← Quay lại trang sách

Chương 3 Căn hộ chuyển tiếp

Bố mẹ đưa chị em tôi rời khỏi Washington khi tôi lên bảy, xa những người bà con thân thích. Chúng tôi đến sống trong một ngôi nhà nằm dưới chân dãy núi Chugach ở thành phố Anchorage thuộc tiểu bang Alaska. Hồi đó nhà thờ ở đấy có vài chương trình hỗ trợ những người vô gia cư và thu nhập thấp. Khi còn bé, tôi thích được trao tặng các gia đình những thứ họ cần cho ngày lễ. Sau buổi đi lễ Chủ nhật, mẹ sẽ cho chị em tôi lấy một thiên thần giấy trên cây thông Noel trong hành lang nhà thờ. Sau bữa nửa buổi, chúng tôi sẽ đi siêu thị để chọn những món quà đã được lên danh sách sẵn để tặng cho một cô bé hoặc cậu bé không rõ tên trạc tuổi chúng tôi. Những món quà đó thường là đồ chơi, quần áo mặc đi ngủ, giày và tất.

Một năm nọ, tôi cùng mẹ đi đưa bữa tối cho một gia đình. Tôi háo hức đợi tới lượt mình trao những món quà được gói bọc tỉ mẩn cho người đàn ông ra mở cửa căn hộ chung cư ẩm thấp. Chú ấy mặc áo phông trắng, tóc đen dày và da nâu sạm. Sau khi tôi trao túi quà, mẹ liền đưa cho chú ấy một hộp gà tây, khoai tây và rau củ đóng hộp. Chú ấy chỉ gật đầu rồi lẳng lặng đóng cửa. Tôi thất vọng ra về. Tôi cứ tưởng mẹ con tôi sẽ được mời vào nhà, tôi sẽ được giúp con gái chú ấy bóc những gói quà do tôi đích thân chọn lựa, và được chứng kiến chúng đã khiến cô bé kia hạnh phúc đến nhường nào. Tôi sẽ nói với bạn ấy rằng: “Đôi giày mới bóng loáng này là đẹp nhất cửa hàng.” Tôi đã tự hỏi vì sao bố cô bé không vui vẻ hơn khi đưa chúng cho con gái mình.

Lớn hơn một chút, tôi thường dành vài buổi chiều ở khu trung tâm thành phố Anchorage làm thiện nguyện trao những túi đồ ăn trưa cho người vô gia cư. Chúng tôi ở đó để “chứng kiến” và chia sẻ Kinh Phúc âm với họ. Để được họ lắng nghe, chúng tôi cho họ táo và sandwich. Tôi nói Chúa yêu thương họ, nhưng một người đàn ông đã cười khẩy và nói, “Có vẻ Chúa yêu cháu nhiều hơn một chút.” Tôi rửa xe để gây quỹ cho chuyến đi tới các trại trẻ mồ côi ở Baja Mexico hoặc tổ chức các trại hè Công giáo cho trẻ nhỏ tại Chicago. Ngẫm lại những cố gắng hồi đó và phận mình hiện tại, đang chật vật tìm việc làm và một chỗ ở an toàn, tôi mới thấy những nỗ lực đó, tuy cao quý, đều là việc từ thiện chỉ là cho người ta con cá chứ chẳng cho cần câu. Nói cách khác chính tôi đã góp phần biến những người nghèo thành tranh biếm họa - những thiên thần giấy vô danh đính trên cây. Tôi nhớ lại người đàn ông đã ra mở cửa và được tôi trao cho một túi quà nhỏ. Giờ thì tôi lại là người mở cửa, đón nhận những món quà từ lòng tốt của người khác. Đến lượt tôi chấp nhận rằng mình không thể nuôi nổi gia đình. Chấp nhận những món quà của họ - một đôi găng tay mới, một món đồ chơi - chỉ vì họ muốn thể hiện lòng tốt. Nhưng trong danh sách đó không thể có dịch vụ “chăm sóc sức khỏe” hay “chăm sóc trẻ nhỏ”.

Vì bố mẹ nuôi nấng chị em tôi cách xa quê nhà ở tây bắc Washington - nơi ông bà tôi sống hàng ngàn dặm, thành thử vào thời niên thiếu, tôi khá giống với giai cấp trung lưu Mỹ. Chúng tôi không thiếu những nhu yếu phẩm cơ bản, nhưng bố mẹ tôi không đủ tiền chi trả cho những sở thích đắt đỏ như học khiêu vũ hay học karate, cũng chẳng thể trang trải học phí đại học cho hai chị em tôi. Tôi biết về giá trị đồng tiền từ khá sớm. Tôi bắt đầu đi trông trẻ kiếm tiền khi mười một tuổi và sau đó gần như luôn làm một hoặc hai công việc. Đó thật ra chỉ là sở thích, chứ chị em tôi được bảo bọc an toàn nhờ các đức tin tôn giáo và nguồn tài chính ổn định của bố mẹ.

Sự an toàn đã bao phủ con người tôi. Tôi an toàn và chưa bao giờ nghi ngờ điều đó, cho tới khi không còn được hưởng điều ấy nữa.

Mắt Jamie nheo lại khi tôi bảo rằng tôi muốn đưa Mia về sống cùng bố và mẹ kế của tôi, Charlotte. Mia chưa đầy bảy tháng tuổi nhưng đã phải chứng kiến quá nhiều cơn thịnh nộ của bố; những đòn hành hạ về thể xác và tinh thần làm tôi tổn thương sâu sắc.

“Tôi tìm trên mạng”, tôi nói và lấy tờ giấy trong túi quần ra trong lúc vẫn bế xốc nách Mia. “Họ đã ước tính khoản hỗ trợ nuôi con hằng tháng, và số tiền có vẻ vừa phải.”

Anh ta giật tờ giấy khỏi tay tôi, vò nát và ném vào mặt tôi, cái lườm hằm hè không hề rời khỏi tôi. “Đừng hòng tôi chi tiền hỗ trợ nuôi con cho cô”, anh ta nói giọng đều đều. “Cô phải là người trả tiền cho tôi!” Giọng anh ta mỗi lúc một lớn khi vừa nói vừa đi đi lại lại. “Cô sẽ không đi đâu hết.” Anh ta chỉ vào Mia. “Cô nên nhớ, nếu muốn tôi cướp được nó ngay.” Cùng với đó, anh ta quay lưng bỏ đi, hét lên một tiếng bực dọc và đấm thủng cửa. Mia giật mình khóc thét lên lần đầu tiên trong đời.

Tay tôi run run trong lúc nhấn số của đường dây nóng về bạo hành gia đình. Tôi còn chưa kịp trình bày thì Jamie đã bắt đầu gọi cho tôi liên tục. Họ khuyên tôi nên cúp máy và gọi cảnh sát. Vài phút sau, ánh đèn pha của xe ô tô đi tuần đã chiếu sáng dọc một bên căn nhà lưu động. Một viên cảnh sát nhẹ nhàng gõ vào cánh cửa đã hỏng. Anh ta cao ráo, đầu gần chạm nóc. Trong lúc tôi trần tình, anh ta ghi chép lại, xem xét cửa, gật đầu và hỏi xem chúng tôi có ổn không. Liệu chúng tôi có cảm thấy an toàn không. Sau một năm bị bạo hành, đe dọa và chửi rủa, câu hỏi đó khiến tôi nhẹ lòng ghê gớm. Hầu hết những cơn thịnh nộ của Jamie đều gây hậu quả vô hình. Chúng không để lại một vết bầm hay một vết trẩy xước. Nhưng cái này - cái này tôi có thể chỉ cho người khác thấy. Tôi có thể yêu cầu người khác nhìn lấy nó. Tôi có thể nói, “Anh ta đã làm thế. Anh ta đã làm thế với mẹ con tôi.” Và họ sẽ nhìn vào nó, gật đầu rồi nói, “Tôi thấy rồi. Tôi thấy anh ta đã làm gì với mẹ con chị.” Tờ báo cáo mà anh cảnh sát đó để lại là bằng chứng cho thấy tôi không bị điên. Tôi giữ nó trong ví suốt nhiều tháng trời như thể đó là một tờ chứng nhận.

Những đêm đầu tiên mẹ con tôi sống trong căn hộ nhà ở chuyển tiếp trên một con phố chính khiến trong tôi dâng lên một nỗi bất an. Mỗi tiếng động vọng qua các bức tường và sàn nhà của khu phức hợp này đều làm tôi giật mình thon thót. Mỗi khi ở nhà là tôi liên tục kiểm tra cửa nẻo xem đã khóa chưa, và đó là một chuyện mà trước nay tôi chưa từng làm. Nhưng ở đây chỉ có tôi và con gái, và chỉ có tôi mới bảo vệ được chúng tôi.

Khi mẹ con tôi ở trong khu nhà dành cho người vô gia cư, lối đánh xe dẫn thẳng đến cửa căn nhà tạm nên tôi luôn đỗ ngay bên ngoài để phòng trường hợp cần phải đi ngay. Tôi chưa từng nhìn thấy hay nghe thấy tiếng hàng xóm, tất cả sống trong những căn nhà biệt lập nằm giữa thiên nhiên - cây cối và những cánh đồng đem lại cảm giác yên bình, vô lo. Không gian nhỏ bé đó thuộc về tôi và tôi không sợ bị xâm phạm. Nhưng trong căn hộ này, tường và sàn nhà dường như rất mỏng, xung quanh có quá nhiều giọng nói lạ. Ở cầu thang bộ, người ta đi lên đi xuống, hét lên với nhau. Tôi chăm chú nhìn cánh cửa chính, thứ duy nhất ngăn cách chúng tôi với phần còn lại của thế giới, biết rằng bất kì ai cũng có thể tông đổ nó bất cứ lúc nào.

Các căn hộ khác vây quanh chúng tôi trong khối hộp chữ nhật xám xịt này, nhưng bằng chứng duy nhất về sự tồn tại những cư dân là giọng nói từ đằng sau các bức tường, rác chất thành núi trong thùng rác, những chiếc xe đậu trong bãi đỗ xe. Có lẽ tôi sẽ cảm thấy an tâm hơn nếu tôi được gặp hàng xóm, được biết trông họ như thế nào. Những tiếng động ban đêm, tiếng guốc khua lộc cộc trên sàn, giọng nói trầm đến lạ lùng, rồi tiếng cười của một đứa trẻ, tất cả len lỏi vào giấc ngủ của tôi. Đêm tôi dậy vài lần để xem Mia thế nào. Con bé ngủ trong chiếc cũi ở phòng bên cạnh.

Nhưng chủ yếu thì hằng đêm, tôi nằm thao thức nhớ lại những phiên tòa giành quyền nuôi con với Jamie.

Tôi đứng trước thẩm phán, bên cạnh Jamie và luật sư của anh ta. Tôi đã trở thành người vô gia cư, và đang giành quyền nuôi Mia. Chuyện những lời nhiếc móc tàn tệ của Jamie suốt nhiều tháng ròng đã làm tôi trầm cảm không phải là bí mật, và giờ thì anh ta dùng nó làm cái cớ cho rằng tôi không đủ sức khỏe nuôi con. Những thiếu sót của tôi đang chống lại tôi. Có vẻ như luật sư của Jamie và quan tòa nghĩ rằng tôi chọn rơi vào tình trạng này, như thể tôi cho rằng việc nuôi một đứa trẻ trong khi không thể cho nó một mái ấm là bình thường. Như thể mỗi giây mỗi phút tôi không nghĩ xem phải thay đổi tình thế bằng cách nào, nếu tôi có thể. Không hiểu sao, tôi bỗng có cảm giác chuyện mình đưa Mia ra khỏi cái nơi mà tôi bị đánh đập hành hạ tới mức phải nằm co ro trên sàn, khóc nức nở như một đứa bé lại là một chuyện xấu. Không ai thấy tôi đang cố gắng cho con một cuộc đời tốt đẹp hơn - họ chỉ thấy tôi đang lôi nó ra khỏi cái nơi mà họ cho là một mái nhà ổn định về mặt tài chính.

Từ đâu đó, tôi tìm thấy một nguồn sức mạnh gần như nguyên thủy nhất, và tôi đã giành được quyền nuôi con. Tôi có chỗ ở của mình, một nơi để Mia sống cùng tôi. Nhưng hằng đêm tôi vẫn cảm thấy một nỗi mặc cảm tội lỗi vì chúng tôi còn thiếu thốn quá nhiều. Có những ngày cái cảm giác ấy lớn đến nỗi tôi không thể hoàn toàn tập trung với Mia được. Tôi sẽ đọc truyện ru con bé ngủ, nhẹ nhàng đong đưa con trên chính cái ghế mẹ từng đọc truyện cho tôi thuở xưa. Tôi tự nhủ rằng ngày mai sẽ tốt hơn; tôi sẽ là người mẹ tốt hơn.

Tôi hay ngồi nhìn Mia ăn, hoặc sẽ đi lại trong bếp, uống cà phê và thẫn thờ nhìn sổ sách chi tiêu và lịch làm việc treo trên tường. Nếu chúng tôi ra ngoài mua đồ dùng, tôi sẽ dành buổi sáng để kiểm tra số dư tài khoản và thẻ EBT (electronic benefit transfer - chuyển phúc lợi điện tử), một loại thẻ ghi nợ tiền mua thực phẩm do chính phủ cấp, để xem chúng tôi còn bao nhiêu tiền. Thẻ EBT mới được đưa vào sử dụng từ năm 2002. Tôi đã xin được cấp tem phiếu khi đang mang bầu, và Jamie vẫn còn nhớ mẹ anh ta từng trả tiền mua đồ bằng tem giấy và luôn nhạo báng kí ức đó. Tôi cảm ơn các chương trình đã nuôi sống gia đình tôi, nhưng tôi cũng mang về nhà sự tủi hổ, lần nào cũng thầm đánh vật với cảm giác không biết nhân viên thu ngân sẽ nghĩ gì về mình - một người phụ nữ địu con, mua thức ăn nhờ sự trợ giúp từ chính phủ. Tất cả những gì người ta nhìn thấy là tem phiếu, những phiếu giấy WIC giúp chúng tôi mua trứng, phô mai, sữa và bơ lạc. Cái họ không nhìn thấy là số dư, rơi khoảng chừng 200 đô tùy theo thu nhập của tôi, và rằng đó là tất cả số tiền tôi có để mua thức ăn. Tôi phải tằn tiện chi tiêu cho đủ đến cuối tháng, tới khi số dư tài khoản được làm mới sau đầu tháng sau. Họ không thấy tôi ăn bánh mì phết bơ lạc và trứng luộc, dè xẻn li cà phê buổi sáng. Hồi đó tôi không biết, nhưng chính phủ đã đổi tên cho “cái dấu nung” đóng lên 29 triệu con người dùng tem phiếu: Chương trình Hỗ trợ Dinh Dưỡng Bổ sung (snap). Nhưng dù cho ta có gọi nó là tem phiếu hay SNAP đi chăng nữa thì cái định kiến người nghèo ăn cắp tiền thuế từ những người dân Mỹ lao động vất vả để mua đồ ăn vặt vẫn không thay đổi.

Dù đầu óc rối bời nhưng tôi vẫn bị ám ảnh bởi suy nghĩ liệu tôi có phải một người mẹ tồi không. Tôi đang thất bại; tôi mải mê với việc làm cách nào để sống qua một tuần chứ không phải là sống với con mình. Hồi còn sống cùng Jamie, công việc của anh ta cho phép tôi được ở nhà với Mia. Tôi nhớ những ngày chỉ có hai mẹ con với nhau, chúng tôi được dừng lại để nhìn, để học và để thắc mắc. Giờ tôi có cảm giác như chúng tôi chỉ đang xoay xở: luôn muộn một chuyện gì đó, luôn ở trên xe, luôn ăn vội ăn vàng cho xong bữa và dọn dẹp. Tôi mải miết với nhịp sống, chẳng kịp dừng lại để thở.

Tôi luôn sợ rằng mình bị tụt lại đằng sau, quên mất thứ gì đó, và vì thế mà cuộc sống của chúng tôi đã rối lại càng thêm rối - tôi còn chẳng có thời gian cho Mia đứng lại ngắm nhìn một con sâu đo bò ngang vỉa hè.

Dù tôi gần như nghe thấy tất cả tiếng xả toilet và kéo ghế của nhà hàng xóm, nhưng người phụ nữ sống bên dưới nhà tôi có cách giới thiệu bản thân rất hách dịch, luôn dùng cán chổi dộng lên trần nhà và lớn tiếng cằn nhằn mỗi khi Mia chạy. Khi chúng tôi mới chuyển đến, tôi quét lá và mạng nhện hất xuống dưới. Bà ta liền la làng, “Làm cái của nợ gì thế?” Ngoài vụ dộng cán chổi, đó là lần đầu tiên bà ta nói chuyện ít nhiều trực tiếp với tôi. “Tất cả đám rác rưởi khốn nạn này là cái gì?” Bà ta tiếp tục.

“Thì là đám của nợ của bà đấy!” Nói rồi tôi rón rén bỏ vào trong nhà, khe khẽ đóng cửa và ngồi im trên ghế, hi vọng bà ta không chạy lên gõ cửa nhà mình.

Hàng xóm ở tầng trên của tôi - một bà mẹ và ba đứa con - hiếm khi ở nhà. Trong vài tuần đầu tiên, tôi chỉ nghe thấy tiếng họ. Tôi đi ngủ tầm mười giờ tối và họ đi lên cầu thang cũng vào tầm ấy. Sau khoảng hai mươi phút, tất cả lại yên tĩnh như cũ.

Một buổi sáng khi mặt trời vừa lên, tôi nghe thấy tiếng họ rời nhà và liền chạy đến bên cửa sổ để xem họ trông như thế nào. Tôi tò mò về những con người cùng chung cảnh ngộ với mình.

Người mẹ cao ráo, mặc chiếc áo gió màu đỏ và tím, đi giày thể thao màu trắng. Cô bước đi tập tễnh. Hai cậu con trai và một cô con gái tầm tuổi đến trường đi ngay đằng sau. Tôi không thể biết cô đã trải qua những khó khăn đến mức nào. Tôi chỉ có một đứa con cần được chăm sóc. Sau đó thi thoảng tôi lại thấy cô. Tóc bé gái luôn gọn gàng, được tết hai bên buộc ruy băng sáng màu. Tôi tự hỏi cả ngày họ đi đâu, bằng cách nào cô có thể khiến tụi nhỏ ngoan ngoãn và vâng lời đến thế. Cô có vẻ là một bà mẹ tốt, có quyền uy - và đó là điều khiến tôi ghen tị. Con tôi mới chỉ vừa biết cách đi thẳng mà dường như luôn tìm cách chạy trốn hoặc phản kháng tôi ngay từ lúc nó tỉnh dậy.

“Sống lâu rồi cũng quen thôi”, hàng xóm của tôi, Brooke, đã nói thế khi chúng tôi gặp nhau sau một lần bên chức năng đến kiểm tra nhà đột xuất, yêu cầu chúng tôi không được phép uống rượu. Chúng tôi thường ngại ngùng đi lướt qua nhau và đó là lần đầu tiên chúng tôi trò chuyện. Tôi quen Brooke từ lâu lắm rồi, từ hồi cô còn làm bồi bàn rót bia phục vụ tôi trong quán bar. Tôi tự hỏi không biết vì sao cô lại sống ở đây. Nhưng tôi chưa từng hỏi. Tôi cũng chẳng muốn cô tò mò chuyện của tôi.

Tôi chưa từng nói chuyện với bất cứ người đàn ông nào sống ở kí túc xá bên kia khu phức hợp. Tôi thấy họ đứng trên đường vào khu kí túc, mặc quần thụng, đi dép lê và phì phèo điếu thuốc. Có một người đàn ông lớn tuổi hay có người nhà tới đón đi chơi, nhưng những người khác dường như chẳng đi đâu bao giờ. Chắc họ chỉ quanh quẩn ở đó, như tôi vậy.

Tôi nhớ những ngày còn được cà kê ở những quán bar. Tôi nhớ cái cảm giác thích uống bia thì uống. Cũng chẳng phải tôi nghiện bia rượu, mà tôi thèm cảm giác không phải lo rằng ủy ban nhà ở sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào, thèm dư vị tự do của thuở trước: Tôi muốn đi, muốn ở, muốn làm việc, muốn ăn hay không tùy thích, tôi được thoải mái nghỉ ngơi vào ngày nghỉ và thi thoảng có một ngày cho riêng mình.

Mia và tôi có một cuộc sống có vẻ bình thường, ban ngày mỗi người sẽ ở một chỗ. Tôi được hỗ trợ chăm sóc trẻ nhỏ, nhưng chỉ nửa ngày. John, chồng của bạn tôi, có một công ty làm vườn nho nhỏ, và anh trả tôi 10 đô một giờ tỉa cây, nhổ cỏ và bỏ đi những bụi đỗ quyên héo úa. Tôi đi vòng qua khắp phần đông bắc bán đảo Olympic đến một khu dân cư nho nhỏ toàn những biệt thự kín cổng cao tường, với một thùng rác lớn trong cốp xe chứa một thùng sơn trắng đựng đồ nghề và vài đôi găng tay. Tại nhà của một vài khách hàng có khu vực riêng để đổ rác và cỏ dại, nhưng nếu không có, tôi sẽ phải cho tất cả vào túi và bỏ bên vệ đường, hoặc thậm chí lôi chúng vào trong cốp xe tôi mà chở đi. Thật ra cũng chỉ vài khách hàng là đưa ra nhiều yêu cầu công việc nên John mới cần tôi giúp, vì thế tôi dành phần lớn thời gian trong ngày làm những việc tự tìm được, cật lực để kiếm từ 20 đến 25 đô mỗi giờ, nhưng vì mất thời gian đi lại nên tôi chỉ làm được hai đến ba giờ mỗi ngày.

Dọn vườn có nghĩa là phải trườn bò. Hầu hết người ta thuê tôi dọn cỏ trên cả một sườn đồi đâỳ những mảnh gỗ vụn. Tôi dành nhiều giờ dọn dẹp, tay đeo găng và mặc quần Carhartts may gia cố phần đầu gối, chất đầy vào những xô, thùng và túi rác đống cỏ dại mà người ta trả tiền cho tôi tiêu diệt bằng phương pháp hữu cơ là nhổ bỏ khỏi nền đất. Đây là một công việc hay, nhưng lại mang tính thời vụ và sẽ kết thúc chỉ trong vài tuần, còn sau đó tôi không biết mình sẽ kiếm việc gì để làm. Thị trường việc làm của Port Townsend cũng theo mùa, phụ thuộc vào những vị khách du lịch bụng lép kẹp túi đầy tiền. Không có nhiều công việc “bình thường” với giờ làm hợp cho các bà mẹ bỉm sữa, mà nếu có đi chăng nữa thì tôi lại không có nhiều kinh nghiệm. Lâu nay tôi luôn làm trong các tiệm ăn uống hoặc những việc linh tinh không thể đưa vào hồ sơ xin việc. Dù có dọn dẹp trường mẫu giáo vào mọi Chủ nhật cũng chẳng đủ cho tôi trang trải. Nhưng dù sao thời gian này tôi vẫn có việc làm, và tôi cố tập trung làm những gì tốt nhất có thể.

Tôi gửi Mia ở nhà trẻ tới trưa, và ba ngày mỗi tuần bố Mia sẽ đón con và trông đến bảy giờ tối. Có những hôm khi Mia ở cùng Jamie, tôi ngồi ngoài ban công, thẫn thờ dựa lưng vào tường. Một trong những người hàng xóm của tôi rất hay ra ngoài chơi cùng con gái, trên bãi cỏ chạy dài giữa tòa nhà này và rừng cây. Con gái cô ấy lớn hơn Mia một chút. Cả hai mẹ con đều có làn da trắng đến gần như trong suốt. Tôi nghe thấy người mẹ trẻ dịu dàng hỏi, “Con sẽ trượt xuống chứ?” khi con gái nửa bò nửa trèo lên những bậc thang của cây cầu trượt bằng nhựa màu xanh đỏ đã bạc thếch. Có lẽ những cư dân cũ đã bỏ nó lại đây. “Hoan hô!” Người mẹ reo lên khi đứa trẻ trượt xuống. Cô ấy làm mẹ tốt hơn mình, tôi nghĩ trong lúc lắng nghe cô thuật lại những chuyến đi lên trượt xuống cầu trượt, biết rằng mình sẽ không bao giờ có thể thốt ra những tiếng reo hò phấn khích như thế.

Nhưng cũng vào một buổi chiều nhá nhem như vậy, các bác sĩ và lính cứu hỏa đã đi qua cây cầu trượt nhỏ và dẹp nó sang một bên. Tất cả đi vào căn hộ của người mẹ da trắng ấy. Tôi không nghe thấy tiếng đứa trẻ. Tôi nhoài người trên lan can để xem có chuyện gì. Vài người hàng xóm của tôi cũng làm tương tự. Một anh lính cứu hỏa ngước nhìn chúng tôi, và tôi theo bản năng lùi lại một bước để giấu mình. Anh ta lắc đầu. Tôi tự hỏi những người đàn ông và phụ nữ trong khu nhà chuyển tiếp, đang nhoài người trên lan can này trông thế nào trong mắt họ. Tôi bâng khuâng tự hỏi cảnh sát và lính cứu hỏa nói gì về tòa nhà này, về chúng tôi; họ còn từng bị lôi đến nơi này vì những lí do gì khác nữa. Tôi vào trong trước khi họ đẩy người mẹ trẻ ra trên băng ca. Tôi không muốn cô ấy thấy tôi đang nhìn cô, dù mắt cô nhắm nghiền; tôi muốn cho cô ấy cái phẩm giá mà cô ấy xứng đáng được nhận. Nếu là tôi, tôi cũng muốn thế.

Một tiếng sau, khi tôi rời căn hộ đi đón Mia, Brooke bước ra ngoài, mắt trợn tròn, má ửng, trông ra dáng sẵn sàng buôn chuyện. “Chị biết có chuyện gì, phải không?” Cô vừa rảo bước về phía tôi vừa nói.

Tôi lắc đầu. Brooke kể khi người ta đưa con bé về nhà thì phát hiện ra người mẹ đã lịm đi trên ghế. Họ không gọi cô ấy dậy được. Cô ấy đã uống thuốc ngủ và nốc cả chai rượu vodka. “Nhưng họ tìm thấy cô ấy kịp thời. Cô ấy còn sống”, Brooke trấn an. Sau đó cô thở dài và nhún vai. “Đấy, thế mà bảo không được uống rượu.”

Ý nghĩ đầu tiên của tôi không phải là liệu mẹ con nhà đó có ổn không. Tôi chỉ hi vọng Jamie không nghe được chuyện này. Tôi sống trong nỗi sợ hãi rằng bất cứ chuyện gì xấu xảy ra quanh Mia, bao gồm cả ở nhà trẻ Early Head Start, đều sẽ ảnh hưởng đến quyền được làm mẹ toàn thời gian vốn đã rất mong manh của tôi.

Tôi đưa Mia vào một thế giới nghèo túng, lọt thỏm giữa những con người cố đương đầu với nó đôi khi theo những cách tuyệt vọng, những người phải đi tù hoặc cải tạo lâu đến mức mất cả nhà cửa, một số luôn bực dọc vì không bao giờ được nghỉ ngơi, những người có triệu chứng của bệnh tâm thần. Một người mẹ đã quyết định hoàn toàn buông tay. Trong một khoảnh khắc, tôi còn thấy ghen tị với người mẹ trẻ ấy, vì lựa chọn đó quá hấp dẫn.