối mặt bình thường.

Nhưng nói chuyện thân mật với họ, tôi nhận thấy các truy cầu tôn giáo của họ và quá trình viết tiểu thuyết là giống nhau, tuy không phải là một. Điều này đã khơi dậy niềm thích thú mang tính cá nhân khi tôi phỏng vấn họ, đồng thời cũng là lý do tại sao đôi khi tôi thấy cảm giác gì đó gần như tức giận.

Trước sau như một, tôi giận các thành viên của Aum Shinrikyo dính líu vào vụ đánh hơi độc – cả người đã bị bắt lẫn những kẻ liên quan theo cách khác. Tôi đã gặp một số nạn nhân, nhiều người trong số họ vẫn còn phải chịu đau đớn, và tôi cũng đã tận mắt nhìn thấy những người mà thân nhân yêu dấu đã bị bọn chúng cướp đi mãi mãi. Chừng nào còn sống tôi sẽ còn nhớ là không bao giờ có thể tha thứ cho một tội ác như thế này, bất kể lý do gì, hoàn cảnh gì đằng sau nó.

Nhưng về mức độ phạm tội của toàn bộ tổ chức Aum trong vụ đánh hơi độc, quan điểm chung đã bị chia rẽ. Ở đây tôi sẽ dành mọi phán xét cho bạn đọc. Tôi phỏng vấn các thành viên hiện hành và cũ của giáo phái không phải là để phê bình hay tố giác họ, cũng không phải là hy vọng mọi người sẽ nhìn họ dưới một ánh sáng tích cực hơn. Điều mà tôi cố mang lại ở đây cũng giống như điều tôi hy vọng truyền đạt trong Ngầm – không phải là một quan điểm rõ rệt, mà là chất liệu máu thịt từ đó nhiều quan điểm được xây dựng lên; đây cũng là mục tiêu mà khi viết tiểu thuyết tôi luôn mang trong đầu.

Là người viết tiểu thuyết, tôi sẽ nghiên cứu kỹ càng, từng chút một, những gì còn lại ở trong tôi, điều tra, sắp xếp trật tự mọi sự trong khi tôi trải qua quá trình hao tổn thời gian của việc nhào nặn điều này thành hình thức kể chuyện. Nó không phải là thứ dễ dàng thành hình.

Các phỏng vấn này được đăng nhiều kỳ mỗi tháng một lần trên tuần san Bungei Shunju từ tháng Tư đến tháng Mười năm 1997 và được phát hành nhiều kỳ với tên gọi Hậu-Ngầm.

"Tôi vẫn ở trong Aum"

Hiroyuki Kano (sinh 1965)

Anh Kano sinh ra ở Tokyo nhưng sớm chuyển đến một quận ngoại ô và lớn lên ở đó. Ở đại học sức khỏe anh suy giảm và anh bắt đầu theo học các lớp ở trung tâm huấn luyện yoga do giáo phái Aum mở. Sau đúng hai mươi mốt ngày, Shoko Asahara khuyên anh nên xuất gia và năm tháng sau anh đã làm theo.

Vào lúc đánh hơi độc, anh Kano là một thành viên Bộ Khoa học và Công nghệ của Aum, công việc của anh ở đây chủ yếu liên quan đến máy tính. Cho tới vụ tấn công, sáu năm trong Aum của anh là tuyệt vời và đáng hài lòng. Anh đã kết được nhiều bạn.

Tuy vẫn chưa chính thức rời bỏ Aum, nhưng anh không còn sống cộng đồng với các thành viên khác nữa và giữ khoảng cách với họ. Anh sống một mình ở Tokyo, làm việc máy tính ở nhà trong khi vẫn tiếp tục chế độ rèn luyện khổ hạnh. Anh quan tâm sâu sắc tới đạo Phật và giấc mơ của anh vẫn là xây dựng một khung lý luận cho đạo Phật. Nhiều bạn của anh đã bỏ Aum. Ở tuổi 32, anh băn khoăn không biết trong kho của tương lai đang cất giấu điều gì cho mình.

Cuộc phỏng vấn của chúng tôi kéo dài nhưng anh không nhắc đến cái tên Shoko Asahara lần nào. Tránh nói thẳng đến Asahara, anh dùng các từ "thủ lĩnh" hay "Giáo chủ", hay như tôi nhớ có một lần "con người ấy".

° ° °

Hồi học tiểu học, tôi khỏe, cao hơn bọn trẻ khác. Tôi yêu thể thao và chơi mọi môn. Nhưng lên trung học phổ thông, tôi ngừng lớn và đến giờ thì hơi thấp hơn mức trung bình một chút. Cứ như là thân thể tôi phát triển ứng với trạng thái cảm xúc và tụt dốc cùng với sức khỏe của tôi vậy.

Hồi sinh viên tôi học khá giỏi, nhưng tôi cảm thấy có một sức kháng cự gì đó cưỡng lại tất cả ý muốn học tập. Theo tôi thì học có nghĩa là tăng thêm thông thái nhưng bài vở nhà trường thì lại chỉ là nhớ vẹt, đại khái như nước Úc có bao nhiêu con cừu hay gì gì đó. Bạn thích thì có thể học tất cả những cái đó nhưng bạn không tài nào thông tuệ lên nhờ chúng được. Tôi nghĩ là một người trưởng thành có nghĩa là thế. Nghĩa là có thể có kiểu bình thản ấy, cảm nhận về trí thông minh ấy. Giữa hình ảnh một người trưởng thành như tôi quan niệm với những người trưởng thành thực tại ở quanh tôi có một khoảng cách khổng lồ.

Ta lớn lên, có kiến thức và kinh nghiệm, nhưng ở bên trong, ta không lớn thành người, dù chỉ một chút. Lấy đi cái vẻ ngoài và những hiểu biết hời hợt thì những gì còn lại chỉ bằng một đứa trẻ mà thôi.

Tôi cũng có một vài nghi hoặc lớn về tình yêu. Hồi khoảng 19 tuổi, tôi đã nghĩ nhiều, nghĩ kỹ rồi đi tới kết luận sau: tình yêu thuần túy dành cho người khác và cái mà người ta gọi là tình yêu lãng mạn là hai chuyện khác nhau. Tình yêu thuần túy không dùng mối quan hệ làm lợi cho mình, còn tình yêu lãng mạn thì khác. Tình yêu lãng mạn chứa đựng các yếu tố khác – chẳng hạn ước mong được một người khác yêu. Nếu chỉ thuần túy yêu một người khác cũng là đủ rồi thì khi không toại nguyện ta sẽ không đau khổ. Chừng nào người kia có hạnh phúc thì ta sẽ không có bất cứ nhu cầu nào để mà đau khổ vì không được yêu đáp lại. Điều làm người ta đau khổ chính là cái ước mong được một người khác yêu. Cho nên tôi nhất quyết cho rằng tình yêu lãng mạn và tình yêu thuần túy cho một người khác là không giống nhau. Và khi đã hiểu như thế, ta có thể giảm bớt nỗi đau khổ của tình yêu không toại nguyện.

MURAKAMI: Tôi thấy hình như đây là cách tiếp cận quá thiên về logic. Ngay cả khi có phải trải qua tình yêu không toại nguyện, phần đông người ta vẫn không suy luận xa đến như thế.

Tôi cho là thế. Nhưng từ 12 tuổi, tôi đã luôn tiếp cận sự việc theo cách triết học. Có lần tôi đã bập vào nghĩ một cái gì đó rồi ngồi lì tại chỗ luôn sáu tiếng đồng hồ. Theo tôi, nghiên cứu là một thứ có nghĩa chính xác là như thế. Nhà trường chỉ là nơi đua lấy nhiều điểm cao mà thôi.

Tôi thử nói với bạn bè về những điều này nhưng không đi đến đâu. Ngay cả các bạn là học sinh giỏi cũng chỉ bảo đại khái như, "Chà, cậu nghĩ cái này khá là ngộ đấy," rồi thôi. Câu chuyện đụng đến chỗ tắc tị. Tôi không tìm được, dù chỉ là một người muốn nói chuyện về những cái tôi quan tâm.

MURAKAMI: Khi buồn bực về những chuyện kiểu đó thì đúng là phần đông thiếu niên hay chúi đầu vào đọc sách. Để tìm lấy vài lời khuyên có ích.

Tôi không thích đọc. Đọc gì tôi cũng chỉ thấy điểm dở của nó. Đặc biệt là sách triết – tôi chỉ đọc một ít nhưng đã không chịu nổi. Tôi luôn nghĩ triết học là thứ phải cung cấp cho bạn một ý thức sâu sắc hơn để bạn có thể tìm ra "phương thuốc" cho các vấn đề của cuộc sống, thực sự hiểu được mục đích sống, tìm thấy hài lòng và hạnh phúc, và quyết định mục tiêu sống của bạn là gì. Mọi cái khác chỉ là phương tiện cho mục đích đó. Nhưng tất cả các sách tôi đọc hình như đều là cái cớ cho các vị học giả nổi tiếng trưng tài ngôn ngữ: "Kìa, xem ta biết nhiều thế chứ!" Tôi có thể nhìn thấu cái này và tôi không chịu được những cuốn sách như thế. Cho nên triết học chưa bao giờ làm được cho tôi cái gì.

Có một thực tế khác tôi bắt đầu nghiền ngẫm từ hồi lớp sáu. Đang nhìn chằm chằm một cái kéo ở trong tay thì bỗng dưng tôi lại nghĩ rằng một người lớn nào đó đã làm rất vất vả để tạo ra chúng thế nhưng một ngày nào đó cuối cùng chúng sẽ rời nhau ra. Mọi cái có hình hài cuối cùng đều sẽ tan rã. Con người cũng thế. Cuối cùng người ta chết. Vạn vật đều hướng thẳng đến hủy diệt và không có ngả quay lại. Nói khác đi, hủy diệt tự thân là nguyên tắc vận hành của vũ trụ. Khi đã đi đến kết luận này, tôi bắt đầu nhìn mọi sự một cách rất tiêu cực.

Thí dụ như, nếu đời tôi là hướng tới hủy diệt thì dù cho tôi có là thủ tướng hay chết như một gã vô gia cư cũng chẳng nghĩa lý gì, đúng không? Đấu tranh thì được lợi gì nào? Tôi đã đi tới kết luận kinh khủng là nếu trong đời đau khổ mà nặng đồng cân hơn niềm vui thì khôn ngoan hơn cả là hãy tự tử quách đi càng nhanh càng tốt.

Chỉ có một lối thoát, gọi là cõi âm. Đấy là hy vọng duy nhất còn lại. Lần đầu tiên tôi nghe thấy chữ "kiếp sau" tôi nghĩ nó thật ngu ngốc. Tôi đã đọc quyển Cái gì xảy ra sau khi chết? của Tetsuro Tanba để xem trong đó viết những trò ngu ngốc gì. Tôi là loại người mà khi đã bập vào một ý nghĩ nào sẽ theo đuổi nó cho đến kỳ cùng cái ngửa. Tôi không phải loại người chỉ nghĩ, "Chết tiệt, thế nào rồi mình cũng hiểu thôi mà." Tôi phải phân biệt cho rõ ràng ra cái tôi hiểu với cái tôi không hiểu. Với chuyện học hành cũng thế. Tôi vừa học được một điều gì mới là ngay lập tức mười câu hỏi khác bung ra trong đầu tôi. Chưa trả lời được thì tôi còn hì hục với chúng.

Muốn gì quyển sách của Tanba cũng không bõ đọc nhưng ông ta đã nhắc đến tác phẩm của Swedenbog, sau đó tôi có đọc cuốn này và thấy thật kinh ngạc. Swedenbog là một học giả nổi tiếng, một nhà vật lý cỡ giải Nobel nhưng khi bước sang tuổi ngoài 50 ông đâm ra như người tâm thần và viết ra nhiều những cái ghi chép về thế giới bên kia. Tôi ngạc nhiên tại sao công trình của ông lại cực kỳ logic đến thế. So sánh với các sách khác về đề tài này, mọi điều đều khớp logic với nhau. Mối quan hệ giữa các tiền đề và kết luận của ông cực kỳ có sức thuyết phục và đáng tin.

Tôi nghĩ mình nên chú ý nhiều hơn một chút đến thế giới bên kia. Cho nên tôi đọc nhiều tài liệu về những trải nghiệm lúc sắp chết. Tôi bàng hoàng. Các lời kể lại giống nhau đến ngạc nhiên. Đây là loại lời khai thật sự có kèm tên tuổi và ảnh của người khai. "Họ không thể thông đồng để nói dối hệt như nhau được," tôi nghĩ. Sau đó tôi học về Luật Nghiệp báo và thế là có một tấm màn vừa vén lên, nhiều nghi hoặc, nhiều vấn đề tôi có từ ngày bé đều được giải đáp.

Tôi cũng học được nhiều rằng nguyên lý cơ bản về vô thường của đạo Phật cũng tương tự như ý của tôi về quy luật vũ trụ hướng tới hủy diệt. Tôi vẫn luôn nhìn vấn đề này theo cách tiêu cực nhưng điều ấy cũng làm cho tôi rất dễ dàng theo đạo Phật.

MURAKAMI: Anh cũng có đọc cả sách về đạo Phật nữa chứ?

Không phải những nghiên cứu đích thực về đạo Phật. Trong cuốn sách tôi đọc, cách tiếp cận có vẻ không được trực tiếp lắm.Tôi không thấy được "phương thuốc" mà mình kiếm tìm. Chúng nói tới các thứ kinh pháp nhưng không đi vào được cốt lõi của vấn đề, cái phần mà tôi thật sự muốn tìm. Nhưng điều mà tôi tìm kiếm lại có nhiều hơn trong các ghi chép về những trải nghiệm về thế giới bên kia.

Dĩ nhiên có những phần tôi không thể tin. Tôi không hiểu sao nhưng vì một vài lý do nào đó tôi tin chắc mình có thể phân biệt được phần nào thì tin được và phần nào thì không trong những câu chuyện đó. Cứ cho đó là nhờ kinh nghiệm hay trực giác đi. Dẫu sao tôi cũng có một niềm tin lạ lùng rằng tôi có thể làm được việc đó.

MURAKAMI: Tôi nghe thì hình như tất cả những gì ngược lại với các lý luận hay cảm giác của anh đều bị anh loại đi. Trên thế gian này có nhiều điều trái với quan điểm của ta, thách thức lại các ý tưởng mà ta hằng nuôi dưỡng, nhưng tôi cảm thấy anh cố không dính dáng tới chúng.

Từ hồi học tiểu học tôi đã hiếm khi thua khi tranh luận với người lớn. Tôi biết điều này là không đúng nhưng với tôi thì người lớn hình như đều ngu ngốc cả. Nay tôi hối hận đã nghĩ như thế. Lúc ấy tôi chưa trưởng thành. Tôi biết nếu mình đưa một điểm nào đó ra thì sẽ thua cho nên tôi chơi trò đi vòng vo. Chơi trò ấy thì tôi không thua bao giờ. Tôi hơi có chút huênh hoang.

Tôi khá hòa hợp với bạn bè. Tôi điều chỉnh những điều mình nói để phù hợp với người mà tôi đang chuyện trò. Tôi luôn biết nói điều phù hợp đúng lúc để làm cho mọi việc mềm đi. Cho nên tôi có nhiều bạn. Tôi sống như thế trong vòng mười năm, vui là đã làm cho bạn bè vui. Nhưng khi về nhà và có một mình, tôi nghĩ đời mình sẽ ra sao nếu tôi cứ tiếp tục kiểu này. Phân tích ra thì rốt cuộc tôi không có dù chỉ một người bạn quan tâm đến điều giống như tôi quan tâm.

Tôi không thi vào đại học mà vào học ở một trường dạy điện. Tôi học kỹ thuật nhưng không thật lòng muốn làm về kỹ thuật. Tôi vẫn muốn minh triết đích thực. Tôi nuôi một lý tưởng là hệ thống hóa một cách khoa học triết học phương Đông.

Ví dụ như quang sinh học chẳng hạn, cái ánh sáng mà các vật sống phát ra. Nếu ông thu thập các số liệu tỉ mỉ về mối quan hệ giữa cái đó với sự ốm yếu, ông có thể phát hiện ra các thuộc tính vật chất liên quan. Chẳng hạn, chắc ông sẽ có thể phát hiện ra một số thuộc tính vật chất bằng cách liên hệ quang sinh học với các vận động của tim. Đây là điều mà qua các thể nghiệm với yoga, tôi đã tin.

MURAKAMI: Vậy thì theo anh đo được tổng lượng sức mạnh hay có thể vẽ nó ra thành biểu đồ nhìn được bằng mắt là điều rất quan trọng?

Đúng. Nếu ông hệ thống hóa sự vật bằng cách này, các luận điểm của ông sẽ nghe có vẻ đúng. Ở nghĩa này, khoa học hiện đại là một hệ thống kỳ lạ. Trong Aum cũng thế, có nhiều bộ phận có giá trị chứ. Tôi muốn cái cốt yếu của nó còn lại. Vai trò tôn giáo của Aum coi như đã xong. Nó cần được lý thuyết hóa thành một khoa học tự nhiên.

Những gì không thể đo lường được một cách khoa học thì tôi không quan tâm. Cái không thể đo lường thì không có sức mạnh thuyết phục cho nên bất cứ giá trị gì mà nó cũng không thể truyền tải cho người khác được. Nếu sự vật không thể đo lường mà lại có sức mạnh thì kết cục ông sẽ đi tới một thứ như Aum. Nếu ông đo lường được sự vật, ông có thể loại bỏ được mối nguy hiểm tiềm tàng.

MURAKAMI: OK, nhưng các đo lường này có được bao nhiêu phần thực tế? Và chúng có tùy theo quan điểm của anh mà đổi khác đi không? Cũng có mối nguy rằng dữ liệu về nó có thể thay đổi. Anh phải quyết định ở điểm nào thì các đo lường của anh là đủ, chưa nói đến chuyện độ tin cậy của các thiết bị dùng cho việc đo lường ấy.

Nó sẽ ổn chừng nào cấu trúc số liệu ông dùng cũng giống như cái đang được dùng trong y học. Các triệu chứng này thì nói lên bệnh này, ông chữa trị cho họ là theo cách đó, đại loại cũng kiểu như vậy.

MURAKAMI: Tôi không nghĩ là anh đọc tiểu thuyết?

Đúng, tôi không đọc. Ba trang là con số nhiều nhất mà tôi gắng gượng nổi trước khi buông sách.

MURAKAMI: Vì là người viết tiểu thuyết cho nên tôi trái ngược với anh – tôi tin rằng thứ quan trọng nhất là thứ không thể đo lường được. Tôi không phủ nhận cách tư duy của anh, nhưng phần lớn trong cuộc đời con người lại gồm những thứ không thể đo lường được, và về mặt thực tiễn, cố đem đổi tất cả chúng thành một cái gì đo lường được là bất khả.

Đúng. Không phải tôi tin rằng tất cả những cái không thể đo lường đều vô giá trị. Chỉ là tôi thấy dường như thế giới của chúng ta đang tràn ngập những đau khổ không cần thiết. Và nguyên nhân gây nên đau khổ thì cứ tăng lên – những dục vọng không thể kiểm soát đang gây ra đau khổ cho con người. Chẳng hạn thèm khát ăn uống hay tình dục.

Việc Aum đã làm là giảm bớt stress tâm lý dạng ấy đi và nhờ thế tăng sức mạnh của mỗi cá nhân lên. Chín mươi chín phần trăm hình ảnh mà những người theo Aum có được về Aum Shinrikyo chính xác ra là như thế này – một cách nhìn các hiện tượng tâm linh và vật chất kèm một phương thuốc hoặc giải pháp cho chúng. Tổ chức hay triết học mạt thế hay bất cứ cái gì cũng chỉ là một hình ảnh do thông tin đại chúng tạo ra về Aum. Tôi chưa thấy ai quan tâm đến Sấm truyền của Nostradamus sất. Không ai lại để cho những trò như vậy thuyết phục cả.

Tôi muốn làm một việc là hệ thống hóa một cách khoa học những ý tưởng triết học của phương Đông như luân hồi và nghiệp chướng. Nếu thăm Ấn Độ ông sẽ thấy ở đấy người ta tin vào những điều này một cách trực giác, chúng là một phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của họ, nhưng ở các nước tiên tiến, trong ta sống trong một thời đại mà những điều này cần phải đặt trên một cơ sở lý luận thì người ta mới hiểu và chấp nhận chúng.

MURAKAMI: Trước chiến tranh, một số người Nhật tin Thiên hoàng là thần thánh và họ đã chết cho niềm tin ấy. Anh có thể chấp nhận được điều này không? Có phải mọi chuyện vẫn sẽ ổn chừng nào anh còn tin vào chúng?

Nếu chỉ đến đó là hết thì không sao, nhưng nếu ông quán xét đến thế giới bên kia thì tốt hơn là hãy sống cuộc đời Phật giáo.

MURAKAMI: Nhưng đó chỉ là vấn đề chỗ khác nhau ở đối tượng của niềm tin: Thiên hoàng hay luân hồi.

Nhưng kết quả khác nhau. Nếu ông tin Thiên hoàng thì cái mà ông được sau khi chết sẽ không giống cái mà ông được sau khi chết nếu ông tin đạo Phật.

MURAKAMI: Các tín đồ của đạo Phật cũng nói y như thế. Những người tin ở Thiên hoàng lại nghĩ nếu anh chết cho ông ta thì linh hồn của anh sẽ được yên nghỉ ở Đền Yasukuni và được thanh thản. Anh vẫn nói như vậy ổn chứ?

Đó là lý do khiến tôi đã bận tâm như thế đến một phương pháp chứng minh Phật giáo bằng toán học. Phương pháp này vẫn chưa có, vì thế chúng ta vẫn ngồi tranh cãi với nhau thế này. Tôi không thể nói gì thêm được nữa.

MURAKAMI: Vậy nếu tìm ra được một phương pháp đánh giá Thiên hoàng bằng lý luận thì anh sẽ không phiền chứ?

Đúng. Miễn là điều ấy có lợi cho người ấy sau khi chết thì tôi sẽ không thấy vấn đề gì.

MURAKAMI: Điều tôi đang cố nói là nếu xem xét lịch sử khoa học thì anh có thể thấy khoa học đã bị thao túng nhân danh chính trị và tôn giáo. Đảng Quốc xã Đức đã làm chuyện này. Nhìn trở lại ta thấy có nhiều khoa học bù nhìn đi lầm đường. Và đã đem lại những thiệt hại không kể xiết cho xã hội. Cứ cho anh là một người thu nhặt kỹ càng bằng chứng đi, tốt thôi, nhưng phần lớn dân chúng cứ hễ được các nhân vật có thẩm quyền cho biết một cái gì đó là "khoa học" thì liền nuốt chửng lấy nó và làm theo bất cứ cái gì họ nói. Theo tôi điều này là rất đáng sợ.

Tôi thì chỉ nghĩ tình hình hiện nay của chúng ta mới là đáng sợ. Người dân trên thế giới hiện nay đang đau khổ không cần thiết. Đó là cớ tại sao tôi đang nghĩ tới các phương cách để có thể tránh được điều này.

MURAKAMI: Nhân đây, làm sao anh có thể đi đến chỗ gia nhập Aum Shinrikyo?

Tôi đọc một quyển sách về cách thiền đơn giản, có thể làm được ở nhà và khi tôi thiền thử thì một sự rất lạ đã xảy ra với tôi. Tôi chưa nghiêm túc thực hành toàn bộ quá trình thiền nhưng khi tôi toan thanh lọc các luân xa, thì khí [sinh lực] của tôi lại bị yếu đi nhiều. Điều ông nên làm khi thanh lọc luân xa là đồng thời tăng cường khí lên. Nhưng tôi lại không làm thế. Và các luân xa của tôi đã mất cân bằng. Tôi cảm thấy như bị hun đốt rất nhanh rồi ngay sau đó lại rét cứng người lại. Mức năng lượng của tôi sút xuống và tôi thường xuyên thiếu máu. Đó là một tình huống nguy hiểm. Tôi không ăn được bất cứ thứ gì và tụt cân. Cứ lên giảng đường là tôi lại ốm mệt và không học được tí nào.

Quanh quẩn thời gian đó, tôi đến dojo [đạo tràng] của Aum ở Setagaya. Họ giải thích tình trạng của tôi cho tôi rồi ngay tại đấy, ngay lúc ấy họ bảo tôi cách chữa. Tôi thử các bài tập thở mà họ dậy cho tôi và tôi không thể tin rằng mình lại khỏe ra nhanh được đến thế.

Trong hai tháng sau đó, tôi không đến dojo nhiều lắm nhưng rồi tôi bắt đầu đến đều đặn, làm công việc tình nguyện, gấp truyền đơn, đại loại thế. Gần như ngay sau đó có một khóa "Yoga Mật" nơi có thể nói chuyện trực tiếp với Thủ lĩnh [Shoko Asahara], tôi đã hỏi ông ta nên làm gì với sức khỏe kém của tôi. "Anh phải xuất gia," ông ta bảo tôi. Cứ như chỉ cần liếc một cái ông ta đã nhìn thấu con người thật của tôi. Mọi người ngạc nhiên vì ông ta trước đây chưa nói với ai như thế bao giờ - vậy nên tôi cảm thấy không còn lối chọn nào khác ngoài bỏ học và xuất gia. Khi ấy tôi 22 tuổi.

Có rất ít người bắt đầu bằng xuất gia. Hiếm lắm. Nhưng tôi quá yếu, đi không nổi, và chắc chắn nếu tình hình cứ tiếp tục như thế này thì tôi không thể có một cuộc sống bình thường. "Anh không hợp với cái thế giới phù du này," ông ta [Asahara] bảo tôi và tôi tán thành tắp lự - không cần phải thuyết phục tôi. Chúng tôi không hẳn là chuyện trò, ông ta chỉ đi ra và nói thế thôi. Ông ta thường không nói gì cả nhưng có thể chỉ nhìn mặt mà nói được rất nhiều về một người. Như hiểu biết về người ấy vậy. Đó là lý do vì sao người ta lại tin ông ta.

MURAKAMI: Dĩ nhiên, người ta có thể nghi là trước khi gặp một người, ông ta đã có hồ sơ với mọi thứ dữ liệu về người ấy.

Đúng, có thể là thế. Tuy lúc ấy xem ra không có vẻ là thế. Tôi trở thành người xuất gia năm 1989 và lúc ấy trong giáo phái chỉ có chừng 200 người như thế. Cuối cùng tôi nghĩ có khoảng ba nghìn.

Khi đã tốt với ai thì con người ấy [Asahara] tốt hơn bất kỳ ai mà tôi đã gặp. Nhưng khi ông ta nổi giận thì ông ta là người đáng sợ nhất trong đời tôi. Chỗ khác nhau này rõ đến nỗi chỉ nói chuyện với ông ta thôi cũng đủ để bị thuyết phục rằng ông ta phần nào đó có nhận được phép màu.

Với tôi, thật khó khăn khi nghe lời mà xuất gia. Tôi không muốn làm cho bố mẹ lo phiền, hơn nữa tôi ghét mọi ý tưởng về các tôn giáo mới. Tôi cố hết sức mình giải thích mọi chuyện cho bố mẹ nhưng các vị đã khóc nhiều và điều đó khiến tôi rất khổ tâm. Bố mẹ tôi không phải kiểu người tranh luận, các vị chỉ có khóc. Sau đó không lâu mẹ tôi qua đời và tôi đau lòng ghê gớm. Vào quãng thời gian ấy, nhiều chuyện căng thẳng đã xảy ra với mẹ và câu chuyện của tôi có thể là giọt nước tràn ly. Chắc bố tôi nghĩ mẹ chết là do tôi. Tôi cầm chắc bố tôi nghĩ thế.

[Không lâu sau đó có bầu cử Hạ viện của Quốc hội Nhật bản và Aum Shinrikyo đã đưa ra vài ứng cử viên. Anh Kano đinh ninh Asahara kia sẽ trúng cử. Thậm chí bây giờ anh vẫn thấy thật khó tin khi gần như không ai bỏ phiếu cho hắn. Nhiều người theo Aum nghĩ cuộc bầu cử có gian lận. Sau chuyện này, anh Kano được điều đến Cục Xây dựng của Aum và làm việc ở các cơ sở của Aum tại Naminomura quận Kumamoto.]

Tôi ở Naminomura chừng năm tháng, ở đây tôi làm tài xế xe tải đường dài. Tôi chạy khắp nước Nhật thu gom vật liệu. Không đến nỗi. Ở công trường xây dựng, ông phải làm việc dưới nắng gắt cho nên so ra thì lái xe tải chỉ là ngồi hóng mát.

Sống ở Aum gian khổ hơn sống trong thế tục nhiều, nhưng càng gian khổ tôi càng thấy hài lòng; các dằn vặt day dứt nội tâm của tôi đã hết và tôi biết ơn điều đó. Tôi cũng kết được nhiều bạn – người lớn, trẻ con, bà già, nam nữ. Mọi người ở Aum đều nhắm một điều giống nhau – nâng đời sống tinh thần của mình lên – cho nên chúng tôi có nhiều điểm chung. Tôi không phải thay đổi chính mình mới kết giao được với người khác.

Nghi ngờ không còn vì mọi thắc mắc của chúng tôi đều được giải đáp. Chúng tôi được bảo rằng, "Làm cái này đi thì cái này sẽ đến." Chúng tôi thắc mắc gì là được giải đáp ngay. Tôi thực sự chìm đắm hoàn toàn vào trong đó. [cười] Báo đài không bao giờ nói đến khía cạnh này. Họ gán cho tất tật mọi thứ cái nhãn kiểm soát đầu óc. Nhưng thật ra không phải. Họ nói như vậy chỉ là để câu người xem các talk show truyền hình. Họ thậm chí còn chẳng thiết tường thuật đúng sự việc.

Sau Naminomura, tôi quay về tổng đàn ở núi Phú Sĩ làm việc với máy tính. Hideo Murai là cấp trên của tôi. Tôi có một vài việc muốn nghiên cứu, Murai thờ ơ bảo tôi, "Cứ làm tới đi." Ông ta chỉ làm hết sức để thực hành mệnh lệnh của trên.

MURAKAMI: Nói "của trên" ý anh là Asahara chứ?

Vâng. Murai cố dẹp đi càng nhiều càng tốt cái tôi của ông ta. Điều ông ta bận tâm duy nhất là ai đó dưới quyền ông ta đi tới hiểu được vấn đề. Nhưng nếu chúng tôi có muốn tự mình điều tra nghiên cứu cái gì thì ông ấy cũng không ý kiến gì.

Vị trị của tôi là "phó sư phụ", cấp cao nhất có thể đạt tới trong Aum, ngay dưới cấp lãnh đạo tối cao của Aum, đại khái na ná như trưởng bộ phận một công ty lớn vậy. Nhưng thật sự không oai đến thế đâu. Dưới tôi chả có người nào. Giống như tôi làm việc một mình, không có hạn chế thắt buộc. Tôi biết nhiều người như thế. Nếu ông tin báo đài nói thì bọn tôi ai cũng bị kiểm soát ngặt nghèo y như Bắc Triều Tiên ấy, nhưng sự thật là nhiều người được tự do làm những gì họ muốn làm. Và dĩ nhiên chúng tôi được tự do đi lại. Chúng tôi không có xe riêng, nhưng khi cần xe, chúng tôi có thể mượn đâu cũng được.

MURAKAMI: Nhưng sau đó đã xảy ra bạo lực thành hệ thống – ám sát luật sư Sakamoto và gia đình ông ta, đánh đập đến chết, rồi vụ Matsumoto. Chẳng lẽ anh không biết chút nào khi những chuyện như thế xảy ra sao?

Hình như là Aum đã có những động thái đáng ngờ, bí mật nhiều hơn ngày thường. Nhưng dù có trông thấy gì đi nữa, thì đầu tiên và trên hết tôi vẫn sẽ bướng bỉnh khăng khăng rằng lợi ích của công việc chúng tôi đang làm đây có giá trị hơn mọi cái xấu. Tôi không thể tin được những tin ấy trên báo đài. Nhưng từ khoảng hai năm trước [1996] tôi bắt đầu nghĩ có thể những việc như thế đã xảy ra thật.

Tôi tin rằng một chuyện như vụ Sakamoto thì đám chúng tôi không cách nào mà giấu đi được trong nhiều năm như thế. Vì toàn bộ tổ chức là rất ô hợp. Nó giống như một kiểu cộng sản chủ nghĩa mà cho dù có phạm sai lầm ông cũng không bị cách chức đuổi việc, và tuy chúng tôi nói là có "việc làm" ở Aum nhưng nó không giống với chuyện ăn lương hay cái gì đó đâu. Tôi không thể gọi đó là vô trách nhiệm, đúng thế, chỉ là không có cảm nhận về trách nhiệm cá nhân thôi. Mọi việc đều là một kiểu không rõ ràng và tùy tiện. Có cảm giác là miễn sao đời sống tinh thần ông lên cao còn kỳ dư tất cả mọi cái đều không quan trọng. Phần đông con người ở ngoài đời thường đều có vợ hay gia đình cho nên họ có một cảm thức nhất định về trách nhiệm và họ gắng hết sức làm công việc của mình. Nhưng trong Aum điều này hoàn toàn mất.

Chẳng hạn nói ông đang ở công trường xây dựng và ngày mai phải có một khung thép đến để tiếp tục làm việc. Nếu cái khung không đến, người phụ trách chỉ nói, "Ồ, đúng, tôi quên mất đấy." Và thế là xong chuyện. Ông ta có thể bị trách móc một chút nhưng ông ta không bận lòng. Ai cũng đã vươn tới được cấp độ mà ở đó những thực tế khắc nghiệt của đời sống hàng ngày không thể ảnh hưởng đến họ. Có chuyện gì xấu xảy ra họ liền bảo như thế sẽ giảm bớt nghiệp căn xấu và mọi người lại vui vẻ. Phạm sai lầm, bị la – họ chỉ coi những chuyện đó là để giảm bớt vẩn đục trong người. [cười] Nghĩ thì thấy họ là những con người rắn rỏi sắt đá. Chuyện gì xảy ra cũng chẳng làm cho họ bận tâm. Các thành viên của Aum coi thường những người bình thường trong thế tục. Như là nói: "Nhìn xem họ đang đau khổ kìa, nhưng chúng ta chẳng phải đoái đến."

MURAKAMI: Anh đã tham gia Aum trong sáu năm. Trong thời gian này, anh từng có vấn đề hay nghi ngờ nào đó không?

Tôi thấy biết ơn, hài lòng. Vì dù có chuyện gì đau đớn xảy ra họ cũng sẽ giải thích tường tận ý nghĩa của nó cho tôi. Khi đạt tới một cấp cao hơn, mọi người ai cũng tuyệt cả. Fumihiro Joyu là tấm gương tốt, nhưng cũng có nhiều người giỏi hùng biện giống như ông ta. Dứt khoát là trong Aum có một cái gì đó vận hành ở mức độ khác với thế giới thế tục. Càng thăng cấp ông càng ít cần ngủ hơn; nhiều người chỉ ngủ ba giờ một ngày. Hideo Murai là như thế. Sức mạnh tâm linh, sáng suốt – những người đạt tới cấp cao này về mọi mặt đều phần nào khiến người khác kinh ngạc.

MURAKAMI: Anh đã có lần nào gặp Asahara và chuyện trò trực tiếp với ông ta chưa?

Rồi, tôi đã gặp và nói chuyện. Hồi trước, khi người theo Aum còn ít, người ta đến với ông với những vấn đề vớ vẩn – như việc họ hay buồn ngủ vân vân, nhưng khi tổ chức lớn lên chúng tôi không có nhiều cơ hội gặp như thế nữa. Chúng tôi không còn đến được với ông theo kiểu một gặp một nữa.

Tôi đã trải qua nhiều kiểu khai tâm. Một số trong đó khá khó. Cái mà họ gọi là "Nhiệt" quả là tồi tệ. Họ cũng dính dáng đến ma túy. Lúc đó tôi không biết chuyện này nhưng đó là LSD 1. Hễ dùng nó là chỉ thấy như đầu óc đã bỏ đi đâu mất. Ông không có cảm giác về thân thể mình, ông đối mặt với cái vô thức sâu nhất của ông. Không phải thứ dễ đương đầu đâu, tin tôi đi. Ông cảm thấy hoàn toàn lơ ma lơ mơ, chắc cũng giống như sau khi chết. Tôi không biết mình đang chơi ma túy – tôi cứ ngỡ đó là một thứ thuốc làm cho hướng nội để giúp tu luyện khổ hạnh.

MURAKAMI: Nhưng có vẻ một số người đã trải qua vài ảo giác khá tồi tệ rồi kết thúc với những vết sẹo sâu về cảm xúc.

Đó là khi liều dùng quá mạnh và khi các phương pháp khác không ăn thua. Có một bộ phận trong Aum gọi là Bộ Y tế do Ikuo Hayashi phụ trách, nhưng vụ đó khá ấm ớ. Tôi nghĩ nếu họ làm khoa học hơn thì đã chẳng có vấn đề gì. Ông cần nhớ cho, trong Aum có một tư tưởng phổ biến rằng mình nên được nhận mọi kiểu thử thách và phải vượt qua chúng. Nhưng với ma túy, nếu suy nghĩ kỹ hơn một chút thì sẽ có ích hơn.

MURAKAMI: Tháng Ba năm 1995, khi xảy ra vụ đánh hơi độc, ông đang ở đâu và đang làm gì?

Tôi đang ở một mình trong phòng tại Kamikuishiki, dùng máy tính. Tôi có kết nối Internet và thường đọc tin tức bằng cách này. Chúng tôi không nên làm thế nhưng dù sao tôi cũng cứ làm. Thỉnh thoảng tôi ra ngoài, mua một tờ báo rồi chuyền tay cho người khác mượn. Nếu phát hiện ra họ sẽ cảnh cáo ông, nhưng không là chuyện gì lớn cả.

Thế là tôi vào Internet đọc tin nhanh và biết về vụ đánh hơi độc trên xe điện ngầm ở Tokyo. Nhưng tôi không nghĩ Aum dính líu tới. Tôi không biết ai làm nhưng tôi đinh ninh không phải Aum.

Sau vụ đánh hơi độc, Kamikuishiki bị vây ráp. Chúng tôi nghĩ các thành viên của Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ bị bắt hết với những lời tố giác bịa đặt và xem ra thì tốt nhất là rời khỏi đó, cho nên tôi lấy một chiếc xe hơi lái loanh quanh trong khi cảnh sát lục soát. Tôi yên chí không phải là Aum làm.

Ngay cả sau khi ông ta [Asahara] bị bắt, tôi cũng không thấy tức giận. Cái này có vẻ là khó tránh. Những người theo Aum tin rằng giận dữ là dấu hiệu cho thấy tinh thần của ông vẫn non nớt. Thay vì tức giận, chúng tôi lại nghĩ đạo đức hơn là hãy nhìn sâu vào thực tế tình hình, rồi suy xét xem cần hành động gì.

Chúng tôi nói đến việc chúng tôi nên là và tất cả đều tán thành là chúng tôi nên tiếp tục tu luyện càng nhiều càng tốt. Chắc chắn là chúng tôi không có chút cảm giác đau buồn nào về việc bị dồn vào một góc hay gì. Bên trong Aum giống như mắt của cơn bão, rất êm ả.

Tôi chỉ bắt đầu nghi ngờ Aum là thủ phạm thật sự sau khi một vài người bị bắt và thú nhận. Họ gần như đều là bạn lâu năm của tôi. Nhưng với người theo Aum trung bình thì những người đó có làm hay không không thành vấn đề; cái quan trọng là liệu ông sẽ còn tiếp tục tu luyện khổ hạnh được nữa không. Chuyện làm sao để phát triển Bản Tâm quan trọng hơn việc Aum có là thủ phạm hay không.

MURAKAMI: Nhưng các giáo huấn của Aum Shinrikyo đều đi vào một hướng nhất định, dẫn đến các tội ác này khiến nhiều người bị giết hay bị thương. Ông thấy điểm này thế nào?

Ông cần hiểu rằng phần đó – Mật thừa 2 Đát đặc la 3 – rõ ràng là khác với phần còn lại.

Chỉ những người đã đạt đến cấp cực kỳ cao mới luyện Mật thừa. Chúng tôi được dặn đi dặn lại rằng chỉ những ai đã tu xong Đại thừa mới làm được 4. Chúng tôi còn dưới đó nhiều cấp. Cho nên ngay cả sau vụ đánh hơi độc, chúng tôi cũng không thắc mắc gì về sự tu luyện cũng như các hoạt động mà chúng tôi liên quan đến trong giáo phái.

MURAKAMI: Gác đi vấn đề về cấp trên cấp dưới thì Mật thừa là một phần quan trọng của học thuyết Aum, vậy nên nó có ý nghĩa to lớn.

Tôi hiểu được ý ông nói nhưng từ vị trí của chúng tôi thì đó là một điều hão huyền – hoàn toàn không ăn nhập gì với những cái chúng tôi thường vẫn nghĩ hay làm. Nó quá xa vời. Ông phải mất cả vạn năm đạt được đủ thứ thì mới lĩnh hội được nó.

MURAKAMI: Tức là anh thấy nó không dính dáng gì đến mình? Nhưng, chỉ để tranh luận thôi, giả dụ như trình độ của anh đã tăng nhanh tới mức lĩnh hội được Mật thừa và anh nhận được lệnh giết một ai đó coi như một phần của con đường đạt tới Niết Bàn. Liệu anh có làm không?

Về logic đấy là một câu hỏi đơn giản. Miễn là giết một người mà nhờ đó ông lại kéo được người ta lên, nhờ đó người ấy sẽ hạnh phúc hơn sống cuộc đời hiện tại của người ấy. Tức là tôi hoàn toàn hiểu con đường đó. Nhưng điều này chỉ nên do một người có khả năng nhìn thấu quá trình luân hồi và hóa kiếp thực hiện. Bằng không thì đừng có làm. Nếu tôi có thể nhìn thấy điều gì sẽ xảy ra cho một người sau khi người ấy chết và giúp đưa họ lên một trình độ cao hơn – thì có lẽ ngay cả tôi cũng sẽ tham gia. Nhưng chưa ai trong Aum lên đến trình độ cao như thế.

MURAKAMI: Nhưng năm người kia đã làm chuyện đó.

Nhưng tôi thì sẽ không. Khác biệt nằm ở đấy. Tôi không thể chịu trách nhiệm với cái kiểu hành động này. Nó làm tôi sợ và tôi không tài nào làm được. Chúng ta hãy làm rõ ra một điều. Một người không thể nhìn thấu luân hồi của người khác thì không có quyền lấy đi tính mạng của người ta.

MURAKAMI: Shoko Asahara có tư cách làm việc đó không?

Lúc đó tôi nghĩ ông ta có.

MURAKAMI: Nhưng anh có đo lường được cái đó không. Anh có bằng chứng khách quan nào không?

Không, lúc này thì tôi không có.

MURAKAMI: Vậy phải chăng sẽ không thể tránh được việc pháp luật nước ta đưa ông ta ra xét xử, bất kể phán xét đưa ra là thế nào?

Đúng vậy. Tôi không nói mọi cái của Aum đều đúng. Tôi chỉ thấy có nhiều giá trị ở trong đó và tôi muốn bằng cách nào đó dùng nó làm lợi cho những người bình thường.

MURAKAMI: Nhưng ở một trình độ hiểu biết phổ biến, những người bình thường đã bị giết hại. Nếu anh không thể bù đắp được cho chuyện ấy thì ai sẽ nghe anh?

Đó là lý do vì sao tôi nghĩ chúng ta không thể nói về chuyện đó trong khung khổ của Aum được nữa. Tôi vẫn ở trong Aum vì các lợi ích nó đem lại cho tôi là rất lớn. Tôi đang cố giải quyết hết các vấn đề này, ở bình diện cá nhân. Tôi vẫn tin là ở đó có nhiều khả năng. Nó đòi hỏi một kiểu thay đổi về logic. Có những yếu tố rất đáng để hy vọng, và tôi đang cố tách bạch rõ cái tôi hiểu với cái tôi không hiểu.

Tôi sẽ chờ khoảng chừng hai năm và nếu Aum vẫn còn nguyên dạng như bây giờ thì tôi dự kiến sẽ ra khỏi đạo. Cho tới lúc đó tôi có rất nhiều điều phải nghĩ lại. Nhưng có một điều chắc chắn là chính xác – Aum Shinrikyo không học từ kinh nghiệm. Nó làm như điếc – bất kể người khác nói gì. Người khác nói chẳng ảnh hưởng tới nó mảy may. Không có cảm giác hối hận. Giống như điều mà các thành viên Aum nói về vụ đánh hơi độc: "Đó là một sứ mệnh của người khác. Không phải tôi."

Tôi không như vậy, vì tôi nghĩ vụ này là một sự kiện khủng khiếp. Lẽ ra người ta không bao giờ được làm điều đó. Cho nên ở bên trong tôi cái sự kiện đáng sợ này cứ xung đột với mọi điều tốt lành mà tôi đã trải qua. Những người bị chuyện kinh khủng ấy làm cho xúc động mạnh hơn thì bỏ Aum, còn với người mà với họ, cảm giác về những "điều tốt lành" mạnh hơn thì ở lại. Tôi đang bị kẹt vào đâu đó giữa hai bên. Tôi sẽ chờ xem.

"Nostradamus đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ chúng tôi"

Akio Namimura (sinh 1960)

Namimura sinh ra ở quận Fukui. Anh từng muốn nghiên cứu văn học và tôn giáo, hai lĩnh vực anh luôn quan tâm từ trước khi vào đại học, nhưng anh và bố anh, một người khá cứng ngắc, đã xung đột với nhau về việc anh nên chuyên về môn gì nên anh đã thôi không học đại học để đi làm. Anh tìm được việc làm ở nhà máy phụ tùng xe hơi tại thành phố Fukui. Hồi học trung học phổ thông anh ghét học, chỉ đọc các sách theo ý mình, luôn cảm thấy lạc lõng trong môi trường của mình. Phần lớn các sách anh đọc lúc đó là về tôn giáo hoặc triết học.

Anh làm nhiều nghề, và tiếp tục đọc sách, suy ngẫm, viết và đặc biệt quan tâm đến tôn giáo. Suốt đời mình, anh luôn cảm thấy rõ mình và thế giới này không hề đồng điệu. Đó là lý do anh đi tìm sự liên hệ với những người sống ở ngoài trào lưu chính. Nhưng giữa cuộc tìm kiếm ấy, anh vẫn không thể bỏ hết được sự ngờ vực rằng điều mà anh phát hiện lại không phải là câu trả lời anh tìm kiếm. Anh nhận thấy mình không thể toàn tâm toàn ý gửi gắm mình vào bất cứ một nhóm cụ thể nào, ngay cả khi anh đã trở thành thành viên của Aum cũng vậy.

Hiện nay, anh trở về quê hương, làm việc cho một công ty vận tải đường dài. Anh luôn yêu biển và thường đi bơi. Anh điên lên vì Okinawa. Anh thường khóc khi xem phim của Hayao Miyazaki. 5 "Như thế chứng tỏ tôi có cảm xúc bình thường của con người," anh nói.

° ° °

Khi tốt nghiệp trung học phổ thông tôi cảm thấy hoặc là tôi từ bỏ thế giới này hoặc là chết – một trong hai điều. Nghĩ đến tìm việc làm là tôi đã phát ốm. Nếu có thể thì tôi thích được sống một đời sống tôn giáo. Do sống có nghĩa là tích cóp tội lỗi cho nên tôi nghĩ có khi chết lại tốt cho thế giới hơn nhiều.

Những ý nghĩ này đi qua đầu tôi trong khi tôi đang bán lốp cho một công ty phụ tùng xe hơi. Thoạt đầu tôi là một tay bán hàng vô dụng. Tôi vào trạm xăng hay một cửa hàng sửa chữa xe, nói "Xin chào" rồi đứng đực ra, không nói thêm được nữa. Tôi thấy khó xử, và cả các khách hàng tiềm năng của tôi cũng thế. Mới đầu số tiền tôi bán được là con số không.

Về sau tôi giao tiếp tốt hơn và đã có thể tăng doanh thu lên được một ít. Đây là cách rèn luyện tốt cho đời. Tôi làm ở đấy hai năm. Lý do tôi bỏ việc là tôi đánh mất bằng lái.

Tình cờ một người họ hàng của tôi lại mở lò luyện thi ở Tokyo, ông ta nói tôi có thể làm việc cho ông. Tôi đang nghĩ đến việc trở thành một nhà tiểu thuyết, và khi tôi nói chuyện ấy ra, ông ta bảo tôi, "Chữa các bài làm văn, anh có thể học thành nhà tiểu thuyết đấy."

Nghe hay đấy, tôi nghĩ, cho nên đầu năm 1981 tôi chuyển đến Tokyo và bắt đầu làm việc ở lò luyện thi đó. Nhưng chuyện lại không như hứa hẹn. Người họ hàng đột nhiên trở nên lạnh nhạt với tôi: "Anh muốn thành nhà tiểu thuyết? Dẹp cái mộng ấy đi. Thế giới không phải là xứ sở thần tiên, anh biết đấy." Tôi thậm chí còn không được cho giúp chữa các bài làm văn. "Anh không đủ trình độ," ông ta bảo và tôi được bố trí cho những việc làm kỳ lạ - giữ cho học trò trật tự, quét dọn phòng, những việc đại khái như thế. Tôi chịu đựng được một năm rưỡi rồi chào thua.

Nhờ để dành được ít tiền khi làm việc ở Fukui cho nên tôi quyết định sống bằng tiền tiết kiệm qua lúc này và học để làm nhà văn. Thế là ba năm tôi thất nghiệp. Tôi hạn chế tiêu pha đến tối thiểu. Tôi không mua thứ gì cả, trừ cái ăn. Dù sao thì nói chung tôi cũng là một kẻ thanh đạm. Tôi chỉ có đọc và viết. Khu vực tôi ở thật tuyệt vì quanh đó có những năm thư viện công cộng. Đó là một cuộc sống cô độc, nhưng cô độc không làm tôi buồn phiền. Tôi nghĩ chắc nhiều người không chịu nổi cảnh như tôi.

Tôi thường đọc tiểu thuyết siêu thực – Kafka, Nadja của Breton, những cuốn như vậy. Tôi đến các lễ hội, liên hoan, giao lưu ở các trường đại học, đọc tất cả các tạp chí be bé họ phát hành và đánh bạn với những ai tôi có thể nói chuyện về văn học. Tôi kết bạn với một tay học ở khoa triết Đại học Waseda, và anh ta đã giới thiệu cho tôi nhiều tác giả: Wittgenstein, Husserl, Shu Kishida, Shoichi Honda. Tôi ấn tượng với cách viết tiểu thuyết của cha này, nhưng nay nghĩ lại thì chuyện của cha thật sự là mượn ý chỗ khác.

Tay ở Waseda có một người bạn tên là Tsuda theo Soka Gakkai 6. Anh ta cố hết sức kéo tôi theo. Chúng tôi thảo luận tôn giáo liên miên nhưng cuối cùng anh ta nói: "Xem đấy, nói suông thì chẳng đi tới đâu cả. Nếu anh không thật sự trải nghiệm nó thì đời anh sẽ không thay đổi cho nên hãy nghe tôi mà thử một lần xem sao." Thế là tôi vào nhóm Soka Gakkai của anh ta, sống với họ khoảng một tháng nhưng tôi nhận thấy cái này không phải dành cho tôi. Họ là một trong các tôn giáo nhắm đến mục đích là giúp con người trở nên thành công trong thế giới này. Tôi đang tìm một kiểu học thuyết thanh khiết hơn. Như Aum. Aum gần với các lời dạy ban đầu của đạo Phật hơn.

Khi cạn tiền, tôi bắt đầu làm việc cho một công ty chuyên chở hàng cho cửa hàng bách hóa. Tôi làm việc này trong hai năm. Việc vất vả nhưng tôi vẫn luôn thích võ thuật và tập luyện với cường độ cao nên cũng không sợ lao động chân tay. Đây là một công việc bán thời gian nên lương thấp nhưng tôi làm căng gấp ba bất cứ ai khác. Tôi theo học các lớp buổi tối ở một chỗ gọi là Trường Kỹ thuật Nhà báo Nhật. Tôi nghĩ tôi có thể viết phóng sự.

Nhưng chính vào khoảng dạo đó cuộc sống ở Tokyo khiến tôi kiệt sức. Đầu óc tôi rối tinh rối mù. Tôi hung bạo hơn, tính khí nóng nảy. Tôi thích thiên nhiên, nên tôi nghĩ trở lại với thiên nhiên hay quay về quê quán có vẻ là một ý hay. Tôi đã quan tâm tới cái gì là sẽ không rời đầu óc khỏi nó được. Lúc bấy giờ tôi quan tâm tới sinh thái học. Dù hiểu theo cách nào thì cánh rừng cụ thể ấy vẫn cháy bỏng trong tôi và tôi thèm nhìn thấy biển ở quê hương mình.

Vậy là tôi quay về nhà bố mẹ và bắt đầu làm việc trên công trường xây dựng lò phản ứng hạt nhân tốc độ cao Monju. Tôi dựng giàn giáo. Tôi cũng coi công việc này như tập luyện nhưng nó cực kỳ nguy hiểm. Sau một thời gian ông sẽ quen với độ cao. Tôi ngã nhiều lần và đã có phen suýt chết. Xem nào – tôi ở đấy phải gần một năm. Từ lò phản ứng Monju, ông sẽ thấy đại dương đẹp như một kỳ quan. Chính vì thế tôi chọn công việc này. Tôi có thể ngắm đại dương trong khi làm việc. Biển ở nơi xây dựng lò phản ứng hạt nhân là đẹp nhất trong cả một vùng quanh đó.

MURAKAMI: Nhưng một người thích sinh thái học thì có nên làm ở lò phản ứng hạt nhân không?

Lúc ấy tôi đang có kế hoạch viết phóng sự về lò phản ứng hạt nhân này. Tôi nghĩ viết về nó thì sẽ phế bỏ được việc tôi tham gia xây dựng nó. Nghĩ kiểu hy vọng, có lẽ. Ông biết phim Cầu trên sông Kwai 7 chứ? Ý tưởng của tôi cũng tương tự. Ông ra sức xây dựng một cái gì rồi cuối cùng ông tự phá hủy nó. Dĩ nhiên tôi không định đi đặt bom hay gì. Nói thế nào nhỉ? Vì đằng nào biển mà tôi rất yêu mến cũng sẽ bị ô nhiễm, nên tốt hơn để tôi là người làm điều đó. Những cảm xúc chồng chéo, tôi biết. Đầu óc tôi bị xé ra nhiều hướng.

Một năm sau, tôi xong việc ở Monju và đến