← Quay lại trang sách

Chương 21.

Khi Carolee gọi và nhờ tôi trông Allison trong vài tiếng đồng hồ, tôi chỉ muốn thú thật - Xin đừng bắt tôi phải trông trẻ. Nhưng Carolee đã nhanh hơn tôi.

— Ali nhớ chú lợn lắm - bà ta nói. - Nếu cô để nó đến thăm Penelope, con bé sẽ rất vui và tôi có thể đi nha sỹ chữa răng. Tôi sẽ rất biết ơn đấy, Lindsay ạ.

Khoảng nửa tiếng sau, Allison bật dậy và ra khỏi xe, chạy đến cửa trước. Mái tóc sẫm bóng mượt của cô bé buộc hai bên, và từ đầu đến chân cô bé toàn màu hồng, kể cả giày.

— Chào cháu, Ali.

— Cháu mang táo đến - cô bé nói, chạy lách qua tôi vào trong nhà. - Rồi cô sẽ thấy.

— A-ha - tôi nói, vờ phấn khởi.

Tôi vừa mở cửa sau, Penelope đã lon ton chạy tới hàng rào và bắt đâu ủn ỉn ồn ào một tràng những tiếng eng éc và ụt ịt. Allison cũng ụt ịt trả lời. Đúng lúc tôi nghĩ hàng xóm sẽ gọi cho người trông nom động vật thì Allison toét miệng cười nhìn tôi và nói, - Đấy là tiếng lợn đấy.

— Cũng có người bảo với cô như thế, tôi nói, mỉm cười nhìn cô bé.

— Đó là ngôn ngữ thật sự đấy - Allison khăng khăng. Cô bé gãi lưng chú lợn, Penelope lăn tròn, giơ bốn chân lên trời phê tít.

— Hồi Penelope còn bé, nó sống trong một cái nhà to ở gần biển với tất cả những chú lợn trên thế giới - Ali nói với tôi. - Nó thường thức cả đêm và nói chuyện bằng tiếng lợn với những chú lợn khác còn ban ngày thì nó làm móng, gọi là móng lợn.

— Thế á?

— Lợn thông minh hơn người ta tưởng nhiều - Ali tiết lộ. - Penelope biết rất nhiều thứ. Nhiều hơn chúng ta tưởng.

— Thế mà cô không biết đấy, tôi nói.

— Cô này - Ali tiếp tục. - Cô cho nó ăn táo nhé. Cháu phải đi vẽ móng chân cho nó.

— Thật à?

— Nó muốn thế mà.

Vì Allison đảm bảo với tôi rằng có thể thả chú lợn ra nên tôi làm đúng như cô bé nói. Tôi cầm mấy quả táo để Penelope nhai rào rạo trong lúc Ailison luôn mồm nói và lấy lọ sơn móng tay vẽ lên những cái móng của chú lợn.

— Xong rồi, Penny. Ali rạng rỡ đầy kiêu hãnh. - Để cho nó khô. Đấy - nó nói với tôi. - Martha biết làm gì?

— Thật ra chó cũng có ngôn ngữ riêng. Martha được huấn luyện để canh cừu theo mệnh lệnh.

— Cô cho cháu xem nào!

— Cháu có nhìn thấy có con cừu nào ở xung quanh đây không?

— Cô ngốc thật.

— Ừ, cô ngốc lắm. Nhưng cháu có biết: cô thích cái gì nhất ở Martha không? Nó làm bạn với cô và nó báo cho cô biết ai là kẻ xấu hoặc thậm chí là về những việc có thể xảy đến ban đêm.

— Cô có súng, đúng không? - Ali hỏi, trên khuôn mặt ngọt ngào của cô bé hiện nét láu lỉnh.

— Có, cô có súng.

— Hay quá. Một khẩu súng và một con chó. Cô tuyệt thật, Lindsay. Có lẽ cô là người hay nhất mà cháu từng biết.

Cuối cùng tôi cũng cười ngả cười nghiêng. Ali thật dễ thương và có trí tưởng tượng thật phong phú. Tôi nhận thấy mình rất thích cô bé. Tôi đến Vịnh Nửa Vầng Trăng để ngẫm nghĩ lại toàn bộ cuộc đời mình. Giờ tôi tưởng tượng một cách sống động cảnh tôi, Joe, một ngôi nhà và một cô bé.

Tôi còn đang chìm đắm trong ý nghĩ đáng kinh ngạc này thì Carolee bước vào sân sau với một nụ cười méo mó. Tôi không thể tưởng tượng được hai tiếng đồng hồ đã trôi qua và tôi thật sự nuối tiếc khi phải để Ali về.

— Hôm nào cháu lại sang chơi nhé - tôi nói, ôm hôn nó để chào tạm biệt. - Ali, hãy đến bất cứ lúc nào nhé.

Tôi đứng trên phố vẫy cho đến khi chiếc xe của Carolee khuất sau cho rẽ trên đường Sea View Avenue. Nhưng khi chiếc xe vừa đi khỏi, ý nghĩ vẫn lẩn khuất đâu đó trong tâm trí tôi giờ lại hiện ra. Tôi mang máy tính xách tay ra phòng khách, ngồi vào cái ghế mềm, và bật cơ sở dữ liệu của NCIC lên (Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia). Trong vòng vài phút, tôi được biết Tiến sỹ Ben O'Malley, 48 tuổi, vài lần bị phạt vì lái xe quá tốc độ và bị bắt vì lái xe sau khi uống rượu 5 năm trước, ông ta đã kết hôn và hai lần goá bụa.

Người vợ đầu tiên tên là Sandra, có với ông ta cô con gái Caitlin. Bà ta đã chết trong ga-ra ô tô nhà họ năm 1994, treo cổ tự tử. Bà O'Malley thứ hai, Lorelei Breen, bị ám sát ngày hôm qua, 39 tuổi, bị bắt vì ăn cắp vặt năm 1998. Đã nộp phạt và được thả.

Tôi cũng kiểm tra cả Alice và Jake Daltiy, và một loạt thông tin hiện ra trên màn hình. Jake và Alice đã kết hôn được 8 năm và hai đứa con trai 6 tuổi, sau khi bố mẹ bị giết hại trong ngôi nhà màu vàng ở Crescent Heights giờ trở thành côi cút.

Tôi hình dung lại hình ảnh ngôi nhà dễ thương với quanh cảnh nhìn ra vịnh, lưới bóng rổ nằm lăn lóc, và chiếc giày thể thao trẻ em.

Rồi tôi lại tập trung vào màn hình.

Jake đã từng là một kẻ không ra gì trước khi anh ta lấy Alice. Tôi nhấp chuột xuống hồ sơ của anh ta: từng có quan hệ với một gái điếm và giả mạo chữ ký của bố để ký lấy séc bảo hiểm xã hội, anh ta đã phải ngồi tù sáu tháng vì chuyện này, nhưng 8 năm vừa qua hồ sơ anh chàng trong sạch và anh ta có việc làm ổn định tại một quán pizza trong thành phố.

Vợ của anh ta, Alice, 32 tuổi, hồ sơ không có vấn đề gì. Thậm chí không bao giờ vượt đèn đỏ hay đâm vào xe đẩy của ai ở siêu thị.

Thế mà cô ta vẫn phải chết.

Vậy là thế nào?

Tôi gọi cho Claire, cô ấy nhấc máy ngay sau lần đổ chuông đầu tiên. Chúng tôi vào việc ngay.

— Claire, cậu có thể xem xét hộ mình được không? Mình đang tìm mối liên hệ giữa vụ ám sát O'Malley và vụ của Alice và Jake Daltry.

— Tất nhiên, Lindsay ạ. Mình sẽ hỏi vài người đồng nghiệp trong bang. Xem có tìm được thông tin gì không.

— Và cậu có thể tìm giúp mình thông tin về Sandra O'Malley được không? Chết năm 1994, treo cổ tự tử.

Chúng tôi nói chuyện thêm một lát nữa, về chồng của Claire, Edmund và chiếc nhẫn saphia mà anh tặng cô ấy vào dịp kỷ niệm ngày cưới của họ. Và chúng tôi cũng nói về cô gái bé nhỏ tên là Ali biết nói tiếng lợn.

Khi bỏ máy, tôi cảm thấy như nghẹt thở. Tôi đang định tắt máy thì có cái gì đó đập vào mắt. Khi Lorelei O'Malley ra hầu toà vì đã lấy cắp một đôi khuyên tai giá 20 đôla, một tay luật sư trong vùng tên Bob Hinton đã đứng ra bào chữa cho bà ta.

Tôi biết Bob Hinton.

Danh thiếp của anh ta vẫn còn trong túi quần soóc của tôi từ hôm anh ta làm tôi ngã sóng soài bằng chiếc xe đạp mười tốc độ của anh ta. Và theo như tôi nhớ, anh chàng nợ tôi một việc.

Văn phòng của Bob Hinton là một căn phòng kín bưng trên phố Main, nằm chẹt giữa càfê Starbucks và một ngân hàng. Với hi vọng cậu ta sẽ có trong văn phòng vào thứ bảy, tôi đẩy cánh cửa kính và thấy Bob đang ngồi sau cái bàn gỗ lớn, mái đầu hói cúi xuống tờ Người thẩm vấn San Francisco.

Cậu chàng đứng bật dậy, chìa tay ra, quệt vào tách càfê làm càfê đổ tung toé lên khắp trang giấy. Tôi kịp thấy bức ảnh trên trang đầu trước khi nó bị càfê thấm ướt. Đó là bức ảnh một cậu bé ngồi trên xe đẩy. Sam Cabot. Cơn ác mộng bé nhỏ của tôi.

— Xin lỗi, Bob, tôi không cố ý làm anh giật mình.

— Không cần phải xin lỗi - Bob nói. Cậu ta sửa lại cặp kính gọng hồng và rút khăn giấy từ ngăn bàn ra để lau vết càfê. - Mời cô ngồi.

— Cảm ơn.

Bob hỏi tôi sống ở Vịnh Nửa Vầng Trăng thế nào, tôi nói với cậu ta tôi đang cố giết thời gian.

— Tôi vừa đọc về cô xong, Trung uý ạ - cậu ta nói, lấy một nắm giấy ăn chùi trang báo.

Trong thế giới nano đúng là không có bí mật nhỉ - tôi cười. Rồi tôi nói với Bob rằng tôi bắt đầu quan tâm đến những vụ ám sát xảy ra cách nơi tôi ở chỉ có hai dặm và hỏi liệu cậu ta có thể nói gì cho tôi biết chăng.

— Tôi biết Lorelei O'Malley, cậu ta nói. Tôi đã từng là luật sư bào chữa của bà ta. Bà ta chỉ bị phạt nhẹ - cậu ta nói và nhún vai bất mãn. Tôi chỉ biết Ben sơ sơ. Người ta đồn ông ta dính líu đến cái chết của Lorelei, nhưng tôi không thể tưởng tượng ông ta có thể giết mẹ kế của Caitlin. Con bé đã từng suy sụp tinh thần khi mẹ đẻ của nó tự tử.

— Cảnh sát bao giờ cũng nghi ngờ bạn đời đầu tiên.

— Dĩ nhiên. Tôi biết. Tôi có vài người bạn ở sở. Tôi lớn lên ở Vịnh Nửa Vầng Trăng - cậu ta giải thích, và bắt đầu lập nghiệp ở đây ngay sau khi tốt nghiệp trường luật. Tôi thích làm con cá nhỏ ở ao nhà.

— Cậu quá khiêm tốn, Bob ạ - tôi khoát tay, chỉ về phía những tấm ảnh treo trên tường có hình Bob bắt tay với Thống đốc bang và một số những nhân vật cao cấp khác. Cũng có vài giải thưởng được đóng khung cẩn thận.

— À, mấy thứ đó à - Bob nói, lại nhún vai. - tôi có làm vài việc từ thiện với tư cách là đại diện cho những trẻ em bị lợi dụng và bị bỏ rơi. Cô biết đấy, đại diện bọn trẻ, đấu tranh để quyền lợi của chúng được đảm bảo.

— Rất đáng tuyên dương - tôi nói. Tôi bắt đầu có cảm tình với anh chàng dễ mến này, tôi để ý thấy rằng cậu ta cũng bắt đầu cảm thấy thoải mái hơn với tôi. Từ khi đánh đổ tách càfê anh ta chưa hề bị nói lắp.

Bob ngả người ra sau ghế và chỉ tay về bức ảnh một buổi lễ khen thưởng trong toà thị chính. Bob bắt tay với một nhân vật đang đưa cho anh ta một tấm băng.

— Cô nhìn thấy người kia không? - cậu ta hỏi, chỉ vào người đàn ông sang trọng ngồi trên sân khấu cùng một vài người khác. - Ray Whittaker. Ông ta và vợ, Molly, sống ở LA nhưng đến đây nghỉ hè. Bị giết trên giường mấy năm trước. Lindsay, cô biết là tất cả những người này đều bị đánh đến chết không?

— Tôi có nghe nói - tôi trả lời. Tôi thất thần một lát khi nghi đến việc còn có những vụ ám sát khác đã xảy ra vài năm trước. Tại sao chúng lại đánh nạn nhân? Kẻ giết người hành động bao lâu rồi?

Khi tôi định thần lại, Bob vẫn đang tiếp tục nói về nhà Whittaker.

—.... Họ là những người dễ gần, và dễ chịu.

Ông ấy là một nhiếp ảnh gia còn bà ấy là một diễn viên gì đó ở Hollywood. Thật vô lý. Tất cả bọn họ đều là những người tốt, và đúng là một bi kịch khi những đứa trẻ mồ côi phải về ở với bố mẹ nuôi hoặc với những người họ hàng mà chúng không quen biết. Tôi rất lo cho bọn trẻ. Cậu ta lắc đầu và thở dài. - Sau mỗi ngày làm việc, tôi lại cố bỏ lại những thứ như thế này ở văn phòng, nhưng tôi chẳng mấy khi thành công.

— Tôi biết anh muốn nói gì - tôi nói. - Nếu anh có thời gian, tôi sẽ kể cho anh nghe một câu chuyện mà tôi vẫn mang từ văn phòng về nhà trong mười năm qua.

Bob đứng dậy và đi lại chiếc máy pha càfê đặt trên tủ để hồ sơ. Cậu ta rót ra hai cốc càfê.

— Tôi có tất cả thời gian trên trái đất này - cậu ta nói. Tôi không thích giá cả của Starbucks. Cậu ta quay sang nhìn tôi cười. - Cũng chẳng thích cách bài trí cửa hàng của họ.

Vừa uống tách càfê nhạt nhẽo với sữa bột, tôi vừa kể cho Bob nghe về vụ án đầu tiên của tôi.

— Chúng tôi tìm thấy cậu bé trong một khách sạn dơ dáy bẩn thỉu ở quận Mission. Trước đó tôi đã từng nhìn thấy xác chết, nhưng tôi vẫn bị sốc, Bob ạ. Cậu bé rất trẻ - khoảng 17 đến 21 tuổi và khi tôi bước vào phòng, tôi thấy cậu bé nằm sấp, tay chân dang ra, thối rữa trong vũng máu của chính mình. Ruồi bâu đầy người. Cả một lớp ruồi vo ve.

Cổ họng tôi nghẹn lại khi hình ảnh ngày xưa lại ập về; nó rõ mồn một như thể ngay lúc này đây tôi đang đứng trong căn phòng khách sạn, suy nghĩ. Trời ơi, hãy cho tôi ra khỏi chỗ này. Phải làm một ngụm càfê kinh khủng tôi mới có thể tiếp tục.

— Trên người cậu bé chỉ có hai thứ: một chiếc tất Hanes loại thường, chẳng khác gì hàng trăm ngàn đôi tất khác bán ở khắp nơi, và một chiếc áo phông mua từ cửa hàng Distillery. Cậu có biết chỗ đó không?

Bob gật đầu. - Tôi dám cá là khách du lịch nào đi qua Vịnh Nửa Vầng Trăng từ năm 1930 tới giờ đều đã đến ăn tại quán đó.

— Ừ, một manh mối vớ vẩn. Thằng bé đó chết như thế nào?

— Bị dao cứa cổ. Và mông cậu bé bị rách vì bị đánh bằng roi. Nghe quen chưa?

Bob lại gật đầu. Cậu ta đang lắng nghe rất chăm chú nên tôi tiếp tục. Tôi nói với anh ta là chúng tôi lục tìm khắp thành phố và Vịnh Nửa Vầng Trăng trong hàng tuần.

— Không ai biết nạn nhân, Bob ạ. Dấu vân tay của cậu ta không có trong hồ sơ, và căn phòng nơi cậu ta bị giết dơ dáy đến mức rất dễ bị nhiễm độc vì bẩn. Chúng tôi hoàn toàn không có manh mối nào cả.

— Không ai đến để nhận dạng nạn nhân. Điều đó không phải là lạ. Chúng tôi đã có 23 anh chàng John Doe trong năm đó. Nhưng tôi vẫn nhớ sự ngây thơ trên khuôn mặt thằng bé. Nó có đôi mắt xanh, tôi nói. Tóc đỏ nhạt. Và giờ đây, sau nhiều năm, lại thêm những vụ án giống như vậy.

— Cô biết điều gì là lạ không hả Lindsay? Tôi nghĩ là kẻ giết người có thể sống ngay tại thành phố này.

Điện thoại reo, cắt ngang lời Bob.

— Robert Hinton - cậu ta nghe máy.

Ngay lập tức, mặt cậu ta trắng bệch. Im lặng bao trùm, chỉ có tiếng Bob nói, - À, à. Rồi cậu ta nói, - Cảm ơn vì đã báo cho tôi biết - rồi bỏ máy.

— Một người bạn của tôi làm ở tờ Gazette - cậu ta giải thích. - Mấy đứa nhỏ đi bộ dã ngoại đã tìm thấy thi thể của Ben O'Malley trong rừng.