Hạt Mưa Ký Ức
“ ... Nụ đã nghe rất nhiều câu chuyện mà người thân trong gia đình bồi hồi xao xuyến nhắc về mùa thu cây bàng lá đỏ có hương cốm thoảng theo gánh cô hàng đong đưa qua phố; Nỗi nhớ chiều hồ Gươm sương phủ bạc trắng bốn bờ, hiu hắt tiếng sâm cầm ngơ ngác gọi bầy …”
.
Lúc thật bé, mọi người trong nhà và các cô bên nhà ông nội đều gọi nó là Nụ. Nụ chỉ còn nhớ ngày còn lẫm chẫm đi lại trên khoảng sân gạch nâu đỏ bên trong khung cửa sắt cao màu xanh ở cổng nhà, lúc nào cũng nghe văng vẳng tiếng u già gọi cô Nụ ơi hay em Nụ đâu rồi. Giọng u ấm áp, luôn thấp thoáng ẩn hiện nụ cười đen nhánh, và đôi mắt hiền hòa dưới chéo khăn mỏ quạ màu quả trám khô. Nụ thích lắm tiếng u già gọi nó như thế, nhất là những khi hai u cháu chơi ú òa phải trốn, tìm nhau. Âm vang tiếng gọi của u vừa yêu chiều, vừa dịu dàng, vừa quý mến như đặt Nụ vào một vị thứ nào đó quan trọng trong gia đình. Nghe là lạ, nhưng dễ chịu, khác với tiếng Nụ ngắn gọn, cụt ngủn, mọi người khác vẫn luôn dùng để gọi nó; Đôi khi tiếng gọi dứt khoát của họ làm Nụ hơi bất ngờ, giật mình, và sợ hãi nữa. Tiếng gọi từ tốn của u già nặng đầy ý quan tâm bảo bọc, tình quyến luyến và còn như thầm chuyển mọi an nhiên, từ ái đến che chở Nụ. Nhiều năm qua, Nụ vẫn bâng khuâng tự hỏi tại sao “cô Nụ ơi” hay “em Nụ đâu rồi” cứ còn mãi trong tâm tưởng, và mỗi lần vọng về đều đem lại nhiều ngọt ngào, dịu êm như thế?
Phố Ngõ Trạm, Hà Nội
Trong trí nhớ, Hà Nội của Nụ là ngôi nhà với khoảng sân trước khá rộng, có bờ tường gạch bao quanh và khung cổng cao luôn được đóng kín bằng hai cánh cửa sắt màu xanh lá sấu. Ký ức ấy có u già, quanh năm chít khăn mỏ quạ thâm đen, và bao giờ quần áo cũng chỉ một mầu tối bạc như bị ám khói. U già vừa là vú nuôi của Nụ và cũng là một người bà con rất xa trong họ. Thỉnh thoảng Nụ còn ngờ ngợ thấy bóng dáng u dùng cọng lá đu đủ thổi bóng xà bông cho Nụ đuổi bắt quanh gốc sung khá to ở góc sân. Những bọt bong bóng trong veo, to nhỏ nhiều cỡ, lóng lánh bay vòng theo những đốm nắng trưa vàng mơ. Nụ nhớ thân cây sung có vài vết trầy, dấu khấc đã nám nâu, và hơi nứt nẻ phần gần gốc, nhưng luôn chi chít các chùm quả mọng tròn, lung linh khác mầu nhau, như khoe độ chín của từng quả trên các nhánh. Những khi chiều chuộng hay nựng nịu dỗ dành Nụ, u già bầy sung vào mấy chiếc giỏ mây nhỏ để Nụ chơi. Mỗi giỏ một mầu quả, xanh rêu non, đỏ ánh cam, vàng thanh trà, và tím bồ quân; Những quả sung no nắng hoàng hôn, rực rỡ mầu sắc của một cõi vàng xưa. Bao năm qua, hình ảnh hiền hòa ngộ nghĩnh ấy vẫn thỉnh thoảng trở lại, nhưng chỉ lãng đãng trong tiềm thức của Nụ thôi, mờ nhạt như không thật. Tất cả đều lơ lửng chơi vơi, nhưng quẩn quanh không rời, không phải từ tưởng tượng hay ảo giác, và cũng chưa bao giờ thay đổi hay tan mất hẳn. Hà Nội vẫn lặng lẽ trở về với Nụ như vậy. Đôi lần không gian ấy còn mơ hồ quyện hương bồ kết rất nhẹ hay phảng phất mùi vỏ trầu dịu quen từ vai chiếc áo bông của u già, nơi Nụ nhiều lần áp mặt gắt ngủ trong tiếng ru “à à ơi, à à ời … cái cò, cái vạc, cái nông … sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò?” Tiếng à ơi mênh mang chấp chới chao liệng mãi trong giấc ngủ của Nụ.
Nhưng cũng có đôi lần Nụ đã ngờ ngợ nhớ lại một buổi sáng ảm đạm, mưa lấp lửng khắp nền gạch sân nhà. Cả gia đình dắt díu nhau vội vã lên xe. Bà ngoại bồng Nụ, bố một tay xách chiếc va li nhỏ, tay kia dắt anh Cường, mẹ địu em bé và đeo một giỏ nan đựng mấy cái bánh giò, chai nước lọc, yếm tã em bé, không biết đã được u già chuẩn bị sẵn từ bao giờ. Phố vắng không một bóng người, nhà nào cũng đóng cửa, đường sũng ướt, ít xe qua lại. Nụ nhớ mãi khi chỉ còn lại một mình trong sân, u già mếu máo sụt sùi dấu mặt trong chéo khăn trùm tóc. Cuối cùng, u chạy ra ngoài cổng, rũ rượi khuỵu xuống vừa khóc, vừa vẫy tay khi xe lăn bánh rời đi. Nụ váng vất, tức tửi giãy giụa trong tay bà. Phố lui dần lại, mưa nặng hạt, mờ mịt, không còn nhìn thấy u già nữa.
.
Ký ức sau đó là hai to, ướt đầm đìa dưới màn mưa phủ tràn sân bay, nơi mà sau này Nụ nghe bà kể là phi trường Gia Lâm. Rồi hình ảnh la liệt người nằm, ngồi chen chúc nhau trên sàn máy bay quanh chiếc khăn nhỏ bà trải cho mấy anh em Nụ ngồi. Máy bay dằn xóc chòng chành, có khi như đột ngột vọt lên cao, rồi lại bất ngờ hạ thấp thật nhanh. Mọi người trên sàn mất thăng bằng, ngả nghiêng chúi đổ vào nhau nhiều lần, ồn ào tiếng trẻ em kêu khóc suốt chuyến bay. Tất cả những hình ảnh lộn xộn, thất thường, đảo điên này là Hà Nội còn lại trong ký ức của Nụ. Cũng có thể, khúc đoạn dĩ vãng nhỏ nhoi đó đã được phong phú thêm theo những mẩu chuyện bà ngoại kể mà Nụ còn nhớ được, hoặc từ những tấm ảnh úa vàng trong quyển album gia đình. Tâm trí Nụ toàn các đoạn phim mù mờ, hình ảnh nhập nhằng, gián đoạn, không đầu đuôi như vậy suốt những năm còn ở Sài Gòn.
.
Hà Nội đấy, bố kể, Nụ được sinh ra ở nhà hộ sinh trên phố Hàng Bún, một nhà thương khang trang có bên ngoài đẹp như biệt thự, tọa lạc giữa khu nhà yên tĩnh thuộc trung tâm thủ đô. Bấy giờ, đoạn đường với hai hàng cây bàng gần nhà thương đang giữa mùa lá đỏ, mây trời biêng biếc, lá khô lác đác quanh các gốc bàng rêu phong. Phố xôn xao sắc thu. Và Hà Nội còn có u già yêu dấu đã vò võ bón mớm chăm chút Nụ bao đêm ngày. Hà Nội vừa thân quen, gần gũi và cũng vừa rất xa lạ, khó hiểu. Hà Nội mờ nhạt, thầm lặng, thao thiết đợi mong, và bàng bạc thôi thúc nhớ nhung. Lần nào hồi tưởng lại, Nụ cũng rưng rưng vẩn vơ sợ một lúc nào phần ký ức mong manh đó sẽ không trở về nữa.
Nụ rời Hà Nội khi được 3 tuổi, còn quá nhỏ để biết hay nhớ thời gia đình từng sống êm đềm, khá giả ở đấy. Theo lời kể của bà ngoại, bố mẹ đã có ba căn nhà gạch mái ngói, loanh quanh khu gần hồ Gươm. Khoảng sân có u già chít khăn mỏ quạ hay luẩn quẩn trong tâm trí Nụ là phần trước căn nhà mà gia đình cư ngụ trên phố Ngõ Trạm, gần chợ Hàng Da của Hà Nội ba mươi sáu phố thuở xa xưa. Hai căn nhà còn lại được dùng làm cơ sở của một trường tư dậy Pháp Văn do bố Nụ, chú Thụy và bác Liễn, hai người bạn của bố, cùng đảm nhiệm. Sau này được đọc một số tác phẩm nhắc đến Hà Nội của các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn, Nụ đã nghĩ có thể nhà ở Ngõ Trạm thuộc khu trung lưu của Hà Nội ngày xưa vì có khoảng sân trưng bầy mấy chậu cây quý, có bụi hồng trà quanh năm dịu thơm, có cây phong thủy cành cong dáng nghiêng đặc thù, và một hòn đá to có vân ẩn hình bóng núi,… đẹp êm đềm như một vườn cảnh nhỏ sau bờ tường rào. Trên vòm cổng còn thấp thoáng giàn dạ yến thảo quanh năm lác đác hoa tím rũ dịu dàng. Phong cách bài trí trong sân có nét ngưng đọng của thời gian, giống như một vườn non bộ nhỏ của những căn nhà khang trang trong phố, mà các truyện đã kể, và nhà Nụ cũng có cửa sắt mở ra bờ hè rộng, quanh năm rì rào bóng mát cây xanh. Cũng không ít lần, Nụ đã bâng khuâng tự hỏi không hiểu nhà Nụ ngày ấy có phảng phất sắc thái cổ phong, xa vắng như của nhiều ngôi nhà ở phố đã nhuốm mầu thời gian, trĩu nặng các hoài niệm? Hay là một nếp nhà mái xám hoặc ngói đỏ, hiu hắt trong khu phố ảm đạm màu sương mù, được diễn tả trong các tranh vẽ phố xưa sâu lắng của họa sĩ Bùi Xuân Phái [1]? Nhưng hẳn là phải thuộc khu thi vị, trữ tình vì Hoàng Anh Tuấn, người vô cùng yêu Hà Nội, đã không quên nhắc Ngõ Trạm, nơi đọng mãi ký ức về mối tình ngọt ngào thơ dại của nhà thơ:
Anh nắn nót một trường thi lãng mạn
Thơ thuở bé khắc ghi tình Ngõ Trạm".
(Trích từ “Bài Thơ Hà Nội”, Hoàng Anh Tuấn)
Nụ cũng không thể hiểu tại sao đã luôn nghĩ ngợi, thương nhớ Hà Nội dù không thật sự biết gì về nơi chốn ấy ngoài vài địa danh, hình ảnh chắp nối hay tự tưởng tượng dựa theo các câu chuyện hồi tưởng lại tháng ngày bình yên hạnh phúc cũ của những người lớn trong gia đình.
Giã từ Hà Nội, cuộc sống của gia đình Nụ đã rất long đong, vất vả trong nhiều tháng đầu tiên ở Sài Gòn.
Trại Tam Cư ở Trường Pétrus Ký, Sài Gòn
Gần cuối tháng 8 năm 1954, gia đình Nụ đến trại tạm cư trong khuôn viên của Lycée Pétrus Ký, tên trường vừa lạ vừa khó phát âm nhưng bố đã trìu mến nhắc đến rất nhiều lần trong những năm cả gia đình còn ở Sài Gòn.
Những hình ảnh tiếp theo trong trí nhớ là một khoảng sân trung tâm rất rộng, nhiều thảm cỏ xanh, nắng trưa rực rỡ, bầu trời bông bênh những dải mây trắng, và hàng cây hoàng điệp xào xạc tiếng lá trong khuôn viên trường Pétrus Ký. Trên bốn vuông cỏ rộng giữa sân, hàng hàng lều vải giống nhau được dựng san sát kín mọi chỗ trống. Gia đình Nụ được chia cho một cái lều ở góc ngoài gần sát lối đi tráng xi măng. Lều hơi thấp nên anh em Nụ thường chỉ được ngồi hay nằm mỗi khi về ăn cơm hay chia nhau chỗ ngủ trên chiếc chiếu choán gần kín diện tích mặt cỏ ở dưới lều. Gia đình ông bà nội cũng ở một nhà lều như vậy, khoảng gần giữa sân, nơi có tượng cụ Trương Vĩnh Ký [2]; Bà ngoại gọi là tượng cụ bác học và dậy Nụ phải khoanh tay cúi chào cụ mỗi khi đi đâu qua vùng trung tâm sân trường.
Từ đó, ngày ngày cô Hiên, tay dẫn Nụ tay cắp rổ, xếp hàng chờ gần cổng trường để nhận thực phẩm tương trợ của chính phủ hay các tổ chức nhân đạo. Nắng trưa ong ong, đông người, ngột ngạt nhưng mọi người đều kiên nhẫn chờ nhận gạo, muối, cá khô để có phần ăn qua ngày. Nhà ông nội đông các cô, chú nên ngoài cô Hiên, cả cô Loan cũng phải phụ xếp hàng như thế. Thỉnh thoảng, Nụ được các bác chia gạo dúi cho chiếc kẹo dừa thơm béo ngậy, ngậm vào là tan lịm thật nhanh trên lưỡi, nhưng vị bùi ngọt mê mẩn của dừa ngào đường thốt nốt cứ theo Nụ cả ngày. Bao buổi chiều, lũn cũn theo các cô đi hứng nước, Nụ chỉ bê được một lon guigoz nước vơi vơi, vậy mà về đến lều cũng luôn lướt thướt ướt. Nhiều hôm ở ngay chỗ vòi nước, nếu thấy Nụ quá nhem nhuốc, cô Hiên còn xối nước tắm rửa Nụ sạch sẽ trước khi dẫn về lều.
Thỉnh thoảng có hôm trời đổ mưa rào, anh em Nụ phải ở trong lều, nhưng luôn đùa chơi quanh quẩn ngay lối vào, cùng nhau đếm những hạt bong bóng nước rơi vỡ trên mặt cỏ; Và đôi lần còn từ từ thả từng chiếc thuyền, làm bằng các mảnh báo cũ gói đồ ăn, cho trôi theo 2, 3 rãnh nước đục mầu từ lều ra góc đường xi măng hơi dốc xuống một cái mương nhỏ. Những chiếc thuyền giấy lạc loài trôi như mấy cô cháu, anh em Nụ. Những lúc ấy, cô Út luôn ôm Nụ thì thầm lậy trời xin mưa mau tạnh để đến tối chiếc chiếu ngủ không bị ướt.
.
Khi trời chập choạng tối, các ánh lửa yếu ớt từ những ngọn nến nhỏ, đặt gần cửa các nhà lều, theo nhau nhập nhòa sáng lên. Riêng nhà Nụ, sau bữa cơm chiều, mấy cô cháu luôn tụ họp quanh ngọn nến leo lét, cười nói ríu rít. Anh Cường bắt chước cô Út uốn vặn hai bàn tay, rồi dang lên cao hay quơ múa gần ngọn nến để tạo bóng chim chao, hạc lượn trên bầu trời là vách lều đối diện chỗ đặt nến. Nhà ấm dần trong những tiếng cười nói trong trẻo, vui nhộn. Cô Hiên dậy Nụ đếm bóng của những con chim đang xoãi bay theo bầy. Nụ đã đếm được chim bà, chim bố, chim mẹ, chim con, nhưng còn thiếu chim u già. Nụ lại tủi thân, nước mắt dân dấn, nhưng không dám khóc.
Thấm thoát đã đến mùa Trung Thu. Nụ mang máng nhớ có lần đã được u già dẫn ra đầu ngã ba gần nhà, nơi có tiệm trưng hàng Tết đón trăng, xem đèn kéo quân lập lòe ánh nến, đèn chú thỏ xanh, đèn ông sao vàng, đèn cá chép đỏ, và những chiếc mặt nạ nhiều mầu bằng giấy bồi được sơn, ghép dầy cộm. Góc phố tưng bừng nhiều loại đèn căng giấy bóng kính trong suốt, lung linh ánh nến, rực rỡ mầu sắc trên các khung tre được vót uốn thành hình hoa quả hay muông thú ngộ nghĩnh. Phố đông người qua lại, tiếng chào hỏi nhau rộn ràng. Hương bánh đậu xanh nướng thơm lừng cả mấy đoạn đường lân cận. Rồi trên đường về, Nụ thiếp ngủ trên vai u già, mơ mơ màng màng trong tiếng u rủ rê vỗ về “Em Nụ đánh đu với khướu để cùng lên thăm ông giăng nhé…” và giọng ru ngọt ngào ngân nga:
Ông giẳng, ông giăng….
xuống chơi với tôi.
có bầu có bạn,
Có váng cơm sôi.
Có nồi cơm nếp,
Có nệp bánh chưng.
Có lưng hũ rượu,
Có khướu đánh đu. …” [3]
Nụ lơ mơ, khướu cũng biết đánh đu, … mây trời lao chao theo nhịp đu quay vòng lên chao xuống, rồi hình như Nụ đã được đặt nằm trong chiếc giường nhỏ của nó trên gác nhà, nơi có khung cửa sổ gần sát một tán sung lớn, vài chiếc lá đang lòa xòa lấp loáng ánh trăng. Nụ thiếp vào giấc ngủ, bênh bông trong tiếng hát của trẻ con rước đèn ngoài phố.
Nụ đã ngẩng đầu hoang mang tìm trăng nhiều lần hôm Trung Thu ở trại, nhưng bầu trời chỉ luôn mờ bạc trong màn mưa. Từ lúc sáng, các lều có trẻ em đều được phát một, hai con tò he xanh đỏ. Nụ nhận được một em lợn mũm mĩm, mầu ngà, đầu có cài nơ đỏ tím, mũi to háu ăn, miệng em luôn cười thật tươi với mọi người. Anh Cường được cái trống bỏi có cán mầu đỏ. Suốt buổi anh quay lắc trống liên hồi. Tiếng trống tạch tạch đục trầm làm không gian trong lều gần gũi, quen thuộc hơn. Đôi khi tiếng ồn như có vang cả những âm thanh lộn xộn của các món đồ chơi mà anh em Nụ thường bầy hàng cả ngày khi còn ở nhà. Nụ vẫn nhớ anh Cường hay cột dây kéo chiếc xe gỗ nhỏ, loại chở hàng từ quê lên phố, chạy vòng gốc sung, miệng ồn ào giả tiếng còi xe ti toe vang động khắp sân. Có khi cũng vẫn kéo chiếc xe ấy, nhưng anh lại kêu leng keng như tiếng tầu điện qua phố bờ hồ. Nhưng lâu lắm rồi không còn nghe tiếng u già gọi hai anh em nữa. Nụ nhớ u lắm.
Đêm Trung Thu trời mưa rả rich. Ánh nến mờ sáng nhập nhòa khắp các lều trong trại. Văng vẳng tiếng kêu tạch tạch của trống bỏi xen trong tiếng hát hò hồn nhiên của trẻ con. Lều nhà Nụ ấm cúng, vui nhộn đặc biệt hơn mọi ngày vì các cô và anh em Nụ được xúm xít nghe bố giảng giải cách làm trống bỏi và kể chuyện về nơi đầu tiên làm những chiếc trống tí hon này. Bố kể ngày xưa người làng Báo Đáp [4] làm trống bỏi từ đất sét, nan tre, và giấy bồi tỉ mỉ như thế nào. Các công đoạn như nhào nặn đất sét, hong nắng, chẻ vót tre, căng bọc mặt trống, cột gắn dùi, tra cán đều đòi hỏi sự tẩn mẩn, khéo tay, kiên nhẫn, vì mọi bộ phận của trống đều nhỏ và rất mong manh dễ vỡ, dễ rách… nên làm một cái trống kiểu thủ công tốn khá nhiều công và thời giờ. Trẻ em lắc trống bỏi để chào mừng chị Hằng và chú Cuội nhập cuộc rong chơi rước đèn, nghêu ngao hát hò mùa lễ. Điều thú vị với cả nhóm là làng làm trống, Báo Đáp, thuộc vùng kề cận đoạn đê tả sông Đào của tỉnh Nam Định, khá gần bến Đò Quan, quê quán của u già. Bố còn nói âm thanh trống bỏi làm từ làng này luôn đặc trưng có điệu tạch tạch ròn, lộp cộp rã. Khi quay trống liên tục nhanh đều thì tiếng vang rền vui như của đàn ve hợp ca khoe giọng mùa hạ. Lúc quay chậm nhẹ từ từ thì trống kêu đanh, nghẹn như tiếng ếch nhái than thở trong những đêm mưa phải lây lất ngoài bờ ruộng. Không biết thỉnh thoảng những tiếng kêu lộp cộp nghẹn, đứt quãng trong đêm Trung Thu buồn bã ấy có hoàn toàn từ các chiếc trống bỏi trong trại, hay còn lẫn cả tiếng than vắn, thở dài của bọn ễnh ương, chão chuộc nhớ bờ, nhớ quê đang long đong lưu lạc trong màn mưa rỉ rả ngoài các mương chảy quanh khuôn viên trường.
.
Qua Trung Thu, Sài Gòn mưa nhiều hơn. Những trận mưa buổi chiều luôn bất chợt ào đổ nặng hạt rồi cũng quang tạnh thật nhanh, nhưng luôn đủ làm các nhà lều bị ẩm ướt nhớp nháp, và đời sống chui rúc chật chội trong trại thêm vất vả khó khăn. Nước uống thiếu thốn, nhà nào cũng phải xếp hàng chờ các xe camion đến phân phát nước đã được lóng phèn, mỗi ngày một lần. Các phương tiện vệ sinh vô cùng giới hạn. Và, vì cũng gần đến ngày khai giảng năm học mới nên người tạm trú trong trường được khuyến khích xuất trại nếu đã tìm được nơi định cư; hoặc phải ghi danh để chính phủ sắp xếp phân tán đưa đến các khu định cư lâu dài dành cho người di cư.
Thời gian này, các gia chủ hay người đại diện của mỗi nhà lều thường đuợc chở đi tham quan để có khái niệm thêm về sự sinh hoạt của cộng đồng xã hội bên ngoài trại. Một số người còn được phép ra ngoài tìm nơi tự túc định cư nếu bầy tỏ ý nguyện muốn xuất trại để xoay sở mưu sinh, không cần sự giúp đỡ hay hổ trợ thêm của chính phủ. Những chuyến đi này thường chỉ loanh quanh các nơi trong thành phố hay vùng ngoại ô lân cận Sài Gòn. Ông nội và bố Nụ ngày nào cũng bận rộn, ráo riết tìm nhà, nên chỉ sau hơn hai tháng ở trại, mỗi người đều mua được một căn phố trên đường Phan Đình Phùng ở quận 3 Sài Gòn. Nhà ông Nội cách nhà Nụ khoảng vài trăm mét, nhưng phải băng qua lối ngõ chính dẫn vào chợ Bàn Cờ và đường Nguyễn Thiện Thuật.
Đường Phan Đình Phùng - Quận 3, Sài Gòn
Giữa tháng 10 năm 1954 gia đình Nụ xuất trại tạm cư, dọn đến căn nhà mái ngói hai tầng ở gần cuối đường Phan Đình Phùng. Mặt sau nhà chênh vênh ngay đầu một ngã ba, nơi giao điểm của hai đường hẻm lớn; Cả hai đều đủ rộng để xe camion thỉnh thoảng chạy từ đường Nguyễn Thiện Thuật vào khu xưởng đúc kim loại tọa lạc ở góc ngã ba bên phải nhà Nụ. Con hẻm đối diện, trổ gần thẳng góc vào mặt sau nhà Nụ, khá sâu nhưng bề ngang hẹp dần khi đến chỗ tụ họp của các gian hàng bình dân bán đồ ăn điểm tâm, rải rác kín hai bên hẻm. Hàng ngày, từ rất sớm, tụ điểm này đã nhộn nhịp các gánh xôi, quầy bánh mì, thùng cháo huyết, nồi bánh canh, nhưng hoành tráng nhất là một sạp cơm tấm với 5, 6 cái đòn cho khách ngồi vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả, vui nhộn. Khu hàng quà ở ngay đầu lối dẫn vào xóm nhà nhỏ lô nhô nhiều mái tôn, mái lá, chen chúc lộn xộn trong các ngõ chạy theo hình bàn cờ ngang dọc phức tạp. Con hẻm còn lại của ngã ba nằm song song với mặt sau nhà Nụ có lối bên trái chạy qua chùa Linh Chưởng; quãng duy nhất luôn tĩnh lặng, không xô bồ như khu có hàng bán, người mua trong xóm; Cổng sân trước chánh điện của chùa mở ra phần vỉa hè cuối đường Phan Đình Phùng, đoạn phố vắng gần giáp với đường Lý thái Tổ. Nhưng ngã bên phải của con hẻm này lại dẫn về khu tụ tập nhiều xe bán quà đêm như các loại chè: bông cau, sâm bửu lượng, hay các món đỉm sấm, xíu mại, bò vò viên, … nổi tiếng của đường Nguyễn Thiện Thuật; Khu này ban đêm luôn sáng choang ánh đèn manchon và dập dìu khách ăn hàng qua lại nên khá ồn ào, đông đúc. Loanh quanh ngoài mặt đường còn có một tiệm ăn Tàu, tiệm thuốc Bắc, xe phở lưu động, và tiệm tạp hóa Nam Hòa lớn nhất của khu chợ Bàn Cờ. Tất cả các tiệm đều rải rác gần lối đường thông từ Nguyễn Thiện Thuật vào chợ Bàn Cờ lên gần góc đường có chùa Kỳ Viên. Có lần Nụ nghe bố nói khu hàng ăn này từa tựa như một con đường trên Phố Khách, gần bến tầu chính của thành phố Nam Định, nơi cũng có các tửu điếm Tàu ồn ào và nhiều cửa tiệm nhộn nhịp của người Hoa buôn bán làm ăn tại phố biển, quê của bố ở ngoài Bắc.
.
Phần lớn hàng xóm quanh nhà Nụ ở ngoài mặt phố Phan Đình Phùng đều là người Sài Gòn. Họ đã định cư nhiều năm quanh khu chợ và thuộc đủ thành phần những người có công ăn việc làm trong xã hội. Bà hàng xóm sát vách nhà Nụ có sạp hàng buôn bán bát đĩa sứ ở ngoài chợ, gia đình ông giáo viên già ở bên kia đường số lẻ, ở gần chùa có chị em cô ký làm ở kho bạc, cạnh đó là gia đình ông thầu khoán, rồi đến chú cảnh sát giao thông, gần tới đường Nguyễn Thiện Thuật có ông nhà văn kiêm ký giả làm báo, cách nhà Nụ ba căn là chú Bảy chủ tiệm vẽ mẫu quảng cáo cho rạp hát… Mọi người đều chân chỉ làm ăn, cần mẫn như những con ong, cái kiến ngày đêm miệt mài chí thú vun đắp cho cuộc sống gia đình hiền hòa của họ. Ngay từ những ngày mới dọn đến, gia đình Nụ đã cảm nhận được sự xuề xòa, giản dị, thân thiện, tốt bụng, và thật lòng của bà con miền Nam trong xóm khi họ sốt sắng đón nhận, chào hỏi, hướng dẫn các gia đình di cư giúp mau chóng hội nhập thành người cùng tổ, cùng phường với họ. Quan hệ xã hội cởi mở, bản chất dễ thích nghi, phong cách hào hiệp, và tình thân gắn kết của hàng xóm miền Nam những năm đó rất chân thành.
Theo nhận định của nhiều gia đình di cư, họ hàng hay bạn bè của bố mẹ Nụ, thì đa số hàng xóm người miền Nam đều giàu lòng tương trợ, tận tâm giúp đỡ, và ấm áp hòa đồng. Những tố chất cao đẹp của người Sài Gòn tương đối hiếm khi hiển lộ ở đa số người thuộc các vùng miền khác của đất nước. Kết luận này không chỉ giới hạn ở thời điểm có cuộc di cư năm 1954 mà còn dựa trên những giao tiếp, quan hệ cá nhân mà nhiều người Bắc trung niên, như bố và các chú của Nụ, từng đã có với bạn đồng môn ở trường học, với các đồng nghiệp nơi sở làm, hay từ bạn đồng ngũ thời tổng động viên chống Pháp.
Suốt bao năm ở khu Bàn Cờ, gia đình Nụ chưa bao giờ chứng kiến chuyện xích mích, cãi cọ nào đáng kể của hàng xóm láng giềng. Thỉnh thoảng có vài người nóng nẩy hơi cao giọng to tiếng vài câu, nhưng cũng chỉ thoáng ồn ào một lúc, rồi lại tự giác giảng hòa bằng cách rủ nhau ăn nhậu, đùa giỡn, ca hò vọng cổ rất thân tình, vui vẻ. Phần đông người quanh xóm đều ân cần, tử tế, ít chấp nhất, câu nệ nên các gia đình nhập cư không có mặc cảm bị bỏ rơi hay phân biệt. Dần dà bố mẹ Nụ cũng hội nhập hòa đồng hơn, để ý quan tâm hỏi thăm bà con chung quanh mỗi khi gặp nhau đâu đó trong khu phố hay bất cứ nơi nào, và luôn tích cực quyên góp khi nhà ai trong xóm cần giúp đỡ việc ma chay giỗ chạp hay tặng quà các gia đình không may bị vướng vào tình cảnh khó khăn.
Nhà Nụ chỉ cách chùa Linh Chưởng mấy chục thước nên ngày nào cũng được nghe tiếng ngân vọng thanh thoát của các hồi chuông mai và chuông hôm gọi lễ hay khởi động giờ tụng niệm ở chùa. Các hồi chuông này được bà vải già đều đặn thỉnh rất đúng giờ. Chuông mai ngân vào lúc trời còn chập choạng chưa sáng hẳn và chuông hôm đổ khi trời nhá nhem gần tối. Tiếng chuông vang chậm rãi trong không gian bao giờ cũng như mang lời thỉnh cầu sự bình yên, tốt lành cho mọi sinh hoạt trong cuộc sống của tất cả cư dân trong xóm. Tác dụng tâm linh mơ hồ đó giúp mọi người gần gũi thân thiện với nhau, dần dà đã nảy nở, rồi phát triển tinh thần đoàn kết, che chở, đùm bọc thân tình của hàng xóm láng giềng. Tiếng chuông chùa cũng góp phần tích cực trong sinh hoạt cuộc sống của cư dân quanh vùng. Hồi chuông mai đầu ngày đánh thức trẻ em học lớp buổi sáng dậy chuẩn bị đi học nên hiếm trò nào bị trễ giờ đến trường. Và cả hai hồi chuông như đều đặn nhắc nhở người lao động buôn bán hay nhân viên công sở hành xử theo đúng các khung giờ thuận tiện cho công việc làm ăn hàng ngày của họ. Ở chùa, ngoài việc tu học, cầu nguyện hàng ngày, và cúng kiến trong các dịp lễ hội, hai sư cô và bà vải còn cần cù chăm bón khu vườn cây nhỏ ở sân sau, nên quanh năm chùa có hoa tươi và trái cây vườn như mận, ổi, thị, chuối để dâng cúng Phật. Trái cây sau khi hạ từ bàn thờ luôn được sư cô xếp vào chiếc khay lớn đặt trên thềm gạch rộng cạnh lối vào chánh điện để làm lộc chùa cho trẻ con quanh xóm và khách vãng lai đến cúng viếng. Nhờ có ngôi chùa, khu xóm cũng bớt xô bồ, ồn ào liên tục ngày nọ qua ngày kia. Có vẻ cuộc sống của cư dân hơi chậm lại trong ngày rằm hay mùng một khi cả hai hồi chuông chùa đều như đã được thỉnh để tiếng ngân lâu hơn và vang xa hơn thường ngày. Vào hai ngày đặc biệt của tuần trăng, hẻm chợ bừng sắc vàng vạn thọ, dịu thơm hương huệ hương nhài, nhẹ nhàng thoảng bay các vòng khói trầm thanh thoát, không gian như yên bình hơn, và kẻ bán người mua cũng có vẻ xởi lởi, dễ dàng thỏa thuận giá cả với nhau hơn. Âm vang tiếng mõ sau buổi tụng cuối ngày cũng mênh mang lắng đọng hơn, giúp cư dân thoải mái ngơi nghỉ sau những ngày dài chạy vạy, bộn bề, vất vả bao lo toan.
Cuộc sống gia đình Nụ ổn định dần. Sinh hoạt trong nhà vẫn thuần nề nếp hay thói quen của người miền Bắc. Ông bà luôn mặc áo dài tươm tất mỗi khi ra khỏi nhà, dù đôi khi chỉ đi một đoạn ngắn trên đường đến thăm con cháu. Ông đội khăn đống đen, bà vấn đầu bằng khăn nhung mầu sẫm. Áo dài của bà được may bằng vải gấm hay lụa nội hóa nền nã, chỉ mầu nâu hoặc mầu đen, nhưng luôn điểm các hoa văn nổi mang chữ phước, lộc, thọ truyền thống. Ngay cả cô Út lúc đó chỉ độ 13, 14 tuổi cũng mặc áo dài, kẹp tóc gọn gàng mỗi khi ra chợ Bàn Cờ mua hàng lặt vặt cho bà nội. Gia đình thường xuyên sửa soạn những món ăn Bắc quen thuộc như cà pháo muối xổi, rau muống luộc chấm tương hay xào tỏi, canh đậu phụ thuôn cà chua, canh riêu cua đồng, hến kho tương với lá gừng tươi, cá thu hun khói kho riềng, ốc bươu nấu giả ba ba, thịt lợn khìa húng lìu, thịt bò kho gừng, gà kho thảo quả và các vị thuốc bắc. Khi giao tiếp với hàng xóm, bạn bè mới, đồng nghiệp thì cách nói chuyện, lối phát âm, từ ngữ dùng, giọng điệu, và cung cách cũng vẫn giữ nguyên nét thanh lịch, phép tắc đặc thù của thời còn sinh hoạt với người quen hay bạn bè ở Hà Nội.
Mơ hồ như mọi người đều lẳng lặng cố gắng tránh thay đổi bất cứ thứ gì từng thân quen, gắn bó với quê cũ vẫn còn đọng lại trong tâm tưởng. Có lẽ, họ day dứt bất an với ý nghĩ thay đổi là chối bỏ, ly khai quê quán và ruồng rẫy, đoạn tuyệt những người thân còn ở lại. Và sâu thẳm trong tâm hồn, họ luôn vơ vẩn buồn bã chìm trong mặc cảm tội lỗi phản bội cha ông, tổ tiên khi đành đoạn dứt áo bỏ quê ra đi.
Mênh Mang Nỗi Nhớ Niềm Đau
Tuy cuộc sống đã ổn định và luôn bận rộn, nhưng dường như tất cả người lớn đều trải qua những khoảnh khắc bâng khuâng nhớ nhung Hà Nội tha thiết. Nụ đã nghe rất nhiều câu chuyện mà gia đình bồi hồi xao xuyến nhắc về mùa thu cây bàng lá đỏ có hương cốm thoảng theo gánh cô hàng đong đưa qua phố; Nỗi nhớ chiều hồ Gươm sương phủ bạc trắng bốn bờ, hiu hắt tiếng sâm cầm ngơ ngác gọi bầy; Hình ảnh đền Ngọc Sơn thấp thoáng bên cội đa vài trăm tuổi lúc nào cũng như lặng lẽ chờ đợi hoàng hôn ngả chếch nhịp cầu Thê Húc; Chuyến tầu điện chỉ hai hay ba toa xe mầu đỏ kéo nhau leng keng vòng khu bờ hồ thả hay đón khách lên lên, xuống xuống; Con ngõ nhỏ ở phố Thụy Khuê thơm ngát hương ngâu, hương hoàng lan nơi cô Út, cô Loan, cô Hiên bầy hàng chơi; Những đoạn phố với hàng cây cơm nguội muôn thuở có tiếng lá reo như chào đón tà áo các cô của Nụ trên đường họ đi học; Bao hồi còi da diết nỗi bâng khuâng chia lìa khi đoàn tầu xe lửa rẽ vào ga Hàng Cỏ, đoạn gần Ngõ Trạm, vào lúc chập choạng tối hai, ba lần trong tuần; Và cả ngôi nhà có khoảng sân với cây sung trĩu bao nhánh quả hàm tiếu sắc mầu thu Hà Nội. Nụ cũng nhớ những biểu cảm thờ thẫn, buồn bã, đau đớn trên gương mặt của ông bà, bố mẹ khi hồi tưởng những đêm Hà Nội đẫm máu và nước mắt thời đạn bom chiến tranh chống Pháp và tiếng nghẹn nấc ai oán của họ khi nhắc tên những người thân đã mất thảm thương vì loạn lạc. Những năm ấy, nhiều lần Nụ đã nhìn thấy những giọt nước mắt lặng lẽ rơi, rồi cũng lặng lẽ được tự lau khô, nhưng chừng như nỗi nhớ, niềm đau vẫn mênh mang day dứt dày vò, chưa bao giờ hoàn toàn nguôi ngoai lắng đọng hẳn.
.
Cuộc di cư vào Nam đã để lại nỗi đau phải chia lìa, dứt bỏ người thân, bạn bè; Sự hụt hẫng đoạn tuyệt quê cũ, vườn xưa; Và những mất mát đáng kể về tài sản cho gia đình ông nội và bố mẹ Nụ. Tuy đau buồn vì phải buông bỏ tất cả ruộng vườn, đất hương hỏa, nhà từ đường để đi nhưng gia đình Nụ còn may mắn vì đem được một phần nhỏ vốn liếng vào Sài Gòn; Và nhờ đó, mà cả gia đình cũng đỡ vất vả khó khăn khi bắt đầu cuộc sống mới. Nhưng những gia đình bất hạnh hơn đã phải chịu nhiều hậu quả thảm thương của việc chia cắt đất nước. Biến cố đau đớn này đã, trong một mức độ nào đó, tàn nhẫn gây ra thảm cảnh vợ chồng kẻ Bắc, người Nam dang dở bẽ bàng; làm xơ xác thêm bao gia đình chỉ sống nương tựa vào hoa mầu thu hoạch trên đất đai của họ, và làm đứt đoạn cuộc đời chân chỉ bình yên của một hay vài người xấu số trong các gia đình từng rất nề nếp, mẫu mực, danh giá trong xã hội.
Một số thân nhân của gia đình Nụ đã cay đắng hứng chịu những tàn hoại phũ phàng của cuộc phân ly trong bi thương thầm lặng. Thoạt đầu, cũng mang tâm trạng của phần đông người di cư, những nạn nhân này rất buồn khổ, hoảng loạn vì phải trải qua quá nhiều tổn thương, mất mát. Nhưng khác với đa số đã mạnh mẽ vượt qua khó khăn để vươn dậy, họ lại triền miên bị mắc cạn trong những vũng sầu, biển đau mênh mông vô tận, không còn khả năng ngoi lên làm lại cuộc đời ở vùng đất phương Nam nhiều khác biệt.
Trong sáu dòng bà con tộc họ gia đinh cùng di cư, đến hai dòng có người bị lâm vào tình cảnh thương tâm như vậy. Vào miền Nam được vài tháng, và đã xuất trại lên vùng định cư được phân đất để làm ăn, thì có vài bác, chỉ vừa vào tuổi trung niên, bỗng bị nghễnh ngãng, nhớ quên thất thường, ăn nói ngây ngô như trẻ con. Tình cảnh này là một bất ngờ chua xót vì tiền sử dòng họ chưa bao giờ có ai bị bất cứ vấn đề gì về tâm trí. Quá đau đớn, gia đình những thân nhân này đã không thể hoàn toàn tập trung gầy dựng việc làm ăn. Họ sợ hãi, mất tinh thần vì ngoài áp lực căng thẳng của cuộc sống mới, họ còn phải chịu đựng những bất an, đau buồn, lo nghĩ về bệnh tình của người thân. Càng ngày gia đình họ càng bị đẩy sâu vào tình cảnh khó khăn, sa sút, khốn đốn hơn. Điều thảm thương, bi đát nhất là gia đình còn cố gắng làm mọi cách để giữ người bệnh ở bên họ. Họ sợ mất mát, sợ chia lìa, và sợ cả tai tiếng, nên đã u mê mất sáng suốt, khư khư giấu diếm người bệnh ở nhà, khước bỏ mọi khuyên nhủ chữa trị hợp lý theo y học. Dần dà, người bệnh càng lúc càng bị nặng hơn, càng đòi hỏi nhiều sự quan tâm; và người thân phải bỏ bê việc làm ăn, lơi là luôn việc chăm sóc hướng dẫn bầy con, em dại cũng trạc tuổi các cô cháu Nụ. Có lẽ, điều an ủi duy nhất cho các gia đình bà con bất hạnh này là mấy người bệnh đều không dữ dằn hay bạo động khi ở trạng thái mất tự chủ, nên công việc chăm sóc, lo liệu cho họ ở nhà cũng phần nào đỡ phức tạp. Tuy nhiên, những biểu cảm ngây dại, hành động vô ý thức thường xuyên của người bệnh đã tạo nhiều đau đớn, sợ hãi, gây những tổn thương tâm lý sâu nặng cho con, em đáng thương của họ.
Nụ nhớ đã rất nhiều lần nghe bà ngoại và bố mẹ ngậm ngùi xót thương nhắc đến tình cảnh của những thân nhân bạc phước này. Hơn nửa kiếp đời ngắn ngủi, họ từng vô cùng cô đơn, u sầu trong cuộc sống héo hắt, câm nín, chịu đựng, đầy mặc cảm vì nỗi đau gia đình có người bị khủng hoảng tâm trí. Họ sống với nỗi đau như hình và bóng, không có đường thoát. Cay đắng, tủi hổ chất chồng đã đẩy họ dần vào tình trạng kiệt quệ tàn hoại, chìm sâu trong khổ đau. Có gia đình còn bị dập vùi thê thảm đến nỗi con cái hư hỏng, nhà mất, nợ nần, bệnh tật; không còn cơ hội trở lại cuộc sống từng phẳng lặng, hạnh phúc, khá giả, có danh phận tử tế, có người đã từng một thời mũ mão cân đai huy hoàng ở ngoài Bắc. Mấy ai hiểu được mức độ hủy hoại thê thảm của bản hiệp định Genève năm 1954 trên bao thân phận mong manh của những người dân tội nghiệp thời đó.
Cuộc sống gia đình Nụ được may mắn bình thản trôi, không phải đương đầu với biến cố lớn lao nào trong suốt những năm Nụ còn được ở Sài Gòn; nhưng cũng có những đổi thay chừng mực, và gia đình đã cùng nhau suôn sẻ vượt qua, thích nghi, hòa nhâp tốt vào cuộc sống cới mở, nhân bản, tự do ở Sài Gòn, Tuy thế, sâu thẳm trong tâm hồn ông, bà, bố, mẹ, các cô, các chú của Nụ, Hà Nội và quê nhà Nam Định vẫn luôn còn đó, dù chỉ là các hoài mong vô vọng … Mọi người vẫn nhắc đến Hà Nội, phố cũ, cảnh xưa, láng giềng ngày nào, vẫn da diết những tiếc nhớ, vẫn chăm chỉ gửi đi và mòn mỏi mong chờ những tờ bưu thiếp chỉ từ Bắc vào Nam, hay ngược lại, nhưng luôn phải chu du vòng qua Pháp và vài quốc gia trung gian xa lạ, vì thế trung bình khoảng nửa năm sau ngày gửi mới may mắn đến được tay người nhận. Những giọt nước mắt long lanh, thờ thẫn u buồn. Bao tờ bưu thiếp nhỏ hơn bàn tay người lớn, nhàu nát, cũ kỹ, nhòe chữ, lắm dấu bưu điện chồng chéo; Và nội dung chỉ vài ba dòng dè dặt báo hỷ, báo tang, thăm hỏi qua loa mà Nụ đã đọc cho bà ngoại nghe nhiều đến thuộc lòng cả ngày, tháng được viết từ quê cũ xa xôi. Có lẽ nào mỗi lần nghe Nụ đọc lại các tờ bưu thiếp cũ, bà ngoại đã ngộ ra, hình dung, hay cảm nhận thêm đôi ba chi tiết thầm kín ẩn sâu đằng sau dòng chữ sáo vu vơ câu xã giao thăm hỏi? Chừng như, đắm chìm trong suy tư, dằn vặt, và lặng lẽ tan nát chịu đựng những nỗi đau không có cách giải bầy là tâm trạng bi thảm, chán chường thường xuyên của những người mà Nụ vô cùng yêu thương.
.
Dù ngày ngày phải chịu đựng bao khó khăn, mệt mỏi để bươn chải vượt qua mọi phức tạp, lo toan của cuộc sống tất bật ở Sài Gòn, nhưng cứ vào khoảng cuối năm thì những người lớn trong gia đình lại dành nhiều thời giờ buồn bã, ngậm ngùi, nôn nao nhắc về mùa Đông ở phương Bắc. Nhất là vào những ngày sát Tết thì tâm trạng của mọi người càng bồn chồn bất an hay thao thiết đợi mong như chờ một thứ gì đó hay một ai đó, mơ hồ, rất lạ. Cả nhà bầy biện gói bánh chưng, nấu cỗ Tết mà dường như tâm tư ai cũng ngơ ngẩn theo những ngọn gió không tên lang thang tìm không gian mùa đông đã vời vợi xa cách.
Chút nắng vàng thu se nhẹ,
Chiều nay, cũng bỏ ta rồi.
Làm sao về được mùa đông?
Chiều thu - cây cầu... đã gãy.
Lá vàng chìm bến thời gian,
Đàn cá - im lìm - không quẫy.
(Trích từ “Không Đề Gửi Mùa Đông” của Thảo Phương) [5]
Có lẽ những lời tâm tình xót xa của nhà thơ đã diễn tả phần nào tâm trạng khắc khoải, hoài niệm, lạc loài, nhớ quê của những người thân trong gia đình Nụ.
Chú Thích
[1] Bùi Xuân Phái (01/09/1920 – 24/06/1988 ) là một họa sĩ nổi tiếng với những bức tranh vẽ về Phố Cổ Hà Nội. Tiểu sử của ông được đăng tại https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i_Xu%C3%A2n_Ph%C3%A1
[2] Tượng bán thân của cụ bác học danh tiếng Pétrus Trương Vĩnh Ký, đúc vào thập niên 1930, được đặt ở trung tâm sân trường để vinh danh, tưởng nhớ cụ. Vào thời gian trường được dùng làm trại tạm cư cho những người di cư năm 1954, tượng cụ được một số cư dân trong trại tôn kính như một biểu tượng tâm linh.
Một số thông tin về vị học giả tài ba Trương Vĩnh Ký được đăng trên:
http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/mot-cng-trnh-c-nghia-ve-truong-vinh-k-tap-ky-yeu-trien-lm-v-hoi-thao-ve-petrus-truong-vinh-k/
[3] Bài đồng dao của trẻ em, thường được hát lúc đi rước đèn vào dịp Trung Thu ở các miền quê ngoài Bắc:
Ông trẳng, ông trăng
Xuống chơi với tôi, có bầu có bạn
Có oản cơm xôi, có nồi cơm nếp
Có nệp bánh chưng, có lưng hũ rượu
Có chiếu bám đu, thằng cù xí xoại
Bắt trai bỏ giỏ, cái đỏ ẵm em
Đi xem đánh cá, đem rá vo gạo
Có gáo múc nước, có lược chải đầu
Có trâu cầy ruộng, có muống thả ao
Ông sao trên trời
Nguồn: https://cadao.me/dong-dao/ong-trang-ong-trang-2/
[4] Làng Báo Đáp thuộc xã Hồng Quan, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là một làng chuyên làm đèn ngôi sao, đèn kéo quân, các đồ chơi mùa Trung Thu, và hoa bằng lụa nội hóa. Những năm gần đây nghề làm trống bỏi cũng đang mai một dần ở ngôi làng đầu tiên làm những chiếc trống ngộ nghĩnh này.
[5] Bài thơ “Không Đề Gửi Mùa Đông” của cố thi sĩ Thảo Phương hiện hữu trên Internet dưới hai phiên bản khá khác nhau:
Phiên bản thứ nhất:
Dường như ai đi ngang cửa,
Hay là ngọn gió mải chơi?
Chút nắng vàng thu se nhẹ,
Chiều nay, cũng bỏ ta rồi.
Làm sao về được mùa đông?
Chiều thu - cây cầu.. đã gãy.
Lá vàng chìm bến thời gian,
Đàn cá - im lìm - không quẫy.
Ừ, thôi... mình ra khép cửa,
Vờ như mùa đông đang về!
Phiên bản thứ hai, được nhac sĩ Phú Quang phổ thành ca khúc “Nỗi Nhớ Mùa Đông”:
Dường như ai đi ngang cửa
Gió mùa đông bắc se lòng
Chút lá thu vàng đã rụng
Chiều nay cũng bỏ ta đi
Nằm nghe xôn xao tiếng đời
Mà ngỡ ai đó nói cười
Bỗng nhớ cánh buồm xưa ấy
Giờ đây cũng bỏ ta đi
Làm sao về được mùa đông
Dòng sông đôi bờ cát trắng
Làm sao về được mùa đông
Để nghe chuông chiều xa vắng
Thôi đành ru lòng mình vậy
Vờ như mùa đông đã về.