- 6 - (4) Chánh Kiến Về Đạo Và Quả:- Dập Tắt Lửa Phiền Não, Rưới Nước Vào Tro Nóng
Khi các tuệ Minh Sát đã hoàn tất, đạo tâm sẽ tự động khởi sinh, theo sau là quả tâm. Tiếng Pali gọi đạo và quả tâm là magga và phala. Thánh Đạo Chánh Kiến và Thánh Quả Chánh Kiến là Chánh Kiến thứ tư và thứ năm trong sáu loại Chánh Kiến. Khi thánh đạo tâm phát sinh thì thánh đạo Chánh Kiến nhổ tận gốc rễ nhóm phiền não gây ra sự tái sinh vào bốn cảnh khổ, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, địa ngục. Thánh quả Chánh Kiến là một phần của thánh quả tâm xuất hiện ngay khi thánh quả tâm hiện khởi. Khi thánh quả tâm hiện khởi thì lửa phiền não bị tận diệt, nhưng than hồng và tro nóng vẫn còn. Thánh Quả Chánh Kiến rưới nước lên than hồng và tro nóng phiền não.
Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại
Chánh Kiến thứ sáu, hay Chánh Kiến cuối cùng, là Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại. Tuệ xét lại nối gót theo thánh quả tâm và kinh nghiệm Niết Bàn. Tuệ xét lại ôn lại năm điều. Thứ nhứt, sự xuất hiện của đạo tâm. Thứ hai, sự xuất hiện của quả tâm. Thứ ba, Niết Bàn chính nó là một đề mục của tâm. Thứ tư, phiền não đã tận diệt và thứ năm, phiền não chưa tận diệt.
Tóm lại, có sáu loại Chánh Kiến: 1. Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta. 2. Chánh Kiến Liên Quan Đến Các Tầng Thiền Định. 3. Chánh Kiến Về Minh Sát. 4. Thánh Đạo Chánh Kiến. 5. Thánh Quả Chánh Kiến. 6. Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại.
Loại Chánh Kiến đầu tiên, Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta là loại Chánh Kiến tồn tại vĩnh viễn, Chánh Kiến này không bao giờ mất. Quả đất này có thể bị tan rã hủy hoại nhưng vẫn có những chúng sanh trong các cõi khác có Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta.
Người không phận biết được các hành vi thiện ác, không biết thế nào là thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, sẽ không thấy được ánh sáng chân lý. Họ chẳng khác nào một đứa trẻ bị mù bẩm sinh: Mù từ trong bụng mẹ và mù khi ra đời. Nếu đứa trẻ này lớn lên, nó cũng không thấy rõ để tự hướng dẫn mình. Một người bị mù và không được ai hướng dẫn sẽ gặp nhiều tai nạn.
Chánh Kiến Liên Quan Đến Các Tầng Thiền Định sẽ luôn luôn có mặt bao lâu thiền sinh còn thực tập để đạt các tầng thiền. Phật giáo có thể suy tàn, nhưng vẫn luôn luôn còn có những người thực hành sự định tâm và nhập định.
Tuy nhiên, những loại Chánh Kiến còn lại chỉ hiện diện khi giáo pháp của Đức Phật còn tồn tại. Từ thời Đức Phật Thích Ca còn hiện tiền đến nay, giáo pháp của Ngài vẫn không ngừng phổ biến, và ngày nay lan tràn khắp nơi trên thế giới, ngay cả những xứ không phải Phật giáo cũng vẫn có những nhóm hay những tổ chức thực hành theo lời Phật dạy.
Người có Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta hay có Chánh Kiến Liên Quan Đến Các Tầng Thiền Định chưa đến gần được ánh sáng của giáo pháp. Họ có thể có được ánh sáng của thế gian nhưng không có được ánh sáng của Như Lai. Bốn loại Chánh Kiến sau, từ Chánh Kiến Về Minh Sát đến Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại chứa đựng ánh sáng của giáo pháp.
Khi thiền sinh có thể phân biệt được thân và tâm thì họ thoát khỏi các ảo tưởng về tự ngã, và bức màn che đậy sự tối tăm đầu tiên được tháo gỡ. Chúng ta có thể nói ánh sáng của giáo pháp đã hé lộ trong tâm họ như ánh sáng thái dương bắt đầu hé lộ vào buổi bình minh. Nhưng còn nhiều màn nữa cần được tháo gỡ. Lớp màn thứ hai của si mê là quan điểm cho rằng sự vật xảy ra có tính cách ngẫu nhiên, may rủi. Bức màn này sẽ được cởi bỏ khi có được tuệ giác thấy rõ nhân quả. Khi thiền sinh thấy được tuệ nhân quả, ánh sáng trong tâm thiền sinh sẽ sáng tỏ hơn một chút, nhưng thiền sinh không nên lấy làm thỏa mãn ở điểm này vì tâm thiền sinh vẫn còn đen tối, si mê vì chưa thấy rõ các đặc tính Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Muốn loại bỏ sự đen tối này, thiền sinh phải cố gắng hành thiền hơn: Kiên trì Tinh tấn theo dõi sự vật khi chúng khởi lên, Chánh Niệm sắc bén, tập trung tâm ý sâu xa. Cuối cùng, trí tuệ sẽ khởi lên một cách tự nhiên.
Bây giờ thiền sinh thấy rằng không thể tìm thấy nơi nương tựa trong các hiện tượng Vô Thường này. Điều này khiến thiền sinh thất vọng, thất vọng nhiều, nhưng ánh sáng bên trong sáng tỏ hơn. Thiền sinh thấy rõ ràng đặc tính Khổ và Vô Ngã của các hiện tượng. Lúc bấy giờ chỉ còn một bức màn cuối cùng che phủ sự nhận chân Niết Bàn cần phải lột bỏ, và bức màn cuối cùng này chỉ được lột bỏ bởi thánh đạo tâm mà thôi. Khi bức màn cuối cùng được lột bỏ, ánh sáng của giáo pháp thực sự bắt đầu chiếu rạng.
Nếu bạn khai triển tất cả các loại Chánh Kiến, tâm bạn sẽ sáng ngời. Kể từ đó, dù bạn có tái sanh ở đâu trong vòng luân hồi đi nữa, bạn sẽ không bao giờ bị tách rời khỏi ánh sáng của trí tuệ. Ánh sáng trí tuệ này ngày càng sáng tỏ cho đến khi bạn đạt đến đạo quả A La Hán, mức giác ngộ cuối cùng.
Làm Chú Chiếc Xe
Bất luận người nào, nam hay nữ, khéo điều khiển và làm chủ chiếc xe này, chắc chắn sẽ đạt đến Niết Bàn.
Khi vị trời của chúng ta nghe bài pháp về chiếc xe này, ông hiểu rõ những lời Phật dạy và tức khắc trở thành một vị Tu Đà Hườn, làm chủ chiếc xe lộng lẫy có tên là Bát Chánh Đạo. Mặc dầu bài pháp của Đức Phật trực tiếp hướng đến mục đích tối hậu là A La Hán, nhưng vị trời của chúng ta chưa đủ túc duyên để đạt quả giải thoát cuối cùng, mà chỉ đạt quả nhập lưu.
Ích Lợi Của Quả Tu Đà Hườn: Làm Cạn Biến Khổ Tam Giới
Lợi ích của quả Tu Đà Hườn: Làm cạn biển tam giới, hay biển khổ. Người đạt quả Tu Đà Hườn không còn bị tái sinh vào bốn đường ác. Theo kinh điển, người đạt quả Nhập Lưu tận diệt được ba loại phiền não, thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ (dính mắc vào sự thực hành sai lầm). Chú giải ghi thêm rằng vị Tu Đà Hườn còn diệt được tâm ganh tị và bỏn xẻn.
Vị trời của chúng ta chắc rằng đã đạt được tuệ giác thấy rõ danh sắc trong lúc làm tỳ khưu, và lúc đạt được tuệ này, vị cựu tỳ khưu thoát khỏi thân kiến không còn chấp vào một cái ngã vĩnh cửu. Tuy thế, sự từ bỏ tà kiến chỉ tạm thời. Khi đạt đạo quả Tu Đà Hườn, tà kiến mới vĩnh viễn được loại trừ. Người đạt quả Tu Đà Hườn không còn ảo tưởng về tự ngã nữa.
Loại phiền não thứ hai được loại trừ là hoài nghi. Loại phiền não này cũng gần với tà kiến. Khi một người không hiểu rõ ràng, chính xác bản chất của sự vật thì sẽ khó hiểu biết được điều đúng, điều sai, như người đứng giữa ngã ba đường bối rối không biết chọn đường nào, hoặc như khách lữ hành bối rối, phân vân không biết làm sao đi đúng hướng. Tình trạng tiến thoái lưỡng nan này làm cho thân tâm suy nhược, mòn mỏi.
Khi thấy được bộ máy nhân quả, thiền sinh sẽ tạm thời loại bỏ hoài nghi. Thiền sinh nhận thấy giáo pháp là chân lý, là sự thật, thấy rõ danh và sắc liên hệ nhân quả với nhau, mà không có gì trên thế gian này không có nhân duyên. Tuy nhiên, sự loại bỏ hoài nghi này chỉ có tính cách tạm thời. Bao lâu có Chánh Niệm, thì hoài nghi bị loại bỏ. Lúc không có Chánh Niệm, hoài nghi sẽ xen vào. Chỉ khi đạt quả Tu Đà Hườn, hoài nghi mới bị tận diệt. Người nào đã đi đến đích cuối cùng của Bát Chánh Đạo là Niết Bàn thì người ấy sẽ có đức tin kiên cố vào Đức Phật, vào những lời dạy dỗ chính xác và hiệu quả của Ngài, và vào chư Thánh Tăng đã đi theo Ngài.
Loại phiền não thứ ba được loại trừ khi đạt quả Tu Đà Hườn là giới cấm thủ, nghĩa là tin tưởng vào lời thực hành sai lầm. Chúng ta có thể hiểu biết điều này một cách tổng quát. Sự hiểu biết này sẽ trọn vẹn hơn nếu được xem xét dưới ánh sáng của Tứ Diệu Đế. Khi những vị có khả năng đắc Tu Đà Hườn, khai triển Bát Chánh Đạo bên trong mình lần đầu tiên, họ hiểu chân lý thứ nhất: Tất cả mọi vật đều khổ và bất toại nguyện. Thân và tâm là khổ. Sự phát triển đầu tiên của một thiền sinh bao gồm trong việc quán sát các sự khổ này. Khi chân lý thứ nhất được thấy trọn vẹn thì thiền sinh sẽ được thấy ba chân lý sau, đó là sự loại bỏ tham ái, (chân lý thứ hai) sự chấm dứt đau khổ (chân lý thứ ba) và sự phát triển Bát Chánh Đạo (chân lý thứ tư).
Phần sơ khởi hay phần trí tuệ của Bát Chánh Đạo sẽ được phát triển trong từng sát na Chánh Niệm. Đến một lúc nào đó, phần thế tục của Bát Chánh Đạo này sẽ được chín mùi và trở thành trí tuệ siêu thế. Thế nên, khi giác ngộ Niết Bàn, vị trời này bây giờ hiểu rõ rằng 'thực hành là con đường duy nhất để giải thoát'. Ông ta biết rằng ông đã có kinh nghiệm về việc chấm dứt đau khổ thực sự, chấm dứt nhân duyên, đó là Niết Bàn. Thiền sinh khi hành thiền đến mức thành đạt cũng đều có những cảm giác như vậy.
Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất dẫn đến Niết Bàn. Niết Bàn chỉ có thể đạt được qua sự thực hành. Với sự hiểu biết này, vị Tu Đà Hườn không còn tin tưởng vào một phương pháp thực hành nào mà trong đó không có Bát Chánh Đạo.
Theo Thanh Tịnh Đạo thì vị Tu Đà Hườn vẫn còn tham lam, sân hận và si mê tấn công, và vẫn còn kiêu mạn. Nhưng vì thánh đạo tâm đã nhổ tận gốc rễ các phiền não dẫn đến sự tái sanh vào bốn đọa xứ nên các vị Tu Đà Hườn không còn tái sanh vào các cảnh dữ này.
Thanh Tịnh Đạo còn cho ta biết rằng vị Tu Đà Hườn đã thành công trong việc làm khô đại dương luân hồi tam giới. Bao giờ chưa đắc được quả thánh đầu tiên thì ta vẫn còn tiếp tục luân lưu trong vòng luân hồi bất tận không biết đâu là điểm khởi đầu này. Phạm vi của tam giới rộng vô cùng, ta cứ đi mãi miết. Người đắc quả Tu Đà Hườn chỉ còn sống trong tam giới tối đa bảy kiếp trước khi hoàn toàn giác ngộ đạo quả A La Hán. Bảy kiếp này là bao so với vô số kiếp sống trong vòng tam giới? Bởi thế mới gọi quả Tu Đà Hườn làm cạn biển khổ tam giới.
Bất thiện nghiệp chỉ có thể xuất hiện dưới ảnh hưởng của si mê và tham ái. Khi một số si mê và tham ái biến mất, thì một số bất thiện nghiệp như tái sanh vào các cảnh khổ cũng bị mất hiệu lực. Khi còn bị các loại phiền não như tà kiến, ngã kiến, hay nghi ngờ về đạo quả và nghiệp báo chi phối thì con người làm biết bao nhiêu điều bất thiện. Các hành vi bất thiện mà họ đã làm chắc chắn sẽ dẫn họ đến bốn cõi dữ. Không còn các loại phiền não này nên vị Tu Đà Hườn không còn làm những hành động ác có thể khiến họ tái sanh vào bốn cảnh khổ. Thêm vào đó, những nghiệp ác mà trước đây họ đã tạo có thể dẫn họ tái sanh vào khổ cảnh cũng bị cắt đứt vào lúc họ đạt được thánh đạo tâm. Bởi thế, một vị Tu Đà Hườn không còn phải lo sợ sinh vào bốn đường dữ nữa.
Bảy Kho Báu Của Bậc Thánh Nhân
Lợi ích khác của bậc Tu Đà Hườn là được làm chủ bảy kho báu của thánh nhân. Thánh nhân là người trong sạch thanh tịnh, có tư cách thanh cao, đã đạt được một trong bốn mức giác ngộ. Bảy kho báu này là đức tin, giới hạnh, hổ thẹn, tội lỗi, ghê sợ tội lỗi, học nhiều hiểu rộng, bố thí (hay dứt bỏ) và trí tuệ.
Đầu tiên là đức tin. Các bậc thánh có đức tin bất thối vào Phật, Pháp và Tăng. Đức tin của các Ngài không thối chuyển vì nó phát sinh từ kinh nghiệm trực tiếp và hiểu biết. Bậc thánh nhân không bao giờ bị mua chuộc, lung lạc hay hư hỏng đến nỗi từ bỏ Phật, Pháp, Tăng. Không có phương tiện nào, dù ngọt ngào hay đe dọa, dù gian trá hay nguy hại đến tánh mạng có thể làm cho các Ngài từ bỏ đức tin.
Kho báu thứ hai là giới hạnh. Giới hạnh là thanh lọc phẩm hạnh. Bậc Tu Đà Hườn không thể nào phạm ngũ giới, không bao giờ có tư tưởng hay hành động sai lầm có thể dẫn đến việc tái sanh vào bốn cảnh khổ. Bậc Tu Đà Hườn thoát khỏi thân ác nghiệp, thoát khỏi phần lớn các khẩu ác nghiệp, thoát khỏi tà mạng và cuối cùng không bao giờ thực hành theo tà đạo.
Kho báu thứ ba và thứ tư là hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Ở vị Tu Đà Hườn, yếu tố này được phát triển một cách mạnh mẽ. Bởi thế các Ngài không thể nào làm các nghiệp ác.
Kho báu thứ năm là học nhiều hiểu rộng, liên quan đến lý thuyết thiền cũng như cách thực tập thiền. Thật vậy, bậc Tu Đà Hườn đã học được kỹ thuật đi trên Bát Chánh Đạo, biết thực hành theo Bát Chánh Đạo để tiến đến Niết Bàn.
Kho báu thứ sáu là bố thí hay lòng từ thiện. Thật ra đây là sự dứt bỏ. Vị Tu Đà Hườn từ bỏ một cách hào hiệp mọi phiền não dẫn đến sự tái sanh vào các khổ cảnh. Thêm vào đó, vị Tu Đà Hườn bố thí một cách rộng rãi. Lòng từ thiện của các Ngài liên tục và chân thật.
Kho báu cuối cùng là trí tuệ. Điều này liên quan đến các tuệ giác Minh Sát và Trí Tuệ. Khi hành thiền vị Tu Đà Hườn không bị tà định và tà niệm chi phối. Vị Tu Đà Hườn không còn có các thô tướng phiền não bùng khởi bên trong và biểu hiện qua hành động, lời nói và tư tưởng. Các Ngài cũng thoát khỏi nỗi sợ hãi bị tái sanh vào cảnh khổ. Sự bình an cá nhân là điều quan trọng thiết yếu. Sự bình an này có thể đạt được nhờ thoát khỏi sợ hãi. Nếu nhiều người trên thế gian này có được sự an bình như vậy thì thế giới sẽ hòa bình an lạc. Thế giới an bình chỉ có thể bắt đầu từ bên trong.
Người Con Thật Sự Của Đức Phật
Một lời ích khác của bậc Tu Đà Hườn là trở thành người con thật sự của Đức Phật. Nhiều người có lòng nhiệt thành với Tam Bảo, họ có đức tin mạnh mẽ, hàng ngày cúng dường Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu hoàn cảnh thay đổi, họ sẵn sàng từ bỏ đức tin. Họ sẽ tái sanh mà không có đức tin. Một người có thể rất trong sạch, có thiện tâm trong kiếp này, nhưng sẽ trở thành một kẻ vô lại ở kiếp tới. Không có một bảo đảm nào trừ khi đạt được đạo quả thứ nhất và trở thành một người con trai hay con gái thực sự của Đức Phật.
Trong Thanh Tịnh Đạo dùng chữ orasa putta với nghĩa là một đứa con chính thức, đứa con trưởng thành. Putta thường dịch là con trai, nhưng thực ra đây là một chữ tổng quát để chỉ còn cháu bao gồm cả con gái. Theo Thanh Tịnh Đạo thì vị Tu Đà Hườn có được hàng trăm lợi ích. Thật vậy, lợi ích của vị Tu Đa Hườn vô số kể. Vị Tu Đà Hườn hoàn toàn dính liền với giáo pháp, nhiệt tâm, hoan hỉ trong khi nghe chân pháp và có thể hiểu rõ giáo pháp thâm sâu mà người thường khó hiểu nổi. Khi nghe một bài pháp được thuyết giảng đúng cách, vị Tu Đà Hườn tràn đầy hỉ lạc.
Và bởi vì vị Tu Đà Hườn đã bước vào dòng suối, hay nhập lưu, tâm của vị Tu Đà Hườn luôn luôn trú trong giáo pháp. Trong khi hành xử bổn phận của mình đối với thế gian, vị Tu Đà Hườn như con bò mẹ đang ăn cỏ nhưng vẫn luôn luôn trông chừng chú bê con. Tâm của vị Tu Đà Hườn hướng về giáo pháp nhưng các Ngài không quên trách nhiệm đối với thế gian. Vị Tu Đà Hườn đạt được sự định tâm dễ dàng nếu các Ngài có sự Tinh tấn thích hợp trong lúc hành thiền với ước muốn tiến xa hơn trên chánh đạo.
Chiếc Xe Cho Mọi Người, Chiếc Xe Không Bao Giờ Hư Hỏng
Đức Phật kết luận bài pháp bằng cách nói rõ ràng rằng bất kỳ ai biết điều khiển chiếc xe này đều đạt được kết quả, không phân biệt nam, nữ. Chiếc xe giải thoát này thích hợp cho tất cả mọi người.
Ở thời đại văn minh tân tiến này, chúng ta có rất nhiều loại xe tân kỳ, và càng ngày càng có nhiều phát minh mới trong lãnh vực chuyển vận. Con người có thể du hành bằng đường bộ, đường thủy hay đường hàng không. Một người bình thường có thể đi vòng quanh thế giới một cách dễ dàng. Con người đã đi bộ trên mặt trăng. Phi thuyền đã đến những hành tinh khác và có thể vượt xa hơn.
Dầu cho phi thuyền có thể vượt qua không gian đi nữa, nhưng cũng không thể đưa bạn đến Niết Bàn. Nếu thật sự có chiếc xe đến được Niết Bàn thì tôi rất hân hoan có được một chiếc như vậy. Tuy nhiên, tôi chưa được nghe quảng cáo hay một lời bảo đảm nào về một chiếc xe kỳ diệu có thể đưa người đến Niết Bàn như vậy.
Dầu cho kỹ thuật khoa học có tiến bộ đến đâu cũng không thể có được một phương tiện chuyên chở bảo đảm an toàn tuyệt đối. Tai nạn xảy ra thường xuyên trên đất liền, trên biển cả và trong không gian. Nhiều người đã chết vì các tai nạn này. Tôi không cho rằng các phương tiện chuyên chở đem lại lợi ích, nhưng tôi muốn nói rằng các phương tiện này vẫn chưa bảo đảm an toàn. Chỉ có chiếc xe Bát Chánh Đạo mới bảo đảm an toàn một trăm phần trăm. Những chiếc xe tân tiến có tiêu chuẩn và sự an toàn cao, nếu giàu có, bạn có thể sắm một chiếc xe cực kỳ tối tân, chạy nhanh, êm ái, thoải mái, và bạn có thể gắn thêm nhiều tiện nghi khác theo ý bạn. Nếu bạn không giàu, bạn có thể vay tiền hay thuê một chiếc xe limousine hoặc một chiếc xe thể thao trong một thời gian ngắn hoặc dùng các phương tiện chuyên chở công cộng. Và ngay cả khi bạn nghèo, bạn cũng có thể xin quá giang xe.
Tuy nhiên, không có một loại xe nào mà không có khuyết điểm, dầu đó là chiếc xe riêng của chính bạn. Bạn phải đổ xăng, phải bảo trì sửa chữa. Biết bao nhiêu công việc phải làm. Mọi chiếc xe, một ngày nào đó rồi cũng bị vứt bỏ. Càng xử dụng nhiều, xe càng mau đến nghĩa địa xe.
Cần phải sản xuất một chiếc xe đến Niết Bàn thật ưu mỹ và có tiêu chuẩn cao để chiếc xe này không bao giờ bị hư mòn. Nếu chiếc xe Niết Bàn được phổ biến để mọi người đều có một chiếc thì sẽ tốt đẹp biết bao. Thế gian này sẽ hòa bình an lạc. Chiếc xe này đưa ta đến một nơi tuyệt diệu và vô giá. Niết Bàn không thể mua được dù bạn giàu đến đâu, cũng không thể thuê mướn được. Bạn phải tự tạo lấy để nó thuộc quyền sở hữu của bạn. Chiếc xe này chỉ hữu dụng khi bạn làm chủ nó.
Nhiều chiếc xe hơi được làm sẵn và được tung ra thị trường từ các hãng sản xuất. Nhưng chiếc xe dẫn đến Niết Bàn là chiếc xe tự chế. Bạn phải tự chế tạo chiếc xe này cho chính mình. Bạn phải có đức tin ngay từ lúc đầu là bạn sẽ đến Niết Bàn và bạn cũng phải tin tưởng vào con đường dẫn bạn đến đích nữa. Bạn phải có động cơ thúc đẩy, ước muốn chân thành, cương quyết đạt được mục tiêu. Nhưng chỉ có động cơ không thôi, bạn không thể đi xa. Bạn phải làm việc nữa. Phải hết sức Tinh tấn Chánh Niệm, bền chí kiên trì từ sát na này đến sát na khác để chánh định được gây dựng và trí tuệ bắt đầu nở hoa và chín muồi.
Nếu chiếc xe Bát Chánh Đạo được sản xuất hàng loạt thì kỳ thú biết bao, nhưng không thể nào làm như thế được. Bởi vậy, bạn phải tự chế tạo lấy. Bạn phải có đức tin và ước muốn mạnh mẽ để đạt mục tiêu. Bạn phải chú tâm thực hành, chịu đựng khó khăn gian khổ, mệt mỏi và nỗ lực chiến đấu để hoàn thành chiếc xe. Bạn phải dùng Tinh tấn để giữ hai bánh xe lăn đều. Bạn phải dùng Chánh Niệm để tạo nên thùng xe. Bạn phải dùng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi gắn chặt ghế tựa lưng. Bạn phải huấn luyện cho tài xế lái xe thẳng hướng. Cuối cùng, sau khi qua nhiều tầng tuệ minh sát, bạn phải làm chủ chiếc xe Tu Đà Hườn đạo. Khi chiếc xe trở thành của sở hữu của bạn, bạn sẽ đến Niết Bàn một cách êm thắm, dễ dàng.
Một khi chiếc xe Tu Đà Hườn hoàn thành, nó sẽ không bao giờ bị giảm giá hay hư hỏng. Chiếc xe này khác hẳn những chiếc xe khác vì nó không cần xăng nhớt, dầu mỡ, và cũng chẳng cần sửa chữa hay thay thế bộ phận nào cả. Càng dùng lâu, chiếc xe càng trở nên ưu mỹ hơn. Xe không bao giờ bị tai nạn. Khi đi trên xe này, bạn được bảo đảm an toàn một trăm phần trăm.
Bao lâu còn sống trên thế gian này, chúng ta còn bị thăng trầm theo cuộc sống. Lúc êm đềm vui vẻ, khi đau khổ nhọc nhằn. Người làm chủ chiếc xe Tu Đà Hườn sẽ lướt êm trên đường gập ghềnh và không quá phấn khích say mê khi đi trên đường bằng phẳng. Chiếc cổng dẫn đến khốn cùng đã đóng. Xe thẳng tiến đến Niết Bàn. Không thể dùng đủ ngôn từ để ca ngợi chiếc xe kỳ diệu này, nhưng chắc chắn rằng người nào hoàn thành và làm chủ chiếc xe này thì sẽ đạt được ước nguyện thanh cao của mình. Hãy nỗ lực Tinh tấn, đừng bao giờ chẩy lười nhụt chí trong việc chế tạo, lắp ráp chiếc xe an toàn kỳ diệu này.
Cổng Khốn Cùng Đã Đóng
Chiếc xe giáo pháp được Đức Phật trưng bày lần đầu tiên trong bài pháp thuyết cho năm vị Kiều Trần Như tại vườn Lộc Giả cách nay trên hai ngàn năm trăm năm. Bài pháp này về sau được gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân.
Trước khi Đức Phật xuất hiện, thế gian sống trong tăm tối, ngu muội, không biết gì đến Bát Chánh Đạo. Nhiều nhà ẩn cư, đạo sĩ, triết gia, thông thái, mọi người đều nắm giữ quan điểm, lý luận, tư tưởng, lý thuyết, học thuyết riêng về chân lý. Thời bấy giờ, một số lý thuyết gia cho rằng Niết Bàn là hạnh phúc của dục lạc ngũ trần. Bởi thế họ đắm chìm trong thú vui vật chất. Một số khác khinh bỉ thái độ này và phản ứng lại bằng chủ trương ép xác khổ hạnh, không cho thân thể hưởng thụ các dục lạc và xem sự ép xác khổ hạnh là nỗ lực thánh thiện. Nói chung, chúng sanh sống trong mê muội. Họ không đến gần chân lý. Bởi thế, sự tin tưởng và hành động của họ có tính cách võ đoán. Mỗi người có quan điểm, tư tưởng riêng, dựa vào đó họ làm rất nhiều chuyện khác nhau.
Đức Phật từ bỏ cả hai, lợi dưỡng và khổ hạnh. Đạo của Ngài là trung đạo, không nghiêng về một thái cực nào. Ngài trình bày Bát Chánh Đạo khiến chúng sanh có đức tin chân chánh. Đức tin chân chánh phát sinh vì chân lý đã được hiển bày. Đây là loại đức tin dựa trên chân lý thực tại chứ không phải chỉ là những lý thuyết, tư tưởng suông phát sinh từ ý niệm vô căn cứ. Đức tin có một ảnh hưởng lớn lao đối với tâm. Bởi thế, Đức tin là một trong Ngũ căn. Nhờ có đức tin mới có Tinh tấn. Đức tin làm khởi sinh động cơ thực hành và trở thành căn bản của mọi pháp khác như Niệm, Định và Huệ. Lúc giảng dạy Bát Chánh Đạo lần đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như, Đức Phật đã nói đến sự quan trọng của ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, huệ. Những lời dạy của Ngài kích động tâm chúng sanh, và nhờ thế, chân tự do và hạnh phúc đến trong tầm tay của họ.
Cầu mong các bạn có được một đức tin chân thành và thâm sâu vào pháp hành thiền. Ước mong đây là bước căn bản giúp các bạn đạt được mục tiêu tối hậu giải thoát.