← Quay lại trang sách

Chương 1

Có lẽ trời đã gần sáng. Tôi bỗng nhiên thức giấc. Từ nhà ngoài, qua cửa sổ và tấm màn buông rủ, thoảng vào một mùi hương thơm lạ lùng, tôi bật ngọn đèn ngủ đầu giường. Căn phòng bừng lên một thứ ánh sáng xanh mát dịu dàng. Những bức tranh treo trên tường như cũng thức dậy làm cho căn phòng có vẻ chật chội hơn và cũng ấm áp hơn. Bên cạnh tôi, bé Liên vẫn ngủ say. Bé nằm nghiêng, mái tóc tơ mềm xõa trên gối, một tay bé vòng ôm ngang người tôi. Cạnh bàn làm việc, trên ghế tựa là cái ba lô to sụ để cạnh cái túi nhỏ thò ra những hộp gỗ, bảng gỗ, bút lông và cái ca sắt, cái bi đông… lúc này như nói với tôi điều gì. Tôi khẽ gỡ tay Liên ra, kéo con nằm thẳng lại rồi ngồi lên.

— Vọng ơi! – Tiếng mẹ gọi ở nhà ngoài.

— Dạ! – Tôi thưa khẽ.

— Con dậy làm gì sớm thế? Ngủ thêm lúc nữa không đi xa, mệt lắm. – Tiếng mẹ lẫn trong tiếng dép lê nhè nhẹ.

Tôi nhìn đồng hồ báo thức. Đã bốn giờ rồi! Chỉ còn hai tiếng nữa là trời sáng và cũng chỉ còn độ hai tiếng nữa là tôi lên đường.

— Mẹ già rồi ngủ ít, con cứ ngủ thêm đi, mẹ thắp nén hương cho thơm nhà – Mẹ nói và lại đánh diêm. Tôi biết mẹ thắp hương lên bàn thờ tổ tiên và thắp hương cho bố. Bao giờ cũng thế, trong nhà cứ có đứa con nào đi xa là mẹ lại thắp hương lên bàn thờ và khấn lầm rầm.

— Đêm qua con khó ngủ quá! Không hiểu sao mà mắt cứ cứng đơ ra mẹ ạ! Tôi nói và ra khỏi giường.

— Không phải nghĩ ngợi lo lắng gì, mọi sự đâu sẽ vào đấy cả thôi. Con đi ít lâu rồi con lại về. Cháu ở nhà với bà. Con của cái Ân chưa đầy một tuổi nó đã để cho mẹ chồng nuôi đi học hàng năm trời nữa là cái Liên hơn bốn tuổi rồi còn gì?

— Con có lo gì về cháu đâu, cháu ở nhà có bà trông nom con yên tâm lắm nhưng trước mỗi chuyến đi xa con cứ nghĩ ngợi nhiều.

— Đi như tôi, ngồi như buộc, con đi độ bao lâu?

— Con chưa biết, mẹ ạ! Có thể lâu, có thể chóng, nếu như gặp được thuận lợi thì cũng nhanh thôi.

— Cứ làm xong việc hẵng về! Cái Liên ở nhà với bà chỉ có béo ra chứ không gầy đi đâu. Cốt làm sao cho thằng Trung quốc không đánh đến đây là được rồi – Mẹ nói và lấy gạo thổi cơm.

— Thằng Tàu thì làm sao mà đến được đây? Bà ở nhà đừng cho cháu ăn mía hại răng, bà nhé! Tối đi ngủ nhớ bắt cháu nó ngậm nước muối, bà thì nhớ uống thuốc Pô – ly nhé, con thấy bà cứ quên luôn.

— Tao nhớ rồi! Con lên đây có gặp bố cái Liên không?

— Con cũng chưa biết đơn vị anh ấy có còn ở chỗ cũ hay không. Con có mua quà cho anh ấy đây nhưng có khi khó gặp, mẹ ạ.

— Con mang lủng củng quá nhỉ, lại không quen đi núi…

Mẹ nhắc cái túi, cái ba lô lên xem rồi lại đặt xuống.

— Cái nghề của con nó thế, đi đâu là cứ lỉnh cà lỉnh kỉnh. Cái bi đông này vừa để lấy nước uống vừa lấy nước vẽ…

Tôi nói và để thêm vào trong túi cái bảng nhỏ với mấy cái kẹp giấy. Biết nói thế nào để mẹ hiểu về công việc của tôi và những con tem mà tôi định vẽ. Bao nhiêu con tem ra đời trong ngôi nhà nhỏ này rồi nhưng công việc bao giờ như cũng mới. Có những ngày tôi lang thang trên các đường phố Hà nội, ngước nhìn lên các gác cao những ngôi nhà có phong lan. Không biết bao nhiêu nhà có phong lan và tôi đã vẽ bao nhiêu phác thảo để có một bộ tem về phong lan. Rồi bộ tem về quả. Mỗi lần tôi ngồi vẽ, mẹ thường đứng xem và có nhiều ý kiến.

— Con vẽ những quả chuối này trông hình thì giống như màu của nó không đẹp, không phải màu của quả chuối ngoa, màu chuối dấm chứ không phải màu chuối chín cây.

Tôi chịu những ý kiến của mẹ. Tôi sửa chữa và những bức tranh hoặc những con tem đẹp hơn. Trong thời gian này tôi định dành toàn bộ đợt đi thực tế để lên biên giới và sẽ làm một bộ tem vẽ biên giới những ngày chống giặc, về những người chiến sĩ. Hôm nghe tôi nói, mẹ hỏi “Thế con vẽ tem ngay ở trên ấy hay về nhà mới vẽ?” – “Về nhà, mẹ ạ! Con đi chỉ phác thảo thôi, ở đấy không có điều kiện.” “Ừ, cứ vẽ phác ra đấy rồi về nhà hãy làm tem…”

Lúc này mẹ đã ngồi bên bếp lửa và mùi cơm gạo mới thơm lừng. Nét mặt mẹ có vẻ nghĩ ngợi. Có lẽ mẹ đang nghĩ đến những con tem của tôi. Xinh xinh nhỏ bé, tôi có một tập nhỏ mẹ cất vào trong tủ, những con tem của tôi để riêng, những con tem của người khác để riêng. Từ ngày bé Liên lên hai, bập bẹ biết nói và thích xem tranh thỉnh thoảng mẹ lại lấy tập tem ra cho bé xem. Mẹ biết cách xem tem mà tôi bầy cho mẹ. Bàn tay già nhăn nheo run run cầm cái panh nhỏ gắp từng con tem và giới thiệu tỉ mỉ từng cái một làm con bé con thích thú cười tít mắt.

Bức tranh tôi vẽ mẹ bằng sơn dầu treo ngay trên bức tường ở giữa nhà. Thỉnh thoảng, tôi biết mẹ lại nhìn lên bức tranh ấy và cười một mình. Có một lần, mẹ nói:

— Bây giờ mẹ mới hiểu con cần hộp màu mười sáu ô để làm gì. Chứ ngày ấy tuy biết là con thích nhưng mẹ vẫn chả hiểu để làm gì…

Hộp màu mười sáu ô, có khi bây giờ ngồi bên bếp lửa mẹ lại nhớ cả đến chuyện ấy cũng nên! Nhà đun dầu hỏa nhưng mẹ vẫn thích đun củi, nhất là trong những ngày mùa đông. Trong nhà có bếp lửa đỏ và những cục than hồng thật là ấm cúng. Tôi chạy ra ngoài sân, tập thể dục rồi đến ngồi bên bờ giếng. Cái giếng thơi nhỏ bé thành xây cao, nước không nhiều nhưng trong suốt là một vật kỷ niệm của gia đình được giữ lại mặc dù nhà đã có máy nước. Cái giếng hàng ngày soi bóng cuộc sống chúng tôi. Mặt nước xóa đi mọi dấu vết nhưng không hiểu sao cứ mỗi khi nhìn thấy bóng mây in dưới đáy giếng tôi lại nhớ đến bao nhiêu điều. Riêng mẹ, mẹ vẫn thích dùng nước giếng và hình như tiếng gầu va vào trong thành giếng làm cho mẹ vui vui. Mẹ nói:

— Chả bù với ngày trước cả ngõ cũng chỉ có một cái giếng…

Tôi nhìn xuống giếng. Hơi nước mặt lạnh làm đầu óc tôi như tỉnh táo hơn lên. Trời đã dâng lên một chút mây màu ghi sáng phía chân trời.

— Con nhớ mang đủ áo ấm, tháng giêng rét dai. Tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân… Biên giới núi cao, gió lạnh hơn ở phố nhiều. – Mẹ dặn đó – Lúc nữa đi, con đừng đánh thức cái Liên dậy nhé, nó theo khóc tao không dỗ được. Cứ để nó ngủ mà đi, khi nào nó dậy, không thấy, bảo mẹ đi làm như mọi ngày là yên thôi mà. Tối nay, mẹ bảo mấy đứa con thằng Hy đến đây ngủ chơi với em.

— Mẹ bảo chị Hy với các cháu đến đây ở cho vui. – Tôi nói.

— Nó ở trên phố tiện đi làm, kệ nó. Thằng Hy đi vắng nó cũng muốn ở riêng cho tự do. Con đâu khác con gái ở chỗ đó, con à!

— Sang năm anh Hy con về nước thì nhà ta lại đông vui…

— Ừ, đứa đi, đứa về. Cái Ân đi Tiệp vừa về thì thằng Hy đi Liên Xô, bây giờ con lại đi biên giới. Các con như là chim, nhà này là cái tổ, hay đi đâu rồi cũng bay về. Cuộc sống bây giờ là như thế. Ôi, nếu bố con sống được đến ngày nay thì bố con sẽ vui biết bao. Hồi trước, ông ấy quý nhất cái Ân rồi đến con. Còn chị Hạnh thì bố mày thương vì nó khổ nhiều. Con đầu cháu sớm mà!

— Khổ trước, sướng sau! Trong mấy anh chị em chúng con, chị Hạnh là người hạnh phúc nhất.

— Ờ, cũng có nhẽ. Nó được thằng chồng khá. Thật ít người được như anh ta, thương yêu vợ và biết hy sinh cho vợ. Chị Hạnh mày được như bây giờ là nhờ chồng nó. À, mà con lo gì mẹ ở nhà vắng vẻ, trưa nay chị Hạnh bảo đến đón hai bà cháu lên chơi mà. Chị không nói với con à?

— Chị có nói mà con quên mất.

— Hôm nay ngày sinh nhật thằng con đầu lòng của chị. Chao ôi, sinh nhật mà cũng ăn uống, chả bù với ngày xưa. Ờ, mà cũng phải, thằng bé học giỏi quá, mới mười bảy tuổi đã học đại học. Ăn mừng cũng đáng!

Mẹ vừa nói chuyện vừa lấy que cời những hòn than ném vào trong chậu nước lạnh. Nhà tôi, ai cũng thích ăn chả nướng nên mẹ thường nhặt than mỗi bữa đun.

Tôi đã chuẩn bị xong xuôi và khi đeo ba lô lên vai, đội mũ lên đầu, thì tôi thoáng nghe tiếng Liên hỏi bà trong giường:

— Bà ơi, mẹ cháu đâu, hả bà?

Tôi nhớ lời mẹ dặn và sợ Liên khóc theo nhưng tôi không thể không gặp con trước khi đi xa được! Tôi chạy vào buồng, tung màn, bế con lên tay. Người Liên nóng rực giống như nó vừa ngồi bên bếp lửa. Hai má đỏ hồng và mắt đen lóng lánh. Con không khóc như tôi và mẹ nghĩ. Ngược lại, nó cười giơ tay giằng cái mũ trên đầu tôi, đội lên đầu.

— Bao giờ mẹ về, mẹ mua cho con một cái, mẹ một cái, bố một cái…

— Ừ, bao giờ mẹ về mẹ mua cho con một cái mũ nữa. – Tôi hứa cho xuôi.

— Mua cho bà một cái mũ nữa. – Nó nói tiếp.

— Ừ, mua cho bà một cái mũ nữa… - Tôi đáp và nhìn thấy nụ cười trên khuôn mặt nhăn nheo của mẹ đang rạng ra. Bà giơ tay đỡ cháu – Ra với bà để mẹ đi nhanh không có ôtô nó đợi nó bóp còi rồi kìa!

— Đâu, ô tô đâu? – Liên ngơ ngác nhìn ra ngoài cửa. Tôi đưa con cho mẹ và cùng lúc ấy tôi nghe tiếng còi ôtô từ ngoài xa vọng tới. Tôi vòng tay ôm con và ôm luôn cả mẹ một cái thật chặt rồi quay đi. Khác hẳn với ý nghĩ của tôi, bé Liên không khóc theo mà lại cười, một tay con ôm vai bà, một tay giơ lên vẫy tôi. Chân tôi bước đi nhưng mắt vẫn quay nhìn lại. Xa rồi vẫn còn thấy bàn tay bé xíu của bé Liên giơ lên vẫy, trông giống như một cái lá bàng non.

Tháng ba, mùa xuân. Trong trời lạnh, cây bàng ngõ tôi trơ ra những cành gầy khẳng khiu. Những lá bàng già đỏ bầm đã rụng hết, trên các cành đã loáng thoáng chồi con.

Bàn tay nhỏ bé của Liên lẫn vào những chồi lá.

Nhưng rồi hình ảnh ấy biến ngay đi khi chiếc xe chở thuốc mà tôi đi nhờ nối vào dòng xe chạy gấp, bụi tung mù đường xa.

Gặp lại không khí xôi nổi của những năm đánh Mỹ. Những chiếc xe ca, xe tải chở thanh niên, bộ đội lên biên giới đi không lúc nào ngớt. Mũ tai bèo, áo màu cỏ úa xen với những bộ quần áo dân thường đủ các màu sắc của nam nữ thanh niên các thành phố lên chi viện cho biên giới.

Những băng vải đỏ gài quanh xe nối lên dòng chờ: Kiên quyết trừng trị bọn Trung quốc xâm lược bành trướng Bắc Kinh” Những gương mặt trẻ trung tươi cười bên những nòng súng và cuốc sẻng.

Thỉnh thoảng lại gặp một đoàn xe chở bộ đội từ biên giới về thay quân. Những anh bộ đội trẻ mặt sạm nắng những bàn tay giơ lên chào vẫy nhau.

— Đi nhớ! Chiến thắng nhớ!

Tiếng nói cười lần mất trong tiếng xích xe tăng rung chuyển, mắt xích bấm xuống mặt đường, mưa phùn mùa xuân ấm mềm và nát bươm vết xe. Xe đi vào những thung lũng thăm thẳm. Trải dài trên đường là những ngôi nhà lưu động do xe trâu bò kéo. Trên xe chồng chất đồ đạc có mui che bằng ni lông hoặc lá cọ gỡ ra từ những mái nhà. Theo sau xe là những người đàn bà, những đứa trẻ gồng gánh hoặc đeo vác đồ đạc, mệt mỏi, chậm chạp trên đường về.

— Các anh bộ đội ơi, bao giờ bà con chúng tôi được về thị xã, các anh ơi! – Họ kêu lên và giơ tay vẫy những đoàn xe lên biên giới.

— Chúng nó đã cút rồi những vẫn còn bắn pháo nhiều lắm, bà con chịu khó chờ ít ngày nữa anh em chúng tôi đuổi hết chúng đi rồi hẵng về nhé!

Dưới cây lá ngụy trang những đơn vị bộ đội sẵn sàng trực chiến bên mâm pháo. Những ụ đất và giao thông hào dàn trải ra hai bên đường.

— Chị xuống đâu? – Anh lái xe hỏi và cho xe đi chậm lại rồi dừng trước một trạm gác mà cây chắn đường vừa hạ xuống, nét mặt anh hiện lên vẻ băn khoăn.

— Cho tôi đến chỗ trực chiến của ban chỉ huy. – Tôi nói vì biết phải từ nơi ấy tôi mới gặp được những người cần gặp. Nhưng một người trong trạm gác đi tới và nói:

— Chúng đang bắn pháo dữ dội vào thị xã và dọc đường từ thị xa ra đến đây, đi vào giờ này không an toàn, chị ạ!

Rồi anh vắn tắt nói cho tôi nghe tình hình địch trong mấy hôm nay. Chúng chỉ rút quân ở những điểm không quan trọng và vẫn chốt lại ở những điểm chính. Trước khi rút quân chúng gài mìn phá hoại những cơ sở kinh tế, dùng súng phun lửa đốt nhà, vơ vét của cải… Chúng đặt đài quan sát trên những điểm cao để phát hiện hoạt động của ta rồi gọi pháo bắn tới. Mỗi ngày chúng bắn hàng nghìn quả pháo vào thị xã và dọc đường vào thị xã.

— Ta cứ đi thôi – Tôi nói và trong lòng còn lên một nỗi xót xa thương tiếc thành phố xinh đẹp đã bị tàn phá. Chồng tôi và đơn vị của anh ấy đang trên đường truy kích địch. Bước chân tôi không thể theo anh ấy được. Vả lại, còn công việc nữa, dù sao tôi cũng không thể vẽ được khi ở giáp quân thù. Và như thế là, dù tôi đã lên đến đây nhưng hai chúng tôi vẫn không thể gặp nhau.

— Chị không nên đi vào giờ này, cố chờ đến sáng mai, sương mù che mắt chúng nó, ta sẽ đi – Đồng chí gác trạm nói và xem giấy công tác của tôi. Nét mặt anh vui vui:

— Thế này thì hay quá! Theo tôi, chị có thể dừng lại ở đây một thời gian cũng được. Ở đây có nhiều chuyện hay, nhiều người dũng cảm rất xứng đáng để chị vẽ.

Có tiếng xì xầm trong tốp lính trẻ và tiếng nói cất lên:

— Chị ơi! Mời chị xuống đây ở với chúng em ít lâu. Thủ trưởng của chúng em hay lắm, chị ạ! Ở đây phong cảnh cũng rất đẹp tha hồ mà vẽ!

— Chị quê ở đâu, chị ơi, để chúng em nhận đồng hương nào?

Phút chốc, tôi thấy mình như bị bao vây giữa những gương mặt và nụ cười xanh màu quần áo lính. Những giọng nói cởi mở, thân tình:

— Thủ trưởng của chúng em cũng quê ở Hà nội đấy! Như vậy chị là đồng hương với thủ trưởng của chúng em rồi. Nhưng mà bây giờ anh ấy không có ở đây đâu. Còn chúng em thôi thì thập phương, tứ xứ! Người Hà nội, người Nam hà, Thái bình, Hà bắc, Hà tây… Chúng em đang học thì nhập ngũ. Tập trung lại nhìn nhau lớ ngớ, có cậu vào bộ đội tháng trước, tháng sau lên đường sử dụng súng AK mới học đến bài hai, có anh tập trung rồi huấn luyện ba bốn ngày là ra trận. Hôm chuẩn bị chiến đấu nhìn nhau lo quá “Lính gì mặt non choẹt thế này, khéo thua mất”. Nhưng được cái chúng em thương nhau, đoàn kết nhất trí, quyết tâm đánh giặc, trưởng thành nhanh chóng cho nên không thua mà lại thắng, chị ạ!

Một anh lính trẻ mặt lấm tấm tàn nhang tưởng như ta có thể gặp đâu trong những trường cấp hai, cấp ba, ném hột nhót vừa ăn xuống đất, mặt hơi nhăn lại vì chua, nói rồi cất tiếng cười ròn.

Một anh khá mập tròn, da bánh mật, dáng đồng quê từ đâu đi tới với một ôm mía trên tay, anh ta đưa mía cho tôi rồi hỏi:

— Chị là cán bộ y tế hay văn hóa?

— Chị ấy là họa sĩ ngành bưu chính. Chị ấy lên đây để vẽ tem về bộ đội ta chiến đấu. Chị ấy sẽ ở lại đây, các cậu tiếp chị ấy nhé – Người xem giấy của tôi nói.

— Thế thì vinh dự cho chúng em nhất rồi! Chị cứ ở lại đây xem chúng em đánh giặc rồi vẽ chúng em vào tem. Chúng em lấy những cái tem đó dán vào thư gửi về nhà, chắc là ở nhà bu cháu thích lắm đấy! – Một anh lính ngồi trên trạc cây vừa ăn mía vừa nói.

Tiếng cười ran lên đến nỗi anh nuôi đang nấu cơm trong bếp cũng phải chạy ra chào tôi bằng khuôn mặt đỏ rực, tươi cười.

Thấy tôi lấy giấy bút ra chuẩn bị vẽ, mấy anh lính trẻ đang cười nói vui vẻ vội lẩn tránh, người nọ đùn đẩy người kia, cậu nào không tiện tránh thì mặt mũi ngượng ngập bẽn lẽn như con gái. Tôi chỉ kịp ghi nhanh một khung cảnh với vài dáng người thì trời đã tối sầm. Tiếng kẻng báo cơm đã vang lên. Anh em bộ đội ở các lán, các hầm hào công sự trở về quây quần cạnh những mâm cơm dọn ra trên sạp nứa.

Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy hai thanh niên, một mặc quần xanh áo vàng, đi giày da đen, người đi sau mặc quần vàng, áo trắng, đi dép nhựa xanh phụ nữ. Nhìn thấy tôi, cả hai người đều như ngượng ngịu vì một điều gì mà tôi chưa biết được.

— Đơn vị tôi đang ở Hà nội, lúc được lệnh lên đường chúng tôi đang ở sân bóng chuyền, chỉ một giờ sau là tất cả lên đường và triển khai đánh địch. Trong một trận chiến đấu, bộ đội mình hết đạn phải chạy vào động Tam thanh. Giặc bao vây ở bên ngoài, dùng súng phun lửa bắn vào động và đặt hai khẩu đại liên chéo cánh xe ở ngoài bắn vào tiêu diệt anh em ta. Chúng tôi được giao nhiệm vụ dùng súng phá vây, mở đường máu cứu anh em trong động ra. Cứu thương ra đến ngoài quân áo chúng tôi bị rách hết, lại phải bơi qua sông nên về đến đây ai cho gì mặc nấy. – Anh đi giày da đen nói và nhìn chân mình như để giải thích cho tôi hiểu vì sao hai người lại ăn vận như thế.

Có tiếng pháo nổ gần đường quốc lộ. Những nét mặt tự nhiên sững sờ:

— Nó bắn vào cây số 7 đấy! Từ trên cao điểm 800 nó gọi pháo để bắn ra đấy! Tệ hại thật! Ta mất cao điểm ấy vì sự lừa bịp bì ổi của bọn Trung quốc. Nếu như không bằng những thủ đoạn lừa lọc thì không bao giờ một mảnh đất của chúng ta lọt vào trong tay chúng. Đó lại là một cao điểm lợi hại nhất trong những cao điểm. Hôm ấy, chúng cho lính ăn mặc giống bộ đội ta từ từ tiến lên đồi. Mình không bắn. Còn cách mười mét, anh em mới giật mình hỏi: “Mình hay địch đấy?” Nó đáp: “Mình đấy!” Rồi ào ào tiến lên, bắn pháo dữ dội. Thế là ta mất cao điểm ấy!

— Đại đội trưởng của chúng tôi, anh ấy thật là một người đặc biệt! Trong trận đầu tiên ngày 17 tháng hai, bị đánh bất ngờ anh em chiến đấu chệch choạc, quân sĩ tan tác, số thương vong, số hoang mang muốn rút lui bỏ chốt vào tay địch. Nhưng anh ấy không chịu, một mình cầm cự đến cùng. Lúc đầu còn quân, anh là chỉ huy sau còn lại một mình, anh là chiến sĩ. Một quả lựu đạn, một khẩu súng, anh đuổi theo xe tăng địch, phá hủy một tăng, giết bốn tên…

— Chị có thể tưởng tượng được cảnh anh ấy nằm dưới lòng đường giả chết chờ xe tăng đi qua, bám xích tăng leo lên, cậy nắp xe ném lựu đạn vào. Tên Trung quốc ngồi trong xe hoảng sợ nhặt lựu đạn ném ra, anh lại nhặt ném vào. Hai bàn tay giằng nhau một quả lựu đạn và cuối cùng anh đã thắng! Diệt xong cái tăng, tiếp viện đến, thế là giữ được đất, anh về tuyến sau lấy quân và lại tiếp tục chiến đấu. Dòng dã gần mười ngày đêm anh ấy không ngủ mà vẫn tỉnh táo như thường còn chúng tôi thì cứ sau mỗi trận đánh lại lăn ra ngủ li bì đến nỗi khi có việc anh ấy lại phải đi đánh thức từng đứa dậy, có đứa ngủ say bị anh ấy đét cho mấy cái đau điếng.

— Tôi đã được nghe nói nhiều về thành tích của đơn vị ta chiến đấu dũng cảm, lập nhiều thành tích và đã được thưởng nhiều huân chương ngay trong trận chiến đấu đầu tiên… - Tôi nói.

— Công của đại đội trưởng chúng tôi là chính, anh em ai cũng nghĩ như thế. Không có anh ấy chúng tôi không thể làm được như vậy. Tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí và cương quyết của anh ấy đã nâng đỡ, dìu dắt chúng tôi. Một người rất đặc biệt, chị nên gặp anh ấy.

— Nhất định là tôi phải gặp đại đội trưởng rồi, nhưng hiện giờ anh ấy đâu?

— Anh ấy bị thương trong một trận đánh giáp lá cà. Vết thương khá nặng. Trạm phẫu thuật mặt trận, chị biết đấy, sơ sài thiếu thốn đủ thứ. Bàn mổ ghép lại bằng tre nứa, dịch truyền không đủ phải dùng nước muối, thuốc mê thiếu, lại phải cứu chữa gần ngay nơi chiến đấu, đất đá văng cả vào bàn mổ. Vết thương nặng phải mổ mất mấy tiếng đồng hồ nhưng anh ấy có một nghị lực chịu đựng rất dũng cảm, không hề rên la. Ở đơn vị có cậu Sáu người bé nhỏ, tính tình lơ đãng hay bị thủ trưởng nhắc nhở nhiều nhưng lại là người quý thủ trưởng nhất. Từ lúc anh ấy bị thương phải mổ. Sáu nhỏ không rời bên và cứ nước mắt ròng ròng.

— Anh ấy mà làm sao thì chúng em không thể sống nổi, các bác sĩ cố gắng cứu anh ấy. Nhóm máu của em và nhiều người trong đơn vị cùng với anh ấy, chúng em muốn tiếp máu cho anh ấy. – Sáu nhỏ năn nỉ và cứ ở lỳ đó cho đến khi ca mổ kết thúc. Rồi Sáu nhỏ lại theo cáng về hậu phẫu để trông nom săn sóc anh ấy.

— Bây giờ anh ấy vẫn còn điều trị à? Thế thì tôi sẽ đến chỗ nhà hậu phẫu. Ở đây cũng có nhà hậu phẫu sao?

— Gọi thế cho sang trọng chứ thực ra đấy chỉ là một ngôi nhà của ông cụ người dân tộc nhường cho anh em thương binh ở để phục hồi sức khỏe sau khi mổ. Có lẽ anh ấy còn ở đó… - Một người nói.

— Tin cũ rồi, thủ trưởng của chúng ta có việc gấp đã vào trong thị xã! – Một anh lính nhỏ nhắn từ phía sau đi tới, nói to làm mọi người giật mình.

— Anh ấy đã khỏe rồi sao? Mới mổ có mấy ngày mà sao khỏe nhanh thế?

— Sao cậu không giữ đừng cho anh ấy đi, Sáu?

Tiếng xôn xao và những ánh mắt, bước chân tự nhiên trở nên bồn chồn, lo lắng. Họ nhìn về phía những tiếng pháo nổ và người họ tuy vẫn đứng đây nhưng tâm trí họ như đã bay đi đâu về phía trước.

Tôi xúc động và cũng nôn nóng trong lòng muốn gặp người đại đội trưởng của đơn vị anh hùng này. Anh là ai và người như thế nào tôi không biết và cũng không muốn hỏi quá kỹ nhưng trong lòng tôi đã có nhiều tình cảm rất đẹp chắc rằng nhất định tôi sẽ vẽ được về anh một bức chân dung thật tốt, ít nhất là như thế, người quê hương của tôi. Hà nội, ba mươi sáu phố phường, anh ở chỗ nào? Trong đêm tối, rừng núi rung động tiếng pháo bắn, tôi cứ nghĩ về anh, người mà tôi chưa quen biết như một ám ảnh.

Hầm trực chiến của bộ chỉ huy ở trong một hang đá lớn. Những vệt khói đen và những chỗ vỡ toác – dấu vết của bọn địch để lại trước khi rút chạy – Đây là đầu mối chỉ huy của các chốt. Tiếng chuông điện thoại reo vang, tiếng cười nói, tiếng chân bước và màu áo cỏ úa, mũ cứng, mũ mềm, súng AK, cối, lựu đạn, ba lô, bi đông và những cành lá ngụy trang rung động. Những nụ cười bừng sáng trong những căn hầm vách đá lạnh lẽo.

Một người đàn ông cao lớn, đầu quấn băng trắng đang đứng quay mặt lại phía của hàng, tóc anh đã loáng thoáng sợi bạc, chân lút trong ủng, giọng thấp xuống như anh đang nói chuyện riêng, điều đó càng làm cho những người lính trẻ đứng vây quanh anh im phăng phắc:

— Theo tin của trinh sát cho biết địch rút rất chậm chạp chần chừ, vừa rút vừa vơ vét, tàn phá. Hiện nay, chúng còn tụ lại ở bên kia cầu Kỳ Lừa. Những ngôi nhà to của chúng ta đã bị chúng phá sập hết. Mìn rất nhiều, hàng ngày có nhiều đám cháy. Chúng đốt những gì mà chúng không mang theo đi được, kể cả thương binh và xác lính của chúng để phi tang. Nhiệm vụ của chúng ta là phải bám sát địch, truy kích địch, ép cho chúng rút nhanh, hạn chế bởi những thiệt hại cho đồng bào. Chúng rút đến đâu phải thu dọn, gỡ mìn đến đấy! Rõ cả chưa? – Tiếng anh hỏi nhỏ nhẹ nhưng cương nghị, dứt khoát.

— Báo cáo thủ trưởng, rõ ạ! – Tiếng đạp lại to mạnh.

Và sau tiếng đáp, những chiến sĩ trẻ vai đeo ba lô, mũ cài lá ngụy trang, súng đạn gài quanh mình lần lượt đi qua chỗ tôi đứng.

Thủ trưởng theo tiễn họ. Đến cửa hang, anh dừng lại và lúc ấy tôi nhìn thấy anh. Tôi giật mình, thảng thốt kêu lên:

— Phi! Anh Phi!

Anh quay lại và nheo mắt nhìn tôi. Mắt anh như bị chói nắng, cứ giật giật chớp chớp một lúc rồi anh cũng kêu lên ngạc nhiên không kém tôi:

— Chị Vọng! Ô, chị cũng đến tận đây cơ à? Tôi không tin ở mắt mình nữa, cứ y như là tôi bị hoa mắt vậy! Chị đến đây có việc gì thế? Chà, bị mấy lần pháo kích mới vào được đến đây? – Anh giơ tay bắt tay tôi, bàn tay to lớn, rắn chắc.

— Đi theo anh mà mệt! Sao đầu còn đang quấn băng thế kia đã ra trận? – Tôi hỏi và đi theo anh vào trong hang. Anh giải quyết một số việc rất nhanh rồi ra ngồi bên cửa hang nhìn những đợt pháo bắn trả nhau như cầu vồng.

— Pháo ta ép địch rút chạy đấy! Thằng này tệ không đánh không được. Thế nào, tình hình ở ngõ phố ta thế nào? Chị lên đây đã gặp anh ấy chưa? – Anh rút thuốc hút và nhìn tôi chằm chằm.

Tôi nói cho anh nghe tình hình nhà anh (mọi người vẫn mạnh khỏe bình thường) và mục đích của đợt công tác này của tôi. Anh cười thích thú:

— Hay quá, chị cứ ở đây tha hồ vẽ…

Anh nói vắn tắt cho tôi nghe một số tình hình chiến sự rồi bỗng hỏi:

— Vọng còn nhớ nhà Tường xây trong ngõ cây bàng không?

— Nhà Cai Thực chứ gì? Quên thế nào được, cái trường ngày xưa tôi và anh cùng học. Tôi còn nhớ hôm anh bị đuổi học vì không có tiền học phí. Sau hôm đó tôi cũng thôi không đi học nữa. Nhưng sao tự nhiên anh lại nhắc đến nhà Tường xây? – Tôi nói và nhìn Phi.

— A, trước khi bị thương tôi có gặp thằng con lão Cai Thực ở đây. Chị có nhớ thằng Đôn không?

— Đôn “ma giã đậu” chứ gì? Anh gặp nó ở đâu?

Hình ảnh cái roi mây quất vun vút vào trong không khí lại hiện ra trước mắt tôi cùng với bộ mặt vênh váo, rỗ nhắng của thằng Đôn. Nó đã đi khỏi miền Bắc từ ngày hòa binh. Sau khi miền Nam giải phóng, chị Hạnh đi công tác Sài Gòn về có kể lại là gặp Đôn ở Chợ lớn, nó là chủ một tiệm ăn lớn. Còn thằng San thì đã di tản theo vợ chồng con Khánh. Sao bây giờ Phi lại gặp nó ở đây?

— Lúc đầu, quả thực tôi cũng không nhận ra nó là ai, vì nó đã thay đổi quá nhiều. Người nó béo và khác đi. Chính nó đã dẫn một đoàn lính tràn qua biên giới vào tàn phá cái thị xã này. Anh em bộ đội và dân quân du kích chiến đấu rất dũng cảm, chúng bị thương vong không phải là ít.Trong lúc chạy ngang qua một số xác chết của chúng để vào cứu một ngôi nhà đang bị cháy tôi chợt nghe tiếng gọi tên mình. Tôi không tin ở tai mình nữa, có lẽ tai tôi đã bị bom pháo làm cho ù chăng? Vì thế tôi cứ chạy qua. Tiếng gọi to hơn:

— Phi ơi! Anh Phi ơi, cứu tôi với!

Tôi đi đến chỗ có tiếng gọi nhìn thấy một tên Trung quốc bị thương nặng ở chân và vai đang cố cử động như thể muốn ngồi dậy mà không được. Khuôn mặt tên này to tròn, rỗ đậm nhăn nhíu lại vì đau đớn, đôi mắt hắn tha thiết nhìn tôi, giọng van vỉ:

— Anh cứu tôi với, không bao giờ tôi quên ơn anh.

— Mày là ai? – Tôi lại gần hắn.

— Anh quên tôi rồi sao? Tôi là Đôn, nhà Tường xây ở ngõ cây bàng cùng với nhà anh đây mà.

“À, ra mày, kẻ thù của tuổi thơ tao, hay giờ mày vẫn nguyên là một kẻ thù. Thế mà mày lại còn mong tao giúp đỡ, thương hại! Mày làm như tao và mày có một dĩ vãng thân thiết lắm không bằng…” Tôi nghĩ và đứng im nhìn hắn đang rẫy rụa.

— Tôi đâu muốn lâm vào cảnh này, hả anh? Tôi cũng có nhà có cửa, vợ con tôi buôn bán đàng hoàng. Vợ tôi là người Hoa nhưng tôi cũng không làm gì cho địch, chỉ làm ăn lương thiện. Nghe lời chúng dụ dỗ lừa bịp nên đã bồng bế nhau về bên kia biên giới…

— Sao về rồi không ở yên đó lại sang đây gây tội ác?

Tôi hỏi và nhẽ ra, với khẩu súng này chỉ cần một phát đạn là kết liễu đời một tên phản bội. Nhưng tôi đã không làm như thế, vì trước mắt tôi không phải là nó đang gây tội ác mà đang tàn phế, hơn thế nữa nó đang van xin… Mũi súng tôi đang chúc xuống.

— Tôi tưởng là được ở yên nhưng ngờ đâu sự tình, họ bắt tôi phải cầm súng sang đây thì mới cho đoàn tụ vợ con. Tôi đã bị lừa lọc và bây giờ bị đau khổ như thế này đây. Anh làm ơn cứu tôi không thì người ta sẽ giết tôi. Tôi không bao giờ quên ơn anh! – Nó nói và khóc. Tôi thấy mủi lòng thương nó.

— Ơn với huệ cái quái gì, tôi không cần! Chỉ cần là từ nay về sau phải làm ăn lương thiện không được đi xâm chiếm đất nước người khác nữa nhé!

— Dạ… Dạ… - Nó nói, giọng ngọt sót và nước mắt lại chảy ràn rụa.

Tôi cúi xuống giơ tay nâng nó dậy. Nhưng khi nó vừa ngồi lên được thì một bàn tay nó đã thò ra phía sau, rút lựu đạn.

— Hừ… Mày định trả ơn tao như thế đấy có phải không?

Máu nóng dồn lên mặt, tôi quát lên và quay mũi súng. Tôi bắn nó trước khi nó kịp ném quả lựu đạn vào tôi…

Phi nói và nét mặt anh chợt buồn. Im lặng một lúc, anh hỏi:

— Lâu nay chị có gặp Hồng đâu không?

— Thỉnh thoảng. Cô ấy bây giờ béo ra. Ba đứa con rồi. Tay chồng làm cán bộ ngoại giao đi nước ngoài luôn nên cô ấy chả phải lo gì về kinh tế. Đi làm gọi là có cái chân trong biên chế thôi.

— Càng ngày tôi càng thấy rõ ai sống những năm tuổi thơ thế nào thì khi trưởng thành cũng như thế. Và dù có gặp may mắn thì cũng không hơn được những gì chính bàn tay mình tạo ra. Trước đây, khi Hồng bỏ tôi, tôi thấy mình thật là người đau khổ. Tôi hãy còn nhớ, ngày đó, chị bảo tôi: “Thế là may cho anh đấy!” Tôi cứ nghĩ và có lúc giận chị. Nhưng càng ngày, tôi càng thấy chị nói đúng. Vợ tôi hình thức không bằng Hồng nhưng có cô ấy tôi mới được như ngày nay, mới đi được đến hôm nay… Còn nếu lấy Hồng thì tôi phải sống khác, có lẽ tôi đã thành người khác… Bây giờ Hồng làm gì nhỉ?

— Hồng bây giờ giữ chân hóa trang cho diễn viên nhàn rỗi mà lại có điều kiện ăn diện. Có lần cô ấy thấy tôi đứng vẽ ngoài trời cô ấy nhăn mặt bảo: “Sao mày khổ sở như vậy nhỉ, tìm việc khác mà làm có phải sung sướng nhàn hạ không?” Tôi chả biết nói sao.

— Có lẽ cũng chẳng nên nói gì… - Phi thở dài – cũng như tôi, có lần gặp Hồng cô ấy bảo tôi “Thay áo đi, em không thích anh mặc mãi màu áo lính như thế…” Tôi cũng không nói gì.

— Bao giờ anh về thăm nhà? – Tôi hỏi.

— Chưa biết được chị ạ! Đuổi hết được bọn chúng rồi còn bao nhiêu việc phải làm. Nhưng bao giờ chị về cho tôi gửi ít quà cho mẹ tôi và các cháu…

Có tiếng thở và tiếng chân bước dồn dập. Những bóng người hiện ra lung linh lay động trong ánh nắng.

— Các cậu đã về! Tốt cả chứ? – Phi chạy tới.

— Báo cáo, chúng em đã làm xong nhiệm vụ.

— Kết quả thế nào?

— Dạ, khoảng… - Anh lính trinh sát đáp và giơ tay gãi tóc. Đường đi rất khó khăn, qua nhiều chặng, có nhiều địch và mìn dầy đặc, chúng nó không đông lắm và bố trí cũng sơ sài…

— Không báo cáo như thế được. Tất cả đều phải cụ thể chi tiết từng thứ một. Bao nhiêu tên lính, vũ khí gì, bố trí về các hướng như thế nào. Thôi, nghỉ ngơi rồi đi nghiên cứu lại!

— Dạ!

Tiếng thưa khẽ bối rối. Hai trinh sát uống nước, ăn bánh, bàn bạc với nhau một lúc rồi lại ra đi.

Tiếng pháo phản pháo bay qua, bay lại trong thành phố và những khu vực lân cận làm không khí náo động căng thẳng không một lúc nào yên.

Nhập nhoạng tối tôi lại nghe thấy những tiếng nói cười quen thuộc, những người mới về đứng vây quanh Phi:

— Báo cáo, địch có mười lăm tên. Nó quay ra nhiều hướng. Nó gồm có… và có… Lên đến cao điểm thì phải qua những chướng ngại như sau…

Một chuỗi những con số và sự việc phải vượt qua phải làm để chiến thắng địch và lấy lại cao điểm được nêu ra và bàn bạc sôi nổi.

— Cao điểm 800 đấy, chị ạ. – Phi nói với tôi.

— Anh chuẩn bị đánh cao điểm đó sao? – Tôi nhìn Phi.

— Đánh chứ! Phải đánh chứ! Ta mà nhổ được cái gai ấy thì chúng sẽ mù mắt! – Phi nói, giọng sôi nổi hào hứng rồi anh chuẩn bị nhưu sắp đi đâu.

— Bao giờ bắt đầu?

— Đêm nay, ngay đêm nay! – Phi đáp và đeo cái ba lô nhỏ, lấy thêm đạn gài vào bên người, đội mũ có cài lá ngụy trang, giơ tay về phía tôi và nụ cười thân mật nở trên khuôn mặt xạm đen:

— Tạm biệt họa sĩ nhé!

— Anh đi đâu vậy? – Tôi ngơ ngác, bàng hoàng.

— Tôi trở lại đơn vị, chỗ chị đến lúc đầu rồi cùng anh em chiến đấu.

— Bao giờ chúng ta lại gặp nhau? – Tôi hỏi và nắm chặt tay anh. Chưa bao giờ tôi lại thấy Phi thân thiết và cao quý đối với tôi như lúc này.

— Nếu như không có gì xẩy ra thì sáng mai, tại đây. – Phi nói và nhếch mép cười. – Còn nếu không, không may thì nhờ chị về…

— Không được nói như thế. – Tôi ngắt lời Phi. – Anh sẽ gặp mọi may mắn. Sang mai chúng ta sẽ gặp nhau. Tôi chờ anh nhé. Tôi chờ đấy!

Tôi tiễn anh ra đến ngoài. Trước khi chia tay chúng tôi còn bắt tay nhau một lần nữa và tôi chúc anh gặp mọi may mắn một lần nữa.

— Đại đội trưởng Phi là người nhà chị đấy à? – Một anh lính trẻ hỏi và nhìn theo bóng Phi đang nhỏ dần dưới chân dốc.

— Anh ấy là người cùng phố tôi… - Tôi đáp và lặng người đi. Trong gió lạnh buổi chiều nhập nhoạng, tôi thoáng nghe tiếng Phi gọi dưới chân dốc.

Những cái cây và mỏm núi nhấp nhô trước mắt tôi mờ đi trong những vệt nắng nhẹ và sương đang tan. Những cái lá rừng to và đỏ đnag lay động bên bờ suối thoáng trông như những chiếc lá bàng tím đỏ của mùa đông. Những chiếc lá cứ rung lên và xáo động tâm hồn tôi như một cơn giông.