← Quay lại trang sách

PHẦN MỘT Chương 1 Căn nhà tạm

Thế đấy, con gái tôi đã chập chững những bước chân đầu tiên trong một căn nhà chung dành cho người vô gia cư*.

Đó là một buổi chiều tháng Sáu, ngay trước sinh nhật đầu tiên của con bé một ngày. Tôi ngồi chồm hỗm trên chiếc ghế sofa mòn xơ, giơ máy ảnh kĩ thuật số cũ kĩ lên để chụp lại những bước đi đầu đời ấy. Mái tóc rối và bộ đồ liền kẻ sọc mỏng manh hoàn toàn đối lập với sự quyết tâm ánh lên trong đôi mắt Mia khi nó co duỗi các ngón chân để giữ thăng bằng. Từ đằng sau máy ảnh, tôi thu vào tầm mắt tất cả: Những nếp da nơi mắt cá chân, dáng đi lắc lư và cái bụng tròn xoe. Nó chập chững đi về phía tôi, đôi chân trần bước từng bước trên nền nhà lát gạch. Bụi đất bao nhiêu năm đã két dính vào sàn nhà, mặc cho tôi có cố công kì cọ thế nào đi chăng nữa cũng không tài nào làm sạch được.

Đó là tuần cuối cùng của thời hạn 90 ngày chúng tôi được sống trong một căn nhà tạm ở phía bắc thị trấn, do ủy ban nhà ở cấp cho những người không nơi nương tựa. Sau đây chúng tôi sẽ chuyển đến nhà ở chuyển tiếp - một khu chung cư phức hợp cũ đã xuống cấp, sàn lát xi măng, từng được dùng làm nơi ở cho những người vừa ra tù hoặc rời khỏi bệnh viện tâm thần. Tôi đã cố gắng hết sức để biến căn nhà tạm này trở thành tổ ấm cho con gái. Tôi trải tấm phủ màu vàng lên cái ghế sofa, không chỉ để làm cho những bức tường trắng và sàn nhà xám xịt ủ dột trông ấm mắt hơn, mà còn để thêm một chút gì đó tươi vui vào khoảng thời gian đen tối này.

Bên cạnh cửa ra vào, tôi treo một tờ lịch nhỏ chi chít lịch hẹn với các chuyên viên tư vấn tại những tổ chức có thể giúp tôi. Tôi đã tìm mọi phương cách, lui tới văn phòng của mọi cơ quan trợ cấp chính phủ và nối vào hàng dài những con người cầm những tập hồ sơ giấy tờ lộn xộn chứng minh họ không có tiền. Tôi bị choáng ngợp bởi đủ loại thủ tục chỉ để chứng minh rằng tôi nghèo*.

Theo quy định, chúng tôi không được phép có người đến thăm và cũng chẳng được phép có quá nhiều tài sản. Hai mẹ con tôi sở hữu vỏn vẹn một túi đồ đạc. Mia chỉ có một giỏ đồ chơi. Tôi có một chồng sách khiêm tốn đặt trong các kệ nhỏ ngăn buồng khách với bếp. Trong căn nhà còn có một chiếc bàn tròn được tôi gắn cùng chiếc ghế ăn dặm của Mia, và một chiếc ghế nơi tôi thường vừa ngồi nhìn con ăn vừa uống cà phê để chiêu cơn đói bụng.

Vừa dõi theo Mia bước những bước đầu đời, tôi vừa cố không nhìn chiếc hộp màu xanh lá cây đằng sau đựng toàn bộ giấy tờ pháp lí ghi lại hành trình tôi đấu tranh giành quyền nuôi con với bố của Mia. Tôi gắng hết sức chỉ tập trung vào con, cười với con như thể tất cả đều ổn. Nếu tôi quay máy ảnh chụp bản thân một tấm, tôi sẽ không nhận ra nổi mình mất. Trong một vài bức ảnh, tôi gần như khác hẳn hồi xưa, có lẽ cả đời tôi chưa từng thấy một ai gầy đến thế. Tôi nhận việc chăm sóc vườn tược bán thời gian, dành vài giờ mỗi tuần để cắt tỉa tạo hình cây cảnh, bắt những bụi cây mâm xôi “nổi loạn” phải đi vào khuôn khổ, nhổ bỏ những nhành cỏ dại bé tí ở những nơi chúng không được phép xuất hiện. Có lúc tôi vệ sinh nhà cửa và toilet cho người quen hoặc bạn bè, những người biết tôi đang cần tiền vô cùng. Họ không giàu nhưng dù sao cũng có của ăn của để, chứ không như tôi. Với họ, mất đi một khoản tiền lương là vấn đề không nhỏ, nhưng đó không phải khởi điểm cho một chuỗi sự kiện dẫn đến nông nỗi phải sống trong một căn nhà chung dành cho người vô gia cư. Bố mẹ hoặc người thân có thể giúp họ chút tiền để thoát khỏi thảm cảnh ấy. Nhưng không ai cứu giúp mẹ con tôi. Tôi và Mia chỉ biết dựa vào nhau.

Trong các giấy tờ gửi lên cơ quan cấp nhà ở, khi được hỏi về mục tiêu cá nhân cho vài tháng tới, tôi đã viết sẽ cố gắng giải quyết những khúc mắc với Jamie, bố của Mia. Tôi từng nghĩ nếu tôi chịu cố gắng, chúng tôi có thể hòa thuận. Có lúc tôi đã hình dung ra những khoảnh khắc chúng tôi là một gia đình thực sự, có bố có mẹ và một cô con gái xinh xắn. Tôi ấp iu những ảo mộng ấy như thể chúng là sợi dây giữ một quả bóng bay khổng lồ sẽ đưa tôi vượt qua những trận bạo hành của Jamie và những nỗi nhọc nhằn khi phải làm mẹ đơn thân. Nếu nắm chặt sợi dây ấy, tôi sẽ bay qua tất cả. Nếu tôi chú tâm vào hình ảnh gia đình như tôi muốn, tôi có thể vờ như tất cả những chuyện tồi tệ kia chưa từng xảy ra, như thể đoạn đời này chỉ là tạm thời chứ không phải là một trang mới.

Vào sinh nhật, tôi mua cho Mia một đôi giày mới màu nâu thêu những con chim màu hồng và xanh. Tôi mua nó bằng những đồng lương tằn tiện cả tháng ròng. Tôi gửi thiệp mời sinh nhật như một bà mẹ bình thường và mời Jamie như thể chúng tôi là một cặp đôi chia tay trong hòa bình và cùng nhau nuôi dạy con cái. Chúng tôi tổ chức tiệc sinh nhật tại một bàn dã ngoại nhìn ra đại dương, nằm trên một sườn đồi xanh rì tại công viên Chetzemoka của thành phố Port Townsend thuộc bang Washington - nơi chúng tôi sinh sống. Mọi người ngồi trên chiếc thảm họ mang theo, thoải mái nói cười. Tôi mua nước chanh và bánh xốp bằng tem phiếu thực phẩm tháng này. Bố và ông tôi đã ngồi xe gần hai tiếng đồng hồ từ đầu kia thành phố tới tham dự. Em trai tôi và vài người bạn của tôi cũng đến. Một người còn mang theo cây đàn guitar. Tôi nhờ một người bạn chụp hình cho Mia, Jamie và tôi, vì chuyện ba người chúng tôi ngồi bên nhau thế này thật quá hiếm hoi. Tôi muốn Mia có một kỉ niệm đẹp để sau này nhớ lại. Nhưng gương mặt Jamie trong mọi bức hình đều hững hờ, cau có.

Mẹ tôi bay đến cùng người chồng mới, William, từ London, hoặc Pháp, hay bất kì nơi nào họ đang sống vào thời điểm đó. Sau sinh nhật của Mia, họ ghé thăm - vi phạm quy định “không tiếp khách” của khu nhà chung dành cho người vô gia cư - để giúp chúng tôi chuyển đến khu chung cư chuyển tiếp. Tôi thầm lắc đầu ngán ngẩm với trang phục của họ: William mặc quần bò đen bó, áo len đen và đi giày đen; mẹ tôi mặc chiếc đầm sọc đen trắng bó chặt lấy cái bụng mỡ, đi tất liền đen, phối cùng một đôi giày Converse thấp cổ. Trông họ như đang sẵn sàng ngồi nhâm nhi một tách cà phê espresso chứ không phải giúp chuyển nhà. Tôi không cho ai biết mẹ con tôi sống ở đâu nên sự xuất hiện của chất giọng Anh đặc trưng và những bộ trang phục cảnh vẻ đậm chất Âu khiến căn nhà tạm, tổ ấm của mẹ con tôi, bỗng nhiên như nhếch nhác hơn.

William có vẻ ngạc nhiên khi thấy chúng tôi ra đi chỉ vỏn vẹn đem theo một cái túi hình trống. Ông ta xách nó lên mang ra ngoài, mẹ tôi đi theo. Tôi quay lại nhìn sàn nhà lần cuối cùng, nhớ lại hình ảnh tôi đã ngồi đọc sách trên cái sofa ấy, Mia lục giỏ đồ chơi, cảnh con ngồi lọt thỏm trong cái ngăn kéo bên dưới cái giường đôi. Tôi vui vì được rời khỏi chốn này, nhưng đây là một khoảnh khắc ngắn ngủi giúp tôi hiểu mình đã vượt qua được những gì, để tôi gửi lời từ biệt ngọt ngào pha lẫn xót xa với cái chốn nhỏ bé là khởi đầu của chúng tôi.

Một nửa trong số những cư dân sống trong khu chung cư mới - Chương trình Cung cấp Nhà ở Chuyển tiếp cho Hộ Gia đình Hành lang Tây Bắc - cũng cùng chung cảnh ngộ như tôi: Họ vừa chuyển ra khỏi khu tạm trú cho người vô gia cư, nhưng nửa còn lại thì vừa mới ra tù. So với khu nhà chung dành cho người vô gia cư thì đây đáng ra phải là một bước tiến, nhưng tôi đã bắt đầu thấy nhớ cảm giác riêng tư của căn nhà tạm. Ở đây, trong tòa nhà này, cuộc đời tôi lồ lộ trước con mắt của mọi người, kể cả của chính tôi.

Mẹ và William chờ ở phía đằng sau tôi khi tôi tiến đến cửa căn nhà mới. Tôi đánh vật với ổ khóa, đặt cái hộp xuống và cố sức vặn tới khi cuối cùng chúng tôi cũng vào được trong nhà.

“Chí ít thì nơi này cũng được cái an toàn”, William bông đùa.

Chúng tôi bước vào một hành lang hẹp; cửa chính đối diện với nhà vệ sinh. Tôi ngay lập tức để ý tới cái bồn tắm, nơi tôi và Mia sau này có thể tắm chung. Đã lâu rồi chúng tôi không được hưởng cái thú xa xỉ ngâm mình trong bồn tắm. Hai phòng ngủ nằm ở bên phải, mỗi phòng có một cửa sổ nhìn ra đường. Trong căn bếp chật hẹp, cánh tủ lạnh suýt chạm vào cái chạn bếp ở phía đối diện. Tôi sải bước qua sàn nhà lát những viên gạch lớn màu trắng trông khá giống sàn căn nhà tạm và mở cửa ra một lô gia nhỏ, chỉ vừa đủ rộng cho tôi ngồi duỗi chần.

Cách đây hai tuần, Julie, chuyên viên tư vấn, đã dẫn tôi đi xem qua nơi này. Gia đình trước đã sống ở đây 24 tháng, vừa hết thời gian cho phép.

“May cho chị là căn này còn trống”, cô bảo. “Nhất là khi thời gian lưu lại ở khu tạm trú của chị đã hết.”

Ngày đầu mới gặp Julie, tôi ngồi đối diện cô, lắp bắp cố trả lời những câu hỏi về kế hoạch tương lai, tôi định cho con một mái ấm bằng cách nào. Tôi định làm gì để có nguồn tài chính ổn định. Tôi làm được những công việc gì. Julie có vẻ hiểu những hoang mang của tôi và đưa ra một vài gợi ý để gỡ rối. Chuyển đến sống ở khu nhà dành cho người thu nhập thấp có lẽ là lựa chọn duy nhất. Trung tâm Hỗ trợ Nạn nhân của Bạo hành Gia đình và Lạm dụng Tình dục có cung cấp nơi tạm trú an toàn cho những con người bơ vơ không nơi nương tựa, nhưng tôi có cái may mắn được ủy ban nhà ở cấp cho một chỗ ăn ở riêng và một con đường để an cư lạc nghiệp.

Julie và tôi lượt qua danh sách dài bốn trang liệt kê các luật lệ ngắn gọn trong buổi gặp đầu tiên - những quy định tôi buộc phải tuần thủ nếu muốn sống trong khu tạm trú của họ.

Khách phải hiểu rằng đây là nơi tạm trú khẩn cấp;

đây KHÔNG PHẢI nhà của bạn.

Yêu cầu PHÂN TÍCH MẪU NƯỚC TIỂU NGẪU NHIÊN

có thể được đưa ra bất kì lúc nào

KHÔNG tiếp khách

KHÔNG CHẤP NHẬN NGOẠI LỆ.

Julie nói rõ rằng thi thoảng người ta kiểm tra ngẫu nhiên để đảm bảo cư dân có thực hiện những công việc vệ sinh gia đình cơ bản như rửa bát, không để thức ăn thừa trên bàn bếp và quét nhà. Tôi một lần nữa đồng ý với yêu cầu thử nước tiểu ngẫu nhiên, kiểm tra nhà ở ngẫu nhiên và quy định giới nghiêm từ 10 giờ tối. Không được phép cho khách ở lại qua đêm khi chưa nhận được sự đồng ý và cũng không được quá ba ngày. Tất cả những thay đổi về thu nhập phải được báo cáo ngay lập tức. Tôi cũng phải nộp báo cáo hằng tháng với đầy đủ chi tiết rằng nguồn tiền đến từ đâu, chi cho mục đích gì.

Julie tốt tính và luôn giữ nụ cười trên môi khi nói chuyện. Tôi mừng vì cô không mang vẻ mệt mỏi, khó chịu như một số chuyên viên tư vấn trong những cơ quan chính phủ khác. Cô đối xử với tôi như giữa con người với con người, khi nói thi thoảng cô lại vén những lọn tóc ngắn màu đỏ đồng ra sau tai. Ấy vậy nhưng dòng tư duy của tôi như hẫng lại khi cô bảo tôi “may mắn”. Tôi không thấy mình may mắn. Chắc chắn là tôi thấy cảm kích, nhưng may mắn ư? Không. Không thể nào nói tôi may mắn khi tôi sắp chuyển đến ở tại một nơi đầy rầy những quy định khiến tôi có cảm giác mình là một kẻ nghiện ngập, bẩn thỉu hoặc rối loạn tâm thần đến mức cần một lệnh giới nghiêm và được thử nước tiểu.

Nghèo, sống trong cái nghèo cũng khá giống với việc phải chịu án treo - vì tội thiếu cần câu cơm.

William, mẹ và tôi thong thả chuyển đồ từ chiếc xe bán tải đi mượn lên căn hộ tại tầng hai. Chúng tôi chuyển đồ đạc từ một nhà kho do bố thuê cho tôi trước khi tôi chuyển vào căn nhà tạm. Mẹ và William trưng diện quá nên tôi đành đưa cho họ mấy cái áo phông, nhưng họ từ chối. Trước nay mẹ tôi luôn to béo, trừ trong giai đoạn mẹ li hôn bố. Mẹ bảo mẹ giảm cân là nhờ phương pháp ăn kiêng Atkins. Bố tôi sau đó phát hiện ra chuyện mẹ tự nhiên thích đi tập thể dục chẳng phải để giữ dáng mà là đi ngoại tình, cùng với đó là khát khao được thoát khỏi vòng kiểm tỏa của việc làm vợ làm mẹ. Sự thay đổi ngoại hình của mẹ tượng trưng cho sự thoát ra hoặc thức tỉnh một cuộc đời mà mẹ luôn muốn có nhưng đành hi sinh vì gia đình. Với tôi, mẹ như đột nhiên trở thành người xa lạ.

Bố mẹ tôi li hôn chính vào mùa xuân em tôi tốt nghiệp trung học phổ thông, và mẹ dọn tới một căn hộ riêng. Đến Lễ Tạ ơn, mẹ đã lọt thỏm trong chiếc đầm ngày trước và nuôi tóc dài. Chúng tôi tới một quán rượu và tôi đã thấy mẹ hôn những gã trai chỉ bằng tuổi tôi, sau đó say quắc cần câu không biết giời đất là gì tại một quán ăn. Tôi xấu hổ, nhưng rồi cảm giác đó biến thành một nỗi mất mát mà tôi không biết phải khóc thương như thế nào. Tôi cần mẹ.

Một thời gian sau bố tôi cũng lập gia đình mới. Bạn gái mới của bố hay ghen và có ba cậu con trai riêng. Bà ấy không thích sự có mặt của tôi. “Hãy tự lập đi”, bố đã nói vậy với tôi sau bữa sáng tại quán Denny gần nhà họ.

Bố mẹ tôi đã tiếp tục cuộc sống của mình, bỏ lại tôi bơ vơ không nơi nương tựa về mặt tình cảm. Tôi thề sẽ không bao giờ để tôi và Mia phải xa rời nhau, cả về thể xác lẫn tinh thần.

Giờ, nhìn mẹ, kết hôn với một anh chàng người Anh chỉ hơn tôi có bảy tuổi, tôi nhận thấy mẹ đã tăng vài cỡ quần áo so với hồi trước, đến mức mẹ có vẻ không thoải mái với cơ thể mình. Tôi không thể nào không nhìn mẹ chằm chằm khi mẹ đứng cạnh tôi và nói thứ giọng Anh ngụy tạo. Mẹ chuyển đến châu Âu mới có bảy năm, nhưng số lần tôi được gặp mẹ thì đếm trên đầu ngón tay.

Đang chuyển dở mấy thùng sách, mẹ bắt đầu huyên thuyên về một chiếc bánh burger thật ngon. “Với cả một cốc bia nữa”, mẹ nói thêm vào lần tiếp theo chúng tôi đi qua nhau trên cầu thang. Chưa qua trưa mà mẹ đã nghĩ đến nghỉ ngơi, nghĩa là bà sẽ sớm nốc rượu thôi. Bà đề nghị chúng tôi tới Sirens, một quán rượu ở trung tâm thành phố có ghế ngồi ngoài trời. Tôi tứa nước miếng. Mấy tháng rồi tôi chưa đi ăn tiệm.

“Chuyển đổ xong con còn phải đi làm, nhưng thôi được”, tôi nói. Tôi nhận công việc dọn dẹp trường mẫu giáo của một người bạn mỗi tuần một lần để kiếm 45 đô la. Tôi còn phải trả xe và đón Mia từ nhà Jamie nữa.

Hôm đó, mẹ tôi cũng bỏ đi vài thùng đồ của mình - chứa những tấm ảnh cũ và đồ nữ trang lặt vặt được cất trong garage của một người bạn. Mẹ mang tất cả đến nhà mới của tôi làm quà. Tôi vui vẻ nhận lấy vì hoài niệm quá vãng, mà chúng thì giống như những bằng chứng về một thời đã xa chúng tôi từng bên nhau. Mẹ giữ tất cả những tấm ảnh chân dung thời học sinh, kể cả ảnh Halloween. Tôi ôm con cá đầu tiên mình cầu được. Tôi nâng niu bó hoa sau chương trình nhạc hội của nhà trường. Mẹ đã đi dự, ủng hộ tinh thần cho tôi, đã cười rất tươi và giơ cao chiếc máy ảnh. Nhưng nay, trong căn hộ này, mẹ nhìn tôi như thể nhìn một con người trưởng thành khác, ngang hàng, trong khi tôi cảm thấy mất mát hơn bao giờ hết. Tôi cần gia đình. Tôi cần trông thấy họ gật đầu, mỉm cười và trấn an rằng tôi sẽ ổn thôi.

Nhân lúc William vào nhà vệ sinh, tôi ngồi bệt xuống sàn nhà, bên cạnh mẹ.

“Mẹ ơi”, tôi nói.

“Gì thế?” Mẹ đáp như thể tôi sắp xin xỏ điều gì. Tôi luôn có cảm giác mẹ sợ tôi xin tiền, dù tôi chưa từng ngửa tay cầu cạnh một đồng nào. Mẹ và William sống tằn tiện ở châu Âu, cho thuê căn hộ của William tại London, còn bản thân thì sống tại một căn nhà nhỏ nơi miền quê nước Pháp, không xa Bordeaux là mấy, có lẽ họ đã biến nó thành một nhà trọ qua đêm rồi cũng nên.

“Liệu hai mẹ con mình có thời gian dành cho nhau không?” Tôi hỏi. “Chỉ hai chúng ta thôi ấy?”

“Steph, có vẻ không hay lắm đâu.”

“Vì sao?” Tôi ngồi thẳng người, hỏi.

“Ý mẹ là, nếu con muốn dành thời gian với mẹ, con sẽ phải chấp nhận cả William nữa”, bà nói.

Đúng lúc đó, William bước về phía chúng tôi, xì mũi đánh rột vào chiếc khăn tay. Bà nắm tay William và nhướng mày nhìn tôi như thể tự hào vì đã đặt ra giới hạn đó.

Chuyện tôi không thích William cũng chẳng có gì phải giấu giếm. Khi tôi đến thăm họ tại Pháp vào hai năm trước, William và tôi đã tranh cãi kịch liệt khiến mẹ tôi buồn đến mức phải bỏ ra ngoài xe khóc. Trong chuyến thăm đó, tôi đã ước sẽ hàn gắn lại mối quan hệ với mẹ. Không phải với một người có thể giúp tôi chăm sóc Mia, mà tôi cần một người mẹ, một người tôi có thể tin tưởng, một người chấp nhận tôi vô điều kiện mặc cho tôi đang sống trong khu nhà chung dành cho người vô gia cư. Nếu tôi có một người mẹ để mà hàn huyên tâm sự, có lẽ mẹ sẽ giải thích cho tôi hiểu chuyện gì đang đến với tôi, hoặc khiến tất cả dễ chịu hơn và giúp tôi không có cảm giác mình là một kẻ thất bại.

Chấp nhận việc mình tuyệt vọng đến mức muốn tranh giành sự chú ý của mẹ thật sự vô cùng khó khăn. Thế là tôi cười ha hả mỗi khi William kể chuyện cười. Tôi mỉm cười mỗi khi anh ta tếu táo về ngữ pháp tiếng Anh của dân Mỹ. Tôi không hề buông một lời nhận xét về ngữ điệu mới của mẹ, cũng chẳng đả động đến chuyện bây giờ mẹ hay tỏ ra cảnh vẻ, cứ như thể bà ngoại tôi chưa từng trộn salad từ trái cây đóng hộp và những lốc kem sữa mua sẵn bao giờ.

Bố mẹ tôi lớn lên ở hai khu vực khác nhau thuộc quận Skagit, một địa danh nổi tiếng với những cánh đồng hoa tulip, cách thành phố Seattle một giờ chạy xe về hướng bắc. Cả hai bên nội ngoại của tôi đều sống trong cảnh nghèo khó đã vài thế hệ. Bên nội có gốc gác từ phía sườn đồi xanh rì bên trên hồ Clear Lake. Nghe đâu những người bà con xa của bố tôi vẫn nấu rượu lậu. Nhà mẹ ở trong thung lũng, nơi những người nông dân trồng bạt ngàn đậu đũa và cải bó xôi.

Ông bà ngoại đã ở bên nhau gần bốn mươi năm. Trong những kí ức đầu đời của tôi, họ sống ở căn nhà di động bên một cánh rừng gần suối. Tôi ở với ông bà vào ban ngày khi bố mẹ đi làm. Ông thường phết bơ và sốt mayonnaise lên những lát bánh mì Wonder để ăn trưa. Ông bà không giàu có, nhưng những kí ức của tôi về họ luôn tràn ngập tình yêu và sự ấm áp: Bà khuấy xúp cà chua Campbell trên bếp, một tay cầm lon soda và đứng chân co chân duỗi như một “nàng” hồng hạc, gần bên bà luôn có một điếu thuốc lá đỏ đầu nằm gác trên cái gạt tàn.

Rồi họ chuyển tới sống ở thành phố Anacortes, trong một căn nhà cũ đã xuống cấp đến mức khó có thể coi là chỗ cho người ở. Ông làm môi giới bất động sản và thi thoảng sẽ ghé qua nhà giữa những lần đi môi giới. Khi ấy, ông sẽ mở toang cửa, hồ hởi đưa cho tôi những món đồ chơi nho nhỏ mà ông tìm thấy hoặc thắng được từ máy gắp đồ chơi trong khu bowling.

Hồi còn bé, khi không ở nhà ông bà thì tôi thường gọi điện cho bà. Tôi dành nhiều thời gian nói chuyện với họ đến nỗi trong những thùng đựng ảnh phải có đến bốn, năm bức chụp tôi đứng trong bếp với một cái ống nghe điện thoại màu vàng áp bên tai.

Bà bị bệnh tâm thần phân liệt thể hoang tưởng, và dần dần tôi gần như không thể trò chuyện với bà. Bà bị loạn trí ngày một trầm trọng. Vào lần cuối cùng tôi và Mia tới thăm bà, tôi đã mang đến một chiếc pizza của tiệm Papa Murphy mua bằng tem phiếu. Gần như trong suốt thời gian chúng tôi đến chơi thì bà, với bộ dạng mắt kẻ viền đen sì và môi tô hồng chóe lọe, đứng bên ngoài hút thuốc. Chúng tôi phải đợi ông về để được vào nhà và cùng ăn bánh. Đến lúc đó, bà lại kêu là không thấy đói nữa và gán cho ông tội ngoại tình, thậm chí là tán tỉnh tôi.

Nhưng Anacortes là nơi lưu giữ những kỉ niệm thời thơ bé của tôi. Dù tôi càng ngày càng ít gắn kết với người thân, nhưng tôi luôn kể cho Mia về vịnh Bowman thuộc eo biển Deception - một “con hẻm” giữa đại dương ngăn cắt đảo Fidalgo và đảo Whidbey - nơi bố thường đưa tôi đi dã ngoại hồi còn thơ bé. Cái vịnh nhỏ thuộc tiểu Washington ấy, với bạt ngàn những cây thường xanh và cây dương mai cao ngất, là nơi duy nhất mà tôi cảm thấy giống quê nhà. Tôi khám phá từng ngóc ngách của nó, biết rõ mọi con đường mòn và sắc thái của mọi dòng hải lưu; tôi đã khắc những chữ cái viết tắt tên mình lên một thân cây dương mai khẳng khiu màu cam đỏ, và đến giờ vẫn biết chính xác nó ở đâu. Mỗi khi trở lại Anacortes để thăm ông bà, tôi lại tha thẩn ra bãi biển bên dưới cầu Depception, đi vòng qua phố Rosario và những căn nhà lớn trên các con dốc để về nhà.

Tôi nhớ những người thân yêu ruột thịt, nhưng cũng lấy làm khuây khỏa vì mẹ và bà vẫn nói chuyện với nhau vào mỗi Chủ nhật. Mẹ sẽ gọi cho bà từ một nơi nào đó ở châu Âu. Điều đó an ủi tôi, như thể tôi không hoàn toàn mất mẹ, và rằng trong thâm tâm, mẹ vẫn còn vấn vương một chút gì của con người thời xưa cũ.

Mẹ gọi thêm một cốc bia nữa khi bồi bàn đưa hóa đơn thanh toán tiền ăn của quán Sirens tới. Tôi xem đồng hồ. Tôi cần hai tiếng để dọn dẹp trường mẫu giáo trước khi đón Mia. Sau khi xem mẹ và William tự mua vui cho mình bằng những giai thoại lạ lùng về nơi họ đang sống tại Pháp thêm mười lăm phút nữa, tôi đành thú nhận rằng mình phải về trước.

“Chà”, William nói và nhướng mày. “Để tôi gọi bồi bàn tới cho cô thanh toán tiền ăn trưa nhé?”

Tôi trố mắt nhìn. “Không cần”, tôi nói. Chúng tôi nhìn nhau như kiểu thách thức. “Tôi không có tiền mà trả.”

Đáng ra tôi nên mời họ bữa trưa vì họ đến thăm và giúp tôi chuyển nhà, nhưng dù gì thì họ cũng ít nhiều là bố mẹ của tôi. Tôi muốn nhắc William nhớ rằng anh ta vừa giúp tôi chuyển ra khỏi một căn nhà tạm dành cho người vô gia cư, nhưng tôi không nói gì và đưa mắt cầu xin mẹ.

“Mẹ có thể thanh toán tiền bia bằng thẻ tín dụng”, mẹ tôi đề nghị.

“Con chỉ còn 10 đô trong tài khoản”, tôi nói. Cục nghẹn trong cổ tôi đang lớn dần.

“Thế thì còn chưa đủ cho cái bánh burger của cô”, William buột miệng.

Anh ta nói đúng. Cái burger của tôi có giá 10,59 đô. Tôi đã gọi một món ăn có giá thấp hơn số tiền trong tài khoản của tôi chẵn tròn 28 xu. Nỗi xấu hổ dập dồn trong ngực tôi. Bất kì chút cảm giác mừng vui chiến thắng nào mà tôi có trong ngày hôm ấy vì được chuyển ra khỏi căn nhà ở tạm đã tan thành mây khói. Tôi còn chẳng đủ tiền để mua lấy một cái bánh burger chết tiệt.

Tôi nhìn mẹ và William, sau đó xin phép vào nhà vệ sinh. Tôi không có nhu cầu gì cần giải quyết. Tôi chỉ muốn khóc.

Tôi thấy trong gương một tôi gầy như que củi, mặc cái áo phông của trẻ con và cái quần bò bó xắn gấu để giấu đi chuyện nó quá cộc. Trong gương, là người phụ nữ đó - làm việc quần quật nhưng vẫn chẳng ra tiền, một người không mua nổi chiếc burger chết tiệt cho mình. Tôi thường căng thẳng đến nỗi không muốn ăn uống gì, nhiều bữa ăn cùng Mia, tôi cứ ngồi đó ngắm con bé đút từng thìa vào miệng mà lòng mừng thầm. Cơ thể tôi gân guốc và hốc hác, và tất cả những gì tôi có cho riêng mình là được khóc trong cái nhà vệ sinh này.

Nhiều năm trước, khi nghĩ về tương lai, việc mình lâm vào cảnh túng thiếu đối với tôi dường như là một cái gì đó lạ lùng, vượt ra ngoài thực tế. Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ rơi vào tình cảnh này. Nhưng giờ đây, sau khi có một đứa con và một cuộc chia tay không êm thấm, tôi rơi vào cái thực tế bi đát mà tôi không biết cách nào để thoát ra.

Khi tôi quay lại, William vẫn ngồi đó, lỗ mũi phình ra như một con rồng thu nhỏ. Mẹ tôi nghiêng người về phía anh ta thì thầm gì đó, và anh ta lắc đầu phản đối.

“Tôi có thể trả 10 đô”, tôi ngói xuống, nói.

“Ừ”, mẹ bảo.

Tôi không nghĩ mẹ sẽ chấp nhận đề nghị của tôi. Phải vài ngày nữa tôi mới được nhận lương. Tôi lục túi tìm ví tiền, sau đó đưa thẻ của mình để thanh toán cùng mẹ. Sau khi kí hóa đơn, tôi đứng dậy, nhét thẻ vào túi quần, rồi chẳng thèm ôm mẹ mà cứ vậy đi luôn. Tôi vừa cách bàn được vài bước thì nghe thấy William nói, “Anh chưa từng thấy ai chảnh chọe như vậy!”