← Quay lại trang sách

Giới thiệu

Khi được hỏi (thật ra tôi thường xuyên nhận được câu hỏi này) rằng tôi đánh giá cuốn nào là tác phẩm kinh dị nhất mà tôi từng chấp bút, tôi có thể đáp ngay lập tức, không chút chần chừ: Nghĩa địa thú cưng . Có thể đây không phải cuốn sách khiến độc giả sợ xanh mặt nhất – dựa trên những lá thư tôi nhận được, cuốn The Shining mới là ứng cử viên – nhưng giống như máu buồn, máu sợ của chúng ta mỗi người mỗi khác. Tôi chỉ biết Nghĩa địa thú cưng là tác phẩm tôi cất vào ngăn kéo, lòng thầm nhủ lần này mình đã quá trớn rồi. Thời gian lại nhắn nhủ rằng tôi chưa đi quá xa đâu, chí ít nếu xét tới những gì công chúng sẵn sàng đón nhận, nhưng chắc chắn tôi đã đi quá xa xét về mặt cảm xúc của cá nhân tôi. Đơn giản mà nói, tôi thực sự khiếp sợ những lời văn tôi đã viết, và những kết luận tôi đã rút ra. Trước đây, tôi từng kể cuốn sách này ra đời như thế nào, nhưng tôi đoán tôi có thể kể thêm một lần: lần cuối cùng cũng là lần toàn vẹn nhất.

Cuối thập niên 1970, tôi được mời về ngôi trường ngày xưa mình theo học – Đại học Maine – với tư cách nhà văn để chia sẻ góc nhìn nghề nghiệp cũng như đứng một lớp Văn học viễn tưởng trong một năm (những bài giảng của tôi cho khóa này hình thành xương sống cho tác phẩm Danse Macabre được xuất bản sau đó một, hai năm). Vợ chồng tôi thuê nhà ở Orrington, cách trường gần 20 ki-lô-mét. Căn nhà rất đỗi xinh xắn tọa lạc trong thị trấn tuyệt vời còn nguyên vẹn nét ban sơ của Maine. Vấn đề duy nhất là con đường nhà tôi. Đường lúc nào cũng tấp nập xe cộ qua lại, trong đó có những chiếc xe bồn hạng nặng từ nhà máy hóa chất cách đó không xa.

Julio DeSanctis, chủ cửa hàng bên kia đường, dặn vợ chồng tôi nhớ canh chừng bọn trẻ nhà tôi và đám thú cưng của chúng. “Con đường ấy ngốn nhiều động vật lắm rồi,” Julio nói, và câu nói của ông xuất hiện trong câu chuyện này đây. Minh chứng cho lượng động vật bị con đường này ngốn nằm trong khu rừng đằng sau căn nhà chúng tôi thuê. Con đường băng qua một khoảng đất dẫn tới nghĩa địa dành cho thú cưng nho nhỏ trong rừng… chỉ có một tấm biển gắn trên cây nằm bên ngoài khu nghĩa trang tạm bợ con con đề PET SEMATARY – NGHĨA ĐỊA THÚ CƯNG. Cụm từ này không chỉ xuất hiện trong tác phẩm mà trở thành tựa đề của cuốn sách. Ở đó chôn cất chó, mèo, vài con chim, thậm chí cả một con dê.

Ngày ấy, cô con gái tám tuổi của tôi nuôi chú mèo mang tên Smucky, và chúng tôi chuyển vào căn nhà ở Orrington chưa được bao lâu thì tôi phát hiện Smucky chết trên bãi cỏ của căn nhà bên kia đường. Thế đấy, con vật mới nhất mà Tuyến số 5 ngốn ngấu là chú mèo mà con gái tôi hết mực thương yêu. Chúng tôi chôn Smucky trong khu nghĩa địa dành cho thú cưng Pet Sematary ấy. Con tôi còn làm bia mộ đề SMUCKY: BÉ MÈO RẤT NGOAN. (Smucky mà ngoan ngoãn thì chắc mặt trời mọc đằng Tây; tất nhiên rồi, nó là mèo mà.)

Mọi chuyện vẫn êm thấm cho đến một đêm nọ, bỗng dưng tôi nghe thấy tiếng nện thình thịch từ dưới nhà xe kèm theo tiếng khóc và tiếng nổ lóc bóc như pháo hoa nhỏ. Tôi ra ngoài kiểm tra thì phát hiện con gái tôi đang tức giận và mỹ lệ trong đau thương. Hóa ra con bé tìm được vài tấm màng xốp bong bóng mà người ta hay dùng để bọc vật phẩm dễ vỡ trong quá trình vận chuyển. Vừa hậm hực nhảy thình thịch trên tấm màng khiến bong bóng lóc bóc nổ, con bé vừa hét ầm lên: “Bé mèo của con ! Chúa tự kiếm cho mình một con mèo đi! Smucky là mèo của con kia mà!” Tôi trộm nghĩ cơn phẫn nộ ấy là phản ứng đầu tiên, ôn hòa nhất mà một con người biết tư duy, có cảm xúc có thể có, và tôi luôn thương yêu con bé vì tiếng thét đầy ngang ngạnh ấy: Chúa tự kiếm cho mình một con mèo đi! Đúng lắm, tuyệt vời; đúng lắm.

Con trai út của tôi lúc ấy chưa tròn hai tuổi, mới chập chững biết đi nhưng chưa gì đã tìm cách chạy. Một ngày nọ, sau khi Smucky qua đời không lâu, gia đình tôi vui đùa thả diều trong khoảng sân gần đó thì bất thình lình, cậu út nhà tôi chạy về phía con đường. Tôi vội vàng chạy theo, và tôi dám chắc mình đã nghe thấy tiếng một chiếc xe bồn Cianbro trờ tới (trong cuốn tiểu thuyết này là Orinco). Có thể tôi đã chộp được thằng bé và kéo nó lại hoặc nó tự vấp ngã; giờ tôi không dám chắc nữa rồi. Khi ta sợ đến cùng cực, ký ức của ta thường trở nên trắng xóa. Tôi chỉ biết một điều: con tôi vẫn bình an, không chút sứt mẻ, nghịch ngợm đúng kiểu con trai. Nhưng một phần trong tôi không bao giờ thoát khỏi lời tự vấn đáng sợ nếu như : Nếu lúc đó tôi không chộp được con thì sao? Hoặc nếu con tôi ngã ngay giữa đường chứ không phải bên vệ đường thì sao?

Tôi nghĩ bạn có thể hiểu lý do tại sao tôi lại thấy cuốn sách này nặng nề đến vậy, bởi nó khởi sinh từ những tai nạn như thế. Tôi chỉ chọn lựa những yếu tố có sẵn và thêm thắt cái câu nếu như khủng khiếp kia vào mà thôi. Hay nói cách khác, bất giác tôi không chỉ nghĩ những điều không nên nghĩ mà còn viết chúng thành lời văn.

Ở căn nhà Orrington không có phòng viết nhưng cửa tiệm của Julio dư một phòng trống, đó là nơi tôi chấp bút Nghĩa địa thú cưng . Ngày qua ngày, tôi cặm cụi sáng tác, bản thân tôi biết mình đang viết một câu chuyện “hấp dẫn”, chiếm trọn sự chú ý của tôi và sẽ khiến độc giả như bị cuốn theo tình tiết, nhưng khi ta làm việc ngày qua ngày, ta không thấy cả cánh rừng mà chỉ đang đếm lẻ tẻ những ngọn cây. Lúc viết xong, tôi để yên cuốn sách trong sáu tuần, ấy là cách tôi làm việc, sau đó đọc lại từ đầu chí cuối. Tôi nhận ra tác phẩm đáng giật mình và ghê gớm đến độ tôi nhét nó vào ngăn kéo, thầm nhủ có khi nó sẽ chẳng bao giờ được xuất bản. Chí ít là trong lúc tôi còn sống.

Song dòng đời đưa đẩy khiến cuốn sách được phát hành. Số là tôi vừa chấm dứt làm việc với Doubleday, đơn vị xuất bản những tác phẩm đầu của tôi, nhưng tôi còn nợ họ một cuốn tiểu thuyết cuối để chốt sổ hoàn toàn. Tôi chỉ có sẵn một tác phẩm chưa đụng tới, và đó chính là Nghĩa địa thú cưng . Tôi bèn đem chuyện này trao đổi với vợ, bởi vợ tôi chính là quân sư tuyệt vời nhất những lúc tôi không biết nên hành động ra sao, cô ấy khuyên tôi nên mạnh dạn xuất bản cuốn sách. Vợ tôi đánh giá cuốn sách rất hay. Khủng khiếp, nhưng không đọc thì rất phí.

Bill Thompson, biên tập viên trước đây phụ trách tôi ở Doubleday, lúc đó đã chuyển công tác (sang Everest House, sự thật là thế; Bill là người đã gợi ý cho tôi, sau đó biên tập và xuất bản tác phẩm Danse Macabre ), nên tôi gửi cuốn sách đến Sam Vaughn, một trong những biên tập viên kỳ cựu ngày ấy. Sam là người đã đưa ra quyết định cuối cùng – ông muốn xuất bản cuốn sách. Ông đích thân biên tập, vô cùng chăm chút cho đoạn kết của cuốn sách, và nhờ tay ông nhào nặn, cuốn sách hay lại càng thú vị hơn bội phần. Tôi luôn vô cùng biết ơn những phần duyệt rất truyền cảm hứng của ông, và chưa lần nào tôi lấn cấn vì mình đã thực hiện cuốn sách ấy, dù theo nhiều cách, tôi vẫn thấy nó nặng nề và rắc rối.

Tôi đặc biệt thấy rợn người với câu nói vang vọng khắp cuốn sách này của Jud, ông cụ hàng xóm của Louis Creed. Ông bảo “Louis à, thỉnh thoảng, chết có khi lại tốt hơn.” Tận đáy lòng, tôi hy vọng điều đó không đúng, vậy mà trong bối cảnh tựa cơn ác mộng của Nghĩa địa thú cưng , nó lại đúng đến tê tái. Và có thể như vậy cũng không sao. Có lẽ “thỉnh thoảng, chết có khi lại tốt hơn” là bài học cuối cùng mà đau thương dạy ta, bài học ta ngộ ra khi đã mệt nhoài sau một hồi nhảy đành đạch trên miếng xốp nhựa và gào khóc bảo Chúa hãy tự kiếm cho mình con mèo (hoặc con cái) và đừng động vào ta. Bài học ấy nhắn nhủ rằng cuối cùng, ta chỉ có thể tìm thấy bình yên trong kiếp người bằng cách chấp nhận ý chí của vũ trụ. Nghe có vẻ ủy mị, sáo rỗng, nhưng nếu nghĩ khác đi, ta sẽ phải đối mặt với bóng tối quá đỗi khôn cùng, mà những kẻ người trần mắt thịt như chúng ta không tài nào kham nổi.

Ngày 20 tháng 9 năm 2000 Stephen King