← Quay lại trang sách

Chương 3 Hổ Cốt Tửu Và Thanh Trúc Địch

Lan đảo là một hòn đảo nhỏ cách Hồng Kông không xa, tuy không phải một thắng cảnh nổi tiếng nhưng nó là nơi mà những người chán cảnh bon chen ngoài đời thường tìm về ẩn dật, tu đạo luyện đơn. Không như các tăng ni nhất quyết ly gia cắt ái, đa số những người tu đạo vẫn ít nhiều giữ mối dây liên lạc với gia đình. Tuy ẩn tu nhưng thỉnh thoảng họ vẫn trở về thăm gia đình và được trợ giúp để mua sắm thực phẩm và các tiện nghi cần thiết. Núi Thái Vũ nằm trên Lan đảo là một ngọn núi có nhiều hang động thiên nhiên, thuận tiện cho những người muốn tìm chỗ thanh vắng tĩnh tu. Trên đỉnh núi còn có một ngôi chùa lớn hàng năm vẫn tổ chức các ngày hội, lôi cuốn rất đông khách hành hương.

Vì không phải ngày hội hay dịp lễ chính nên chuyến tàu đi từ Hồng Kông ra Lan đảo rất vắng khách. Trừ những người lái buôn đem hàng hóa ra đảo bán, khách hành hương chỉ có mình tôi. Có lẽ vì thế khi tàu cập bến Đại Ô, những người lái buôn quen đường sá đã tản mác vào làng xóm quanh đó, chỉ còn mình tôi đứng ngơ ngác trên bến. Đại Ô là một làng chài lưới nghèo nàn, nhà cửa thưa thớt, quanh bãi người ta phơi đầy cá, mùi tanh tưởi xông lên nồng nặc. Vì đường lên Bảo Liên tự quanh co khó tìm, muốn đi phải có người hướng dẫn nên tôi đành phải thuê một chiếc kiệu do hai người phu khiêng.

Đường lên núi ngoằn ngoèo, nhiều chỗ dốc khiến hai người khiêng phải cố gắng lắm mới giữ cho kiệu được thăng bằng. Vượt qua khúc quanh lưng chừng núi, hai người phu thấm mệt phải dừng lại trước một cái miếu bên đường để nghỉ ngơi. Trong khi chờ họ hút hết điếu thuốc, tôi bước ra khỏi kiệu đi dạo quanh miếu. Cũng giống như những cái miếu thông thường, đó là một căn nhà gồm một phòng làm chánh điện ở giữa và hai phòng nhỏ xây cất hai bên. Mặt tiền của miếu có treo một tấm bảng cũ kỹ bị rêu rong phủ kín, phải cố gắng lắm tôi mới đọc được hàng chữ: Đông Hải thần miếu. Chánh điện tối om, không có nhang đèn chi hết, trên bàn thờ có bày một pho tượng thần, không rõ nam hay nữ, ngồi trên chiếc ngai bằng gỗ sơn son thếp vàng đã bạc màu. Quanh đó có những chân đèn, giá nến không người chăm sóc bụi bám đầy. Tôi đang chăm chú nhìn ngắm những hàng chữ triện đắp nổi trên tường thì nghe tiếng gậy trúc gõ nhịp phía sau lưng. Một người đàn bà tóc bạc như cước, hai mắt đã mù, chống gậy bước đến:

- Đại nhân đến để lễ thần hay còn việc chi?

- Không, tôi chỉ tạm dừng lại để vãn cảnh. Tôi mong có thể lên đến Bảo Liên tự trước khi trời tối.

Bà lão nhún vai có vẻ thất vọng:

- Nếu vậy mời đại nhân dùng chút trà giải khát vậy. Không đợi tôi trả lời, một đứa bé gái khoảng mười hai, mười ba tuổi đã xuất hiện với một khay trà trên tay. Dường như nó đã chuẩn bị sẵn, chỉ chờ gọi là mang trà ra. Không thể từ chối, tôi đành giơ tay tiếp lấy chén trà một cách miễn cưỡng. Đã quen với phong tục nơi đây, tôi biết người ta không mời tôi dùng trà vì hiếu khách mà vì chút tiền trà nước những du khách không thể không trả. Bà lão nhướng cặp mắt không tròng trắng dã về phía tôi và hỏi:

- Phải chăng đại nhân thuộc giống Hồng mao?

Đó là một câu hỏi bất lịch sự, hiển nhiên người hỏi phải thuộc hạng bình dân thất học vì không ai trực tiếp gọi một người ngoại quốc như vậy. Danh từ “Hồng mao” hay “mọi lông đỏ” ngụ ý khinh bỉ, coi thường, chỉ được dùng giữa những người Trung Hoa với nhau khi muốn ám chỉ một người ngoại quốc tồi tệ xấu xa nào đó. Tôi nén giận trả lời:

- Đúng thế, nhưng sao bà biết?

- A ha! Tai kẻ mù có khác gì mắt kẻ điếc, tuy đại nhân nói tiếng Quảng Đông trôi chảy nhưng tôi vẫn nhận ra ngay.

Có lẽ khó chịu vì thái độ của bà lão mù hoặc vì danh từ “Hồng mao” gây cho tôi một ấn tượng không mấy tốt đẹp nên tôi uống vội chén trà nhạt như nước lã rồi lên tiếng cáo từ. Trước khi đi tôi móc túi lấy ra một đồng bạc đặt trên bàn nhưng nhìn đôi mắt hau háu của đứa nhỏ bưng trà chăm chú nhìn đồng bạc, tôi sợ nó có thể nhanh tay cuỗm mất số tiền của bà mù nên vội lên tiếng:

- Xin bà vui lòng nhận cho tí tiền trà nước.

Nói xong tôi gõ nhẹ đồng bạc lên bàn cho bà lão nghe thấy. Bà lão chờ tôi ra đến cửa mới lên tiếng:

- Xin cám ơn lòng tốt của đại nhân, nhưng đường đi còn khó khăn và gian nan lắm, muốn đi xa phải đi từ từ, phải thận trọng, theo đường chính, tránh ngả tắt dễ làm người ta lầm đường lạc lối. Hãy đi thong thả, đừng hấp tấp.

Tự nhiên tôi bỗng rùng mình. Giọng nói lanh lảnh của bà lão mù dường như muốn cảnh bảo tôi thì phải! Phải chăng bà muốn nhắc tôi về đường sá trên núi hay còn dụng ý gì khác? Ngồi trên kiệu tôi cứ thắc mắc mãi về câu nói của bà mù. Quả nhiên con đường từ đó lên đỉnh núi rất gập ghềnh, chiếc kiệu cứ đảo hết bên này sang bên kia, nhiều lúc như muốn hất tôi xuống vực sâu. Hai người phu khiêng kiệu cứ thản nhiên phăng phăng bước đi trong khi tôi ngồi trên kiệu mà ruột gan như thắt lại. Sau cùng chịu không nổi, tôi phải yêu cầu họ đặt tôi xuống đất để đi bộ theo kiệu chứ ngồi chênh vênh như vậy chóng mặt quá.

Bảo Liên tự là một ngôi chùa lớn, tọa lạc trên mảnh đất tương đối bằng phẳng trông ra phía biển. Khi lên đến nơi thì trời đã tối, trong chùa đèn nến đã được thắp lên, có lẽ chư tăng đang chuẩn bị ăn tối, mùi xào nấu phảng phất thơm lừng. Vị tri khách đưa tôi ra giếng rửa mặt cho thoải mái:

- Đường sá xa xôi chắc thí chủ cũng đã đói bụng, vậy xin mời dùng cơm trước rồi đến gặp vị trụ trì sau.

Từ trước đến nay tôi thường nghe kể đa số các chùa đều ăn uống đạm bạc, chỉ cơm hẩm và tương chao nhưng tại đây bữa ăn lại có nhiều món xào nấu rất thịnh soạn.

- Tôi không ngờ nhà chùa lại ăn uống ngon lành như thế này.

Vị tri khách giải thích:

- Chùa này thường có đông du khách thập phương, họ đâu thể ăn uống khổ hạnh được nên nhà bếp phải đặc biệt nấu nướng ngon lành cho họ. Lúc này không phải dịp hội hè đình đám, nếu ông đến vào dịp đó thì sẽ thấy nhiều món ăn thịnh soạn hơn thế nữa.

Không biết có phải vì đi bộ đói bụng hay vì cơm chay lạ miệng mà tôi cứ tì tì làm hết bát này đến bát khác một cách tự nhiên. Vị tri khách phải nhắc nhở mấy lần tôi mới chịu dừng đũa để đến gặp vị tu sĩ trụ trì. Khi nghe tôi ngỏ ý xin tạm trú tại đây ít lâu, vị trụ trì nói ngay:

- Cửa chùa lúc nào cũng rộng mở. Ông có thể ở lâu bao nhiêu cũng được nhưng dĩ nhiên phải trả lệ phí ăn ở. Ông định ở đây bao lâu?

- Tôi chưa quyết định, có thể vài ngày, một tuần, hoặc lâu hơn nếu ngài không phiền. Ngoài việc thăm viếng phong cảnh, tôi còn mong có dịp được học hỏi về Phật pháp và các phương pháp thiền tập với chư tăng tại đây.

Vị trụ trì có vẻ ngạc nhiên:

- Ông cũng là một Phật tử ư? Lành thay… lành thay. Dĩ nhiên tại đây cũng có thiền đường nhưng tăng chúng không mấy ai thực hành thiền định. Chùa này không chuyên về tu thiền. Việc học hỏi Phật pháp cũng vậy, ông đến không đúng lúc, vị pháp sư của chùa có việc đi xa không biết bao giờ mới về. Phần tôi không thể giúp ông được…

Ông ngập ngừng một lúc rồi giải thích:

- Tuy là trụ trì nhưng nhiệm vụ của tôi chú trọng về việc điều hành thủ tục hành chánh hơn là dẫn dắt tín đồ. Đó là phận sự của vị pháp sư. Công việc điều hành một ngôi chùa rắc rối đa đoan lắm chứ không giản dị như nhiều người tưởng. Nhiệm vụ của tôi là kiểm soát tài chánh, thu xếp giấy tờ, điều hành, quản trị. Các tăng sĩ tại đây cũng vậy, mỗi người có một nhiệm vụ riêng, người lo nhang đèn, kẻ lo cúng tế, hoặc các thủ tục như ma chay, cưới hỏi. Quanh đây có nhiều đảo nhỏ và làng mạc nhưng lại không có chùa, do đó có việc gì cần người ta đều phải đến rước chúng tôi. Chỉ nội việc cúng lễ, ma chay, cầu an, cầu siêu đã mất hết thời giờ rồi, đó là chưa kể việc bảo trì, xây cất, dọn dẹp, quét tước và nấu nướng cho chư tăng và khách thập phương nữa. Dĩ nhiên nếu ông muốn đến đây để tu thiền thì xin tự nhiên, thiền đường nơi đây mở cửa ngày cũng như đêm. Ngoài ra nếu ông muốn dạo chơi vãn cảnh thì quanh đây có rất nhiều cảnh đẹp thiên nhiên, phía nam ngọn núi có nhiều hang động, rất thuận tiện cho việc tĩnh tu hay nhập thất nếu ông muốn tìm nơi yên tĩnh, vắng lặng.

- Xin cám ơn ngài, tôi sẽ tự lo liệu để khỏi phiền đến ai.

Chúng tôi chuyển qua đề tài thời tiết, phong cảnh, đường sá từ Hồng Kông qua đây. Tôi vô tình kể lại việc gặp bà lão mù dưới chân núi. Vị trụ trì vội nhổm lên:

- Ông cũng gặp mụ Vương sao? Ông thấy mụ già đó thế nào? Hơi điên khùng có phải không? Nhiều người nói rằng những kẻ khật khùng, tàn phế thường có lắm biệt tài. Họ đồn rằng mụ Vương có tài tiên tri nhìn được quá khứ vị lai. Khi gặp ông, mụ già đó có nói gì không?

- Tôi chỉ gặp bà ấy trong một thời gian rất ngắn, tôi không nghĩ bà ấy nói gì ngoài việc đường đi trơn trượt khó khăn phải cẩn thận, nhưng người ta đâu cần phải có tài tiên tri mới biết được điều đó.

Tuy nói thế nhưng tôi vẫn cảm thấy áy náy về câu nói cuối cùng của bà mù. Phải chăng bà còn ngụ ý gì khác? Chúng tôi đàm đạo một lúc trước khi vị trụ trì xin cáo từ vì còn bận việc. Vị tri khách dẫn tôi đến một căn phòng nhỏ dành cho khách hành hương nằm riêng biệt ở phía sau chùa.

Lúc đầu tôi nghĩ sau hành trình mệt nhọc mình có thể ngủ thẳng một giấc đến sáng, nhưng không hiểu sao tôi cứ trằn trọc không ngủ được. Tôi nằm yên nghe tiếng gió thổi rì rào qua hàng cây, mùi nhang trầm từ trên chánh điện thoảng qua bên khe cửa, thỉnh thoảng lại có tiếng chuông chùa nhẹ nhàng ngân vang trong đêm khuya vắng lặng. Nghe tiếng chuông ngân nga tôi nghĩ đến những giai thoại liên quan đến địa ngục. Theo kinh điển Phật giáo thì mỗi khi tiếng chuông ngân lên thì các hình phạt trong địa ngục tạm thời dừng lại, các tội nhân đang thọ hình được nghỉ ngơi đôi chút. Tín đồ Phật giáo tin rằng âm thanh của chuông có thể vượt không gian và thời gian, cảm ứng đến các cõi giới vô hình, có công dụng kêu gọi những sinh linh đang mê muội lầm đường lạc lối hãy tỉnh thức. Theo quan niệm của người phương Đông thì địa ngục chỉ là một cõi mà người chết phải sống ở đó một thời gian vì những tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống nhưng nó không hề có tính cách vĩnh viễn. Trong khi đó người phương Tây lại cho rằng khi đã xuống địa ngục là hết hy vọng thoát ra và phải ở đó vĩnh viễn thiên thu (Eternal damnation). Người phương Đông cho rằng khi chết, tùy theo nghiệp lực mà người ta bị dẫn dắt vào các cảnh giới khác nhau. Hoặc sinh vào cảnh trời, cõi trần, hoặc địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ba cõi sau được gọi là ba đường ác. Tuy cảnh địa ngục của người phương Đông không khác cảnh địa ngục người phương Tây, cũng có quỷ sứ trừng phạt, hành hạ tội nhân, nhưng sự khác biệt ở chỗ khi đã trả hết nghiệp quả thì họ sẽ được lên trên các cảnh giới tốt đẹp hơn. Đã thế khi ở địa ngục, nếu biết ăn năn hối cải, biết phát tâm sám hối thì người ta có thể rút ngắn thời gian được. Hiển nhiên một người đang bị hành hạ đau đớn, khổ sở đâu có nghĩ đến chuyện ăn năn, sám hối, vì thế mới có tiếng chuông chùa để thức tỉnh, để thúc giục người ta mau chóng quay đầu tìm về đường ngay, nẻo chính. Nhiều học giả Tây phương cho rằng quan niệm này “lạc quan và ngây thơ” nhưng tôi cho rằng đó là một hy vọng rất lớn vì bất cứ ai, dù tội lỗi xấu xa đến đâu, một khi đã biết ăn năn hối cải, biết quay đầu thức tỉnh đều có thể chuộc lại những lỗi lầm của mình.

Hôm sau, tôi khởi sự đi dạo chơi quanh núi. Phong cảnh thật đẹp, biển xanh, mây trắng, những tảng đá gập ghềnh muôn hình vạn trạng, những dòng suối uốn mình khi ẩn khi hiện. Mây mù giăng ngang thung lũng, vài con hạc đậu trên nhánh thông cao lặng lẽ quan sát cảnh vật phía dưới… Có nhìn thấy cảnh này người ta mới ý thức được những đường nét chấm phá tài tình của các họa sĩ vẽ tranh thủy mặc. Khi xưa xem những bức tranh này, tôi nghĩ các họa sĩ đã vẽ theo tưởng tượng hay chịu ảnh hưởng một trường phái nào đó chứ không hề biết rằng họ đã quan sát thiên nhiên kỹ lưỡng và mang những cái đẹp vào họa phẩm của họ. Từ trên núi cao trông ra bốn hướng, cảnh vật lờ mờ khi ẩn khi hiện như tranh vẽ, càng dạo chơi tôi càng bị thu hút vào cảnh thiên nhiên tuyệt vời này. Cứ thế tôi miên man đi dạo từ sáng đến chiều, buổi tối về chùa ăn cơm chay thanh tịnh rồi lăn ra ngủ, không lo lắng, nghĩ ngợi gì. Cuộc sống nhàn tản như thế làm tôi quên hẳn mục đích ban đầu của chuyến đi là học hỏi Phật pháp và phương pháp thiền.

Đã có lần tôi bước chân vào thiền đường. Đó là một căn phòng khá lớn không đồ đạc, chỉ có một bức tranh vẽ tổ Bồ Đề Đạt Ma đang vác gậy có buộc một chiếc dép cỏ. Thiền đường vắng tanh không một bóng người, đáng lý ra tôi phải biết lợi dụng cơ hội để thiền tập như vẫn làm khi trước, nhưng không hiểu sao tôi không cảm thấy có động lực nào thúc giục. Phía sau thiền đường là Tàng kinh các, có nhiều kệ sách lớn với hàng trăm sách vở, kinh điển xếp đặt theo thứ tự, nhiều cuốn rất cũ chữ đã phai mờ. Nếu không được sao lục, ghi chép lại, có lẽ ít lâu nữa không còn ai có thể đọc được những cuốn sách đó. Chẳng hiểu sao tôi không cảm thấy hứng thú khi tìm được những cuốn sách như vậy mặc dù khi xưa tôi vẫn được mệnh danh là “mọt sách”, luôn luôn ngấu nghiến bất cứ cuốn sách nào tìm được. Phải chăng sau một thời gian mệt mỏi vì mưu sinh, tôi muốn được nghỉ ngơi trọn vẹn cho đầu óc thoải mái hay còn có lý do nào khác?

Một buổi tối ngồi đàm đạo với vị trụ trì, tôi đã vô tình hỏi:

- Phong cảnh nơi đây thật đẹp, nhiều lúc tôi có cảm tưởng như đi lạc vào chốn thiên thai. Nếu có vài ông tiên ngồi đánh cờ, vài con hạc trắng đậu bên cạnh thì hẳn người ta nghĩ mình đang sống trong cảnh tiên rồi. Tôi nghe nói vùng này có nhiều ẩn sĩ tu đạo luyện đơn, ngài có biết gì về họ không?

Vị trụ trì lắc đầu:

- Đã là một Phật tử thì ông để ý đến những kẻ đó làm chi? Những kẻ theo thuyết “trường sinh cửu thị” học kỳ môn, độn giáp, dưỡng khí, luyện thần, lục nhật, thất phần hay những trò huyền bí, mê hoặc nhân tâm đó thì có gì đáng để cho ta phải lưu ý! Họ có làm gì ích lợi đâu, suốt ngày chỉ đánh cờ, gảy đàn, uống rượu, rong chơi trên lưng hạc…

- Nhưng cưỡi hạc dạo chơi như vậy hẳn cũng thú vị lắm chứ! Chẳng phải làm lụng hay lo lắng gì mà chỉ hưởng thụ những sự sung sướng, đã thế lại không lo đau ốm hay già chết… Tu hành như thế thiết tưởng có thua gì việc được vào cõi Niết Bàn đâu?

Vị trụ trì khó chịu định nói câu gì nhưng kiềm chế lại được. Ông đứng phắt dậy vòng tay trong chiếc áo thụng ra dấu cáo từ rồi bỏ đi thẳng. Từ đó ông tỏ ra lạnh nhạt, không còn thân thiết với tôi như trước nữa. Tuy nhiên vị tri khách tăng có một thái độ cởi mở hơn, ông cho biết đa số những người ở ẩn không thích tiếp xúc với ai và thường yêu cầu đừng ai làm rộn đến sự tu hành của họ.

- Nhưng họ thường làm gì?

- Làm sao chúng tôi biết được? Mặc dù sống trên một hòn đảo nhưng không mấy khi chúng tôi giao thiệp với nhau.

- Kể cũng lạ nhỉ! Tôi vẫn nghĩ Phật giáo và Lão giáo có nhiều điểm tương đồng.

- Không đâu. Mặc dù Lão Tử chủ trương thanh tĩnh vô vi nhưng đã mấy ai theo nổi. Phần lớn đạo sĩ đều là những người chán đời, không thích hợp với sự ganh đua nên tìm về chốn vắng vẻ để luyện đơn, cầu trường sinh bất tử. Một số người sau khi ẩn tu rồi xuất hiện, sử dụng các mánh khóe hay pháp thuật để trừ tà, chữa bệnh, bán thuốc, bói toán, sấm thuật, xem quá khứ, đoán tương lai. Toàn những trò mê hoặc nhân tâm! Khi xưa ở ngoài đời họ không gây dựng được tiếng tăm gì thì sau khi hạ sơn, họ thường tự xưng mình là Thiên sư, Đại tiên, Thượng nhân, Lão quân…

- Nhưng ít ra họ cũng phải luyện thành công được một cái gì chứ? Liệu họ có trường sinh bất tử hay không?

Vị tri khách tăng nhìn tôi một lúc rồi bật cười:

- Làm gì có chuyện đó! Nếu họ bất tử thì dân chúng đã bỏ theo họ hết còn gì!

- Nhưng ít ra họ cũng phải có một cái gì chứ?

- Làm sao tôi biết được!

Một buổi sáng, khí trời hơi lạnh vì trận mưa đêm trước. Thay vì vãn cảnh ở phía nam ngọn núi, tôi quyết định đi về phía đông, nơi có nhiều sườn núi dốc thoai thoải xuống đến tận bờ biển. Vượt qua ngọn đồi thấp dần xuống một thung lũng nhỏ, phong cảnh vô cùng tĩnh mịch. Bốn bên yên lặng chỉ có tiếng côn trùng kêu rỉ rả và tiếng suối chảy róc rách đâu đây. Vừa bước đến khúc quanh giữa hai eo núi hẹp bỗng nhiên tôi thấy một đứa bé gái khoảng tám, chín tuổi đang thoăn thoắt chạy ở phía trước. Đứa bé mặc một bộ quần áo màu xanh lục, chân đi dép, ngang hông quấn một dải khăn lụa gọn ghẽ, hai bím tóc tết đuôi sam phất phơ theo nhịp chạy. Nhìn cách phục sức, tôi biết nó không phải con cái dân chài lưới trên đảo. Đa số con nhà chài lưới thường mặc quần áo nhuộm đen, ít ai đi dép hay cột tóc như đứa bé này. Hơn nữa con nhà chài lưới thường bận rộn dưới bãi, mấy ai leo lên tận đỉnh núi hoang vu như vậy. Đứa bé chạy thẳng vào một khu rừng trúc rồi mất dạng sau những thân trúc xanh biếc to bằng cổ tay. Tò mò, tôi vội rảo bước theo. Vượt qua rặng trúc cao tôi thấy một túp lều và một người tuổi trung niên dáng dấp tiên phong đạo cốt, mặc áo thụng màu xanh lục đang đứng trước cửa. Hiển nhiên người này phải là kẻ tu đạo vì ông ta không kết tóc đuôi sam như mọi người mà búi ngược lên đỉnh đầu. Thấy tôi, đạo sĩ có vẻ ngạc nhiên nhưng vẫn cung kính đưa tay vái chào:

- Thật là hân hạnh. Không biết ngọn gió nào đã đưa tiên sinh hạ cố đến đây. Xin mời tiên sinh ghé lại dùng chút rượu nhạt giải khát.

Đạo sĩ khom lưng cúi sát người xuống chào khiến tôi lật đật khom lưng đáp lễ mặc dù hiện nay rất ít ai cúi gần sát đất để chào hỏi như vậy. Đạo sĩ xưng họ là Phan nhưng không nói rõ tên rồi lễ phép mời tôi vào nhà. Đó là một căn lều bằng trúc, mái lợp cỏ rất đơn sơ, tuy chỉ có độc một phòng nhưng nó được ngăn đôi bởi một bình phong cũng bằng trúc, có lẽ để che chiếc giường nhỏ phía sau, bàn ghế trong nhà đều bằng trúc giản dị mộc mạc nhưng đượm vẻ thanh tao thoát tục. Ngoài bộ bàn ghế, góc phòng có một bàn thờ nhỏ phía trên có treo bức tranh vẽ một tiên ông tay cầm phất trần đuôi ngựa đang cưỡi một con hạc lớn.

- Xin mời tiên sinh cứ tự nhiên ngồi.

Tuy nói thế nhưng đạo sĩ lại phân ngôi chủ khách, mời tôi ngồi vào chiếc ghế quay mặt ra phía ngoài, chỗ ngồi danh dự dành cho quý khách theo tục lệ Trung Hoa. Riêng tôi nhất định đòi ngồi vào ghế đối diện, quay mặt nhìn vào phía trong, một chỗ ngồi tầm thường, khiêm tốn nhất mặc dù chủ ý của tôi không phải vì lễ phép mà vì tò mò muốn quan sát mọi việc trong nhà. Đạo sĩ theo đúng thủ tục nhất định mời tôi ngồi vào ghế kia. Chúng tôi lễ phép mời nhau và từ chối hai ba lần cho đến khi ai nấy ngồi xuống ghế. Vừa ngồi yên chỗ thì bé gái lúc đầu xuất hiện với một chiếc khay nhỏ, trên để một hũ rượu và một đĩa thịt rừng khô. Một lần nữa lại có màn đứng dậy mời chào theo đúng thủ tục. Đạo sĩ trịnh trọng rót rượu cho tôi trước khi rót cho mình rồi đưa cả hai tay nâng chén lên ngang mày:

- Xin mời tiên sinh vui lòng nhắp chút rượu nhạt. Hy vọng ngài không chê loại Hổ cốt tửu này. Tôi đã đích thân pha chế nó theo phương pháp gia truyền và chôn dưới đất trong suốt mười hai năm, loại rượu này có công dụng như một linh đơn, có thể chữa trị bách bệnh.

Lúc đầu chúng tôi thay phiên nhau mời chào một cách trịnh trọng, nhưng khi uống khoảng nửa hũ thì chúng tôi trở nên tự nhiên và bớt khách sáo hơn, không còn mời chào chúc tụng trước khi uống nữa mà ai nấy cứ thuận tay rót hết chén này đến chén khác. Tôi thấy vị rượu rất nồng, có phần nồng hơn các loại rượu mà tôi đã uống qua. Tuy không phải người sành rượu nhưng tôi cứ khen bừa là chưa thấy rượu nào ngon như thế. Phan đạo sĩ hãnh diện liên tiếp rót cho đến khi hết sạch hũ rượu rồi gọi cô bé mang thêm một hũ nữa. Cho đến khi đó, ông mới hỏi lý do cuộc thăm viếng của tôi. Tôi thành thật cho biết nhân dịp hè, tôi muốn dạo chơi phong cảnh để nghỉ ngơi và hy vọng có cơ hội tiếp xúc với các cao nhân ẩn sĩ. Biết ông là người tu đạo, tôi ngỏ ý muốn được học hỏi thêm về những bí thuật của môn phái này. Ngay lúc đó cô bé mang ra thêm một chén đồ nhắm, lần này không phải thịt rừng khô mà là một đĩa thịt nướng thơm phức. Trong lúc cô bé thong thả gắp thịt ra đĩa, tôi chăm chú nhìn cặp mắt to đen láy, mái tóc huyền làm nổi bật làn da trắng như ngọc. Tuy cô bé còn nhỏ tuổi nhưng đã có những đường nét sắc sảo đặc biệt khiến tôi phân vân không biết cô bé có liên quan gì đến đạo sĩ này nhưng không tiện hỏi. Tuy nhiên đạo sĩ biết ý tôi nên mỉm cười nói ngay:

- Chắc tiên sinh đang thắc mắc một kẻ ở ẩn như tôi lại có một đứa nhỏ hầu hạ bên cạnh như vậy. Thưa vâng, nó chính là con gái tôi, hậu quả của một lần lầm lỗi cách đây nhiều năm. Mẹ cháu mất rồi, chỉ còn mình cháu với tôi. Tên cháu là Tiểu Ngọc.

Ông ngưng ở đó không nói thêm. Chúng tôi tiếp tục uống rượu và thưởng thức đồ nhắm. Có lẽ vì chếnh choáng hơi men nên tôi đâm ra bạo dạn hơn lúc bình thường:

- Tôi đọc sách thấy các đạo sĩ tu tiên thường có nhiều phép thuật như chỉ đá hóa vàng, hóa hiện ra những bầy tiên nữ múa khúc nghê thường, hay ít ra cũng một vài mỹ nhân để hầu hạ. Ngoài ra họ còn luyện thuật trường sinh và có những lò linh đơn nữa thì phải?

Đạo sĩ bật cười lắc đầu:

- Tiên sinh lầm rồi. Tôi không phải kẻ luyện phép trường sinh. Nếu có quyền năng chỉ đá hóa vàng thì tại sao tôi lại ẩn náu ở vùng hoang vắng như thế này làm gì? Có lẽ tiên sinh đọc tiểu thuyết hơi nhiều. Một kẻ ẩn thân nơi hoang vu thanh tịnh để tránh cạm bẫy sắc dục thì biến hóa ra mỹ nhân hầu hạ làm gì cho phiền phức. Còn việc luyện linh đơn nữa, chỉ cần một viên cũng đủ, cần gì phải luyện đến cả lò!

- Ông từ chối khéo lắm. Không có vàng bạc châu báu hay mỹ nhân hầu hạ cũng không sao nhưng tôi thấy ông không hề phủ nhận việc luyện linh đơn. Phải chăng ông vẫn uống linh đơn?

Đạo sĩ phá cười lên làm rung chuyển cả chiếc ghế trúc:

- Ha ha ha! Này anh bạn trẻ, linh đơn đâu phải để uống.

- Vậy để làm gì?

Đạo sĩ không trả lời mà đổi đề tài, yêu cầu tôi đoán xem ông được bao nhiêu tuổi.

- Tôi trông ông khoảng ngoài năm mươi.

- Lầm rồi, tiên sinh đoán lại thử xem.

Tôi nhìn nước da hồng hào, chòm râu đen nhánh của đạo sĩ và cô bé khoảng tám, chín tuổi đang hầu rượu gần đó:

- Nếu vậy thì bốn mươi hay bốn lăm. Trông ông còn khỏe mạnh tráng kiện lắm.

Đạo sĩ bật cười rồi nghiêm nghị:

- Không đâu, tôi đã ngoài bảy mươi tuổi rồi.

Tôi giật mình, không thể tin một người khỏe mạnh, râu tóc còn đen nhánh như vậy mà đã ngoài bảy mươi. Hơn nữa làm sao một người ngoài bảy mươi lại có con gái mới lên tám hay chín tuổi được, trừ khi ông ta có một phương pháp gì đó.

- Như vậy… như vậy hẳn ông đã thành công trong việc luyện linh đơn và đã cải lão hoàn đồng?

Đạo sĩ bật cười một hồi rồi lắc đầu:

- Lạ thật, một người ngoại quốc như ông cũng biết đến các giai thoại về linh đơn hay trường sinh bất tử. Tôi xem ra ông cũng là người có kiến thức rộng về văn hóa Trung Hoa, nếu vậy để tôi thổi tặng ông một điệu nhạc cổ…

Đạo sĩ nói nhỏ với Tiểu Ngọc vài câu. Cô bé chạy vội vào trong nhà lấy ra một cây sáo bằng trúc rất dài. Từ trước đến nay tôi đã nhìn thấy nhiều chiếc sáo trúc, nhưng chưa bao giờ thấy cái nào dài và cổ kính như chiếc sáo này. Phan đạo sĩ sửa lại y phục, ngồi thẳng người và trịnh trọng đưa sáo lên miệng… Trong các buổi luận đàm về thơ phú với bạn hữu của Tạ Hải, cũng có vài người gõ phách, thổi sáo hay gảy đàn nhưng chưa bao giờ tôi được nghe một âm thanh kỳ lạ thanh thoát như tiếng sáo này. Đó là một khúc nhạc cổ, dường như vui lại như buồn, nó vương vấn nhưng thanh thoát, âm thanh lúc nhặt lúc khoan khiến người nghe phải say mê theo dõi. Thật khó diễn tả được cảm tưởng của tôi khi nghe khúc nhạc đó. Có thể vì men rượu, vì âm thanh lạ lùng hoặc vì lí do gì khác khiến tôi ngồi ngây ra, hồn bay bổng tận đâu đâu. Tôi không biết khúc nhạc kéo dài bao lâu nhưng khi âm thanh dừng lại thì tôi thấy ánh nắng đã tắt dần phía sau sườn núi. Đã đến lúc tôi phải trở về Bảo Liên tự trước khi trời tối hẳn. Tôi đứng dậy lễ phép xin cáo từ nhưng có lẽ vì trí tò mò thúc giục nên tôi cố hỏi vớt một câu:

- Xin cám ơn ông về bữa rượu và khúc tiêu tuyệt vời, nhưng trước khi từ giã, ít ra ông có thể chỉ dẫn cho tôi thêm về thuyết trường sinh bất tử hay chủ trương vô vi, huyền đồng của ông chứ?

Phan đạo sĩ cau mày lộ vẻ khó chịu nhưng trấn tĩnh lại ngay:

- Này tiểu huynh đệ, nếu anh muốn nghe một bài thuyết giảng thì hãy đến gặp các vị sư. Họ sẽ giảng cho anh nghe đủ các lý thuyết. Phần tôi tuyệt đối chẳng có gì để nói cả. Tuy nhiên gặp nhau bữa nay cũng là một duyên hay, để tôi ngâm một bài thơ của Lý Bạch cho anh nghe.

Ông vỗ bàn ngâm lớn:

Tam bôi thông đại đạo

Nhất đấu hợp tự nhiên

Đản đắc túy trung thú

Vật vi tỉnh giả truyền.

Tạm dịch:

Ba chén hiểu đạo lớn

Một đấu biết tánh thiêng

Say sưa trong thú rượu

Còn hơn kẻ tỉnh điên.

Tôi không lạ gì bài thơ này vì đã đọc qua nhưng khi đạo sĩ nhấn mạnh câu “Tuyệt đối chẳng có gì để nói cả” tôi lại nghĩ ngay đến chủ trương “bất ngôn chi giáo” của Lão Tử. Người Tây phương khó có thể hiểu được phương pháp dạy bảo mà không dùng đến lời nói này. Từ ngàn xưa, các bậc hiền giả phương Đông đã cho rằng ngôn ngữ, văn tự là một phương tiện miễn cưỡng vì nó không thể diễn tả được hết ý nghĩa. Một ý tưởng cao siêu tuyệt đối không thể diễn tả bằng thứ ngôn ngữ tương đối mà phải sử dụng đến sự cảm thông vì “đạo khả đạo, phi thường đạo”. Cũng như thế, những chân lý tối thượng không thể sử dụng lời nói, văn tự mà diễn đạt nhưng phải sử dụng đến cái tâm hiểu biết, tâm thông cảm hay lấy “tâm truyền tâm” như chủ trương của thiền “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, kiến tánh thành Phật”. Các vị thầy phương Đông không vội vã truyền dạy những điều họ hiểu biết, họ không tuyên bố ồn ào những điều họ khám phá ra như các vị thầy phương Tây. Thay vì viết sách, mở trường, thu nhận học trò thì họ lại yên lặng sống âm thầm lặng lẽ với điều họ đã chứng nghiệm. Một người muốn học hỏi phải biết đi tìm thầy, phải lặn lội khắp nơi để tìm người hướng dẫn cho mình. Dù gặp được thầy nhưng không mấy khi vị thầy chịu truyền dạy ngay mà còn quan sát học trò một cách cẩn thận và chỉ hé môi nói những gì cần thiết, vừa vặn để cho học trò vỡ lẽ ra thôi. Thay vì sử dụng những lý luận, rõ ràng rành mạch, họ lại tìm những câu nói ẩn dụ để bắt học trò phải vắt óc suy nghĩ, phải tìm hiểu sâu xa để tự mình tìm ra những điều muốn biết. Đó chính là điểm ưu việt của phương pháp giáo dục không cần sử dụng đến ngôn ngữ, văn tự, lý luận mà chỉ khêu gợi cho người học tự mình quán triệt lẽ đạo mà thôi. Đó cũng là huyền nghĩa của câu “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” (biết thì không nói, nói thì không biết).

Từ đó cứ vài hôm tôi lại đến thăm Phan đạo sĩ. Tôi nghĩ nếu ông không chịu tiết lộ phương pháp tu thì tôi vẫn có thể quan sát học hỏi được chút gì khi kề cận bên ông. Chúng tôi uống rượu, ngâm thơ, nghe thổi sáo, bàn luận về âm nhạc và văn chương nhưng Phan đạo sĩ luôn luôn tránh đề cập gì đến phương pháp tu đạo mà chỉ khiêm tốn nói rằng ông là kẻ quê mùa nơi thôn dã, không biết bàn luận về những đề tài trừu tượng. Tuy nhiên tôi thấy nơi ông vẫn có một cái gì kỳ lạ, một nhân cách điềm đạm, ung dung thư thái khác thường.

Một hôm chúng tôi đàm đạo về các phương pháp chiêm nghiệm như nhâm độn, sấm ký, địa lý, bốc phệ… Thật ra tôi nói và Phan đạo sĩ nghe thì đúng hơn vì ông vẫn giữ ý tránh đề cập đến những vấn đề này. Phần tôi lại cố tâm đem những đề tài ấy ra thảo luận để xem Phan đạo sĩ phản ứng thế nào, biết đâu trong lúc vui miệng ông chẳng tiết lộ thêm điều gì chăng? Hôm đó tôi đã nói:

- Theo tôi thì cách tính toán của khoa toán số và tử vi của người phương Đông rất đặc biệt và có nhiều điểm chính xác.

- Vậy ư? Ông cũng tin ở các môn này?

- Lúc đầu tôi không tin nhưng về sau tôi thấy có nhiều điểm rất đúng. Dĩ nhiên điều này còn tùy khả năng nghiên cứu và kinh nghiệm của người đoán số.

- Càng lắm kinh nghiệm lại càng chủ quan và có thành kiến chứ hay ho gì! Hơn nữa việc gì phải mất công tính toán lôi thôi, nếu biết tập trung tư tưởng để rung động đồng nhịp với sự rung động của người khác thì ta cũng có thể biết được nhiều điều rồi…

- Ông muốn nói người ta không cần phải tính toán theo vị trí các tinh tú hay giờ khắc khi sinh ra hay sao?

- Đúng thế. Một đứa con nít cũng có thể biết được nhiều việc quá khứ tương lai mà không cần phải học khoa tử vi.

- Tại sao như vậy?

- Trẻ con trong trắng ngây thơ, cơ thể chưa phát dục, tâm hồn còn thanh khiết, chưa bị ô nhiễm bởi các thành kiến nên có thể biết trước được nhiều điều, nhưng tiếc thay không mấy ai chú ý đến điều này…

- Đứa trẻ nào cũng làm được vậy hay sao?

- Không hẳn vậy. Đa số con trẻ đều có khả năng đó nhưng nếu chúng được nuôi dưỡng tại các đô thị, chịu sự chi phối của các thành kiến hoặc đường lối giáo dục có tính cách cưỡng ép, nhồi sọ thì sẽ mất đi khả năng này.

Tôi chụp ngay lấy cơ hội:

- Theo như ông nói thì Tiểu Ngọc có thể làm được việc này?

- Dĩ nhiên, nhưng chắc ông không tin như vậy?

- Tôi chỉ tin khi nào có bằng chứng rõ rệt.

Phan đạo sĩ gọi Tiểu Ngọc ra và nói với cô bé mấy câu. Ông thay đổi y phục, thắp một cây nhang trên bàn thờ lâm râm khấn vái. Tiểu Ngọc ngồi im trước bàn thờ tập trung tư tưởng một lúc rất lâu rồi ra hiệu cho tôi đưa bàn tay ra. Lúc đầu tôi tưởng cô bé muốn xem chỉ tay như các thầy bói thường làm, nhưng thay vì xem xét các đường nét trong lòng bàn tay, cô bé chỉ cầm lấy tay tôi áp lên trán mình một lúc cho đến khi Phan đạo sĩ lên tiếng:

- Con đã nhìn thấy gì rồi chứ?

Tiểu Ngọc gật đầu. Phan đạo sĩ thản nhiên ra lệnh:

- Vậy hãy nói đi.

Bằng một giọng đều đều, Tiểu Ngọc lên tiếng:

- Thưa cha, con thấy có một ngọn núi cao trên đỉnh phủ đầy tuyết trắng… Có một ngôi chùa lớn xây gần đỉnh núi và một người đàn ông đang đi qua đi lại quanh chùa nhưng không bước vào. Loanh quanh một lúc người này bỏ xuống nhưng rồi quay lại… Ông quan sát ngôi chùa thêm một lúc nữa rồi bỏ xuống núi. Lạ thay, đi một lúc ông ta lại quay lên, hình như ông ta lạc đường thì phải nhưng tại sao đã lên đến nơi rồi mà ông ta cứ ngó dáo dác như tìm kiếm cái gì? Hình như người này không thấy ngôi chùa hay không tìm được lối vào thì phải! Ông ta cứ đi lên đi xuống, ngó quanh ngó quẩn mãi… Thôi con chán rồi, không muốn xem nữa. Người này cứ đi lên rồi lại đi xuống, chả có gì đáng xem.

Tiểu Ngọc ngưng lại không chịu nói thêm nữa. Phan đạo sĩ trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi ra hiệu cho tôi rút tay về. Tiểu Ngọc ngồi im một lúc rồi cũng bỏ vào nhà trong. Tôi tò mò:

- Như vậy là sao?

Phan đạo sĩ không trả lời cứ ngồi yên suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu:

- Không có gì đâu! Có lẽ con bé không được khỏe. Mọi khi nó có thể xem được nhiều chuyện lắm kia mà! Thôi bỏ qua chuyện này, chúng ta hãy ra bên ngoài uống rượu. Để tôi đưa ông đi xem một hòn giả sơn mà tôi vừa đắp.

Tôi định hỏi thêm nhưng thấy Phan đạo sĩ có vẻ gượng gạo không muốn nói tiếp nên đành thôi. Phan đạo sĩ ra phía sau núi chỉ cho tôi thấy một hòn giả sơn gồm nhiều tảng đá chồng lên nhau khá lớn. Trên đó ông trồng ít rong rêu, vài cây thông nhỏ được cắt xén gọn ghẽ và mấy cái tháp nhỏ bằng đất nung. Hình như ông cố ý cho tôi thấy ngọn giả sơn này để gián tiếp nói rằng Tiểu Ngọc đã hình dung ngọn núi phủ tuyết qua nó nhưng tôi vẫn thấy có điều gì gượng gạo, không tự nhiên. Cách hòn giả sơn mấy bước là một vực thẳm dẫn xuống một dòng suối nhỏ, gió núi lồng lộng làm bộ quần áo của Phan đạo sĩ bay phất phới như ông đang bay trên không trung. Chúng tôi uống rượu một cách miễn cưỡng. Hình như Phan đạo sĩ có điều gì lo nghĩ nên ông tỏ ra trầm ngâm hơn ngày thường. Sau khi uống vài chén Hổ cốt tửu, tôi xin cáo từ và Phan đạo sĩ cũng không hề lưu khách như mọi khi.

Trên đường về tôi miên man suy nghĩ về cái “hình ảnh” mà Tiểu Ngọc “nhìn thấy”. Phải chăng cô bé ngây thơ kia có thể xem được điều gì trên bàn tay tôi? Tại sao Phan đạo sĩ lại chấp thuận cho con gái biểu diễn mà không chịu giải thích thêm? Vì sao ông có vẻ trầm ngâm khác thường? Phải chăng ông đã biết được điều gì? Liệu hình ảnh Tiểu Ngọc “nhìn thấy” có liên quan đến lời cảnh cáo của bà lão mù dưới chân núi không? Hình như cả hai đều có ý muốn nhắc nhở tôi về một điều chi? Suốt đêm tôi cứ trằn trọc không sao ngủ được nên sau cùng tôi nhất quyết tìm đến Phan đạo sĩ để hỏi cho ra lẽ.

Sáng hôm sau mặt trời chưa mọc tôi đã vội vã rời chùa tìm đến khu rừng trúc. Từ xa tôi thấy Phan đạo sĩ đang trầm ngâm trước hòn giả sơn như suy nghĩ điều gì. Nghe tiếng động ông ngẩng lên, nhìn thấy tôi ông vòng tay chào và có ý gọi tôi leo lên chỗ đó. Tôi vừa đi đến cách ông khoảng mười thước thì thấy Tiểu Ngọc ở đâu cũng đang đi đến. Cô bé liến thoắng vừa đi vừa nhảy nhót như một con chim non. Thay vì đi theo con đường mòn, cô bé vừa đi vừa nhảy lên những tảng đá nằm dọc theo con đường. Bất chợt một tảng đá bỗng nghiêng đi khiến cô bé mất thăng bằng, ngã nhào xuống vực. Biến cố xảy ra trong nháy mắt. Tôi hoảng hốt chưa kịp phản ứng thì Phan đạo sĩ đang đứng yên lặng bỗng nhún mình phóng ra đỡ lấy cô bé. Tuy thân pháp của ông đã nhanh nhưng ông chỉ bắt được dải lụa quấn ngang hông Tiểu Ngọc. Tôi thấy thân hình ông lảo đảo bên bờ vực, ông có thể giữ được thăng bằng không ngã nhưng khó có thể bắt được đứa con đã rơi xuống vực. Đột nhiên tôi thấy ông đập mạnh hai chân vào nhau rồi nhoài người ra cố gắng ôm lấy đứa con và… cả hai cha con đều ngã xuống vực sâu.

Nói thì lâu nhưng mọi sự chỉ xảy ra trong chớp mắt. Tôi lặng người không biết phải phản ứng thế nào. Khi hoàn hồn, tôi chạy ra bờ vực nhìn xuống nhưng ở dưới sương mù dày đặc không thể trông thấy gì. Tôi biết vực đó không sâu lắm, chỉ độ năm, sáu chục thước nhưng đã ngã xuống đó nếu không vỡ sọ thì cũng gãy hết xương. Hoảng hốt, tôi chạy men theo khe núi để tìm đường xuống đáy vực bất chấp gai góc, bờ bụi hay những tảng đá lởm chởm nhọn hoắt. Tôi cắm đầu chạy dọc theo sườn núi cho đến khi nghe tiếng nước chảy róc rách và chân bắt đầu dẫm lên những mảng rong rêu ướt sũng. Đầu óc tôi như tê liệt vì lo lắng, tôi không biết phải làm sao và cứ cắm đầu leo cho đến khi thấy một bóng người đứng lù lù trước mặt: Phan đạo sĩ. Tôi kinh ngạc đến sững sờ khi nhìn thấy Phan đạo sĩ ôm chặt Tiểu Ngọc trên tay, hai mắt cô bé nhắm nghiền, mặt mày trắng bệch như không còn chút sinh khí nào. Phan đạo sĩ nói khẽ:

- Cháu nó hoảng hốt đến thất thần nhưng nếu nghỉ ngơi một lúc may ra sẽ hồi tỉnh lại.

- Wow! Thank God…

Tôi mừng rỡ hét lớn nhưng chợt nhớ rằng mình vừa nói tiếng Anh nên vội đổi lại:

- Cháu bé không sao chứ?

- Tôi không biết… Có lẽ cần phải đưa vào bệnh viện khám nghiệm xem thế nào. Phiền ông chạy về chùa xin một cái cáng đến đây.

- Để tôi đi gọi thêm người tiếp tay…

Vừa nói xong, thốt nhiên tôi cảm thấy có điều gì kỳ lạ lắm. Tiểu Ngọc ngã từ trên núi xuống suối, quần áo cô bé ướt sũng và dính đầy bùn nhưng quần áo của Phan đạo sĩ vẫn khô nguyên, chỉ bị ướt từ chân đến đầu gối thôi. Không lẽ ông ta đạp xuống nhẹ nhàng như một con chim? Từ trên cao ngã xuống, dù có tập cách nhào lộn thế nào, người ta cũng không thể đáp xuống bằng hai chân được. Có lẽ vì ngạc nhiên nên tôi buột miệng nói ngay:

- Nhưng… nhưng làm sao ông lại có thể đứng thẳng được?

Phan đạo sĩ ngạc nhiên nhìn tôi một lúc như không hiểu tôi muốn nói gì nhưng ông cũng trả lời:

- Dĩ nhiên tôi phải đáp xuống đất bằng hai chân, nước tại đây không sâu, chỉ đến đầu gối thôi… May là chỗ này không có nhiều đá ngầm…

Đến khi đó dường như hiểu ý tôi, ông bật cười:

- À, tôi quên rằng anh bạn chưa biết gì về Đạo cả… Như tôi đã nói, “luyện đơn” đâu phải để uống mà chỉ là một kỹ thuật đi, đứng, nằm, ngồi làm sao để tuyệt đối giữ được sự quân bình giữa thân và tâm, giữa mình và thiên nhiên. Sự quân bình này là yếu tố căn bản để hòa nhập với vũ trụ. Đó là mục đích của phương pháp luyện đơn. Danh từ “đơn” ám chỉ sự hòa nhập vào bản thể của trời đất, trở về với nguồn cội hay huyền đồng. Phương pháp của nó là sự điều khí và giãn thể chứ đâu phải cất lò luyện thuốc trường sinh để uống như người ta thường thêu dệt trong các tiểu thuyết. Nhưng khoan đã, phiền ông cho gọi người mang một cái cáng đến đây để đưa cháu lên núi.

Tôi gật đầu chạy ngược về chùa gọi người mang kiệu đến. Có lẽ vừa mệt mỏi vừa hoảng hốt nên tôi luống cuống nói mãi không ra hơi nhưng người ta cũng hiểu, một mặt các tăng sĩ cho người mang kiệu chạy đi đón Tiểu Ngọc, mặt khác người ta chuẩn bị ngay một chiếc thuyền chở bệnh nhân về Hồng Kông vì tại Lan đảo không có bệnh viện.

Chiều hôm đó, sau khi tiễn Phan đạo sĩ xuống tàu, tôi trở về Bảo Liên tự. Nhân dịp có một số khách hành hương đang tụ họp ăn uống, tôi mang chuyện này ra kể. Câu chuyện người đạo sĩ ẩn tu sau Thái Vũ Sơn khi ngã xuống vực sâu đã có thể đáp xuống đất bằng hai chân khiến nhiều người xuýt xoa thán phục. Họ trầm trồ bàn tán và thêu dệt ngay cho ông này có khả năng khinh công “đăng bình độ thủy” khiến câu chuyện càng thêm phần hấp dẫn. Có người quả quyết đạo sĩ vốn là đệ tử của chùa

Thiếu Lâm, một trung tâm võ thuật nổi tiếng của Trung Hoa khiến cho vị tri khách tăng phải lắc đầu:

- Làm gì có chuyện gã đó xuất thân từ chùa Thiếu Lâm! Chúng tôi biết hắn từ lâu rồi. Hắn là người đồng hương với vị tăng trông coi việc chuông mõ trong chùa. Nếu muốn biết thêm về hắn thì cứ đến hỏi vị này là xong…

Ngay lúc đó một nhà sư già ở ngoài bước vào. Vị tri khách vội nói ngay:

- Vừa nhắc đến huynh thì huynh đến. Mọi người đang bàn tán về gã đạo sĩ vẫn ẩn cư ở phía sau núi đây này.

Vị sư già gật đầu:

- Phải chăng quý thí chủ muốn biết về Ngân Hà đạo sĩ? Lão tăng và hắn là người đồng hương, quen biết nhau từ thuở nhỏ.

Mọi người vội nhao nhao lên hỏi:

- Phải chăng hắn rất giỏi võ thuật?

- Võ thuật ư? Lão không tin hắn học võ. Theo sự hiểu biết của lão thì hắn chỉ là kẻ chuyên thổi sáo, ngâm thơ mà thôi.

- Phải chăng hắn xuất thân từ chùa Thiếu Lâm?

- Không đâu! Từ nhỏ đến lớn hắn chỉ sống ở Chung Sơn, chuyên xem địa lý, phong thủy, chọn ngày tốt xấu.

- Phải chăng hắn biết khinh công?

- Không đâu! Hắn chỉ sở trường về âm nhạc.

Thấy nhân vật mà họ vừa dựng lên không được như ý, mọi người liền tỏ ra lạnh nhạt không muốn hỏi thêm gì nữa. Sau vài câu đối đáp lấy lệ, họ xoay ra bàn chuyện thời tiết, buôn bán nhưng tôi tò mò muốn biết thêm về Phan đạo sĩ nên kéo vị sư già ra ngồi một bàn riêng.

- Xin ngài cho biết sự liên hệ giữa ngài và Phan đạo sĩ.

- Chúng tôi đều xuất thân từ Chung Sơn. Khi còn nhỏ lão tăng theo hầu một đạo sĩ trong vùng là Kim Tinh thượng nhân. Vị này có hai đệ tử là Ngân Hà và Thiết Tháp. Để lão tăng nhớ xem nào, Thiết Tháp sinh năm Hợi, hơn lão tăng mười tuổi nhưng Ngân Hà còn hơn Thiết Tháp mấy tuổi nữa vì gã này đã gọi hắn là đại ca.

Tôi nóng ruột hỏi dồn:

- Như vậy ngài bao nhiêu tuổi rồi?

- Năm nay lão tăng đã ngoài sáu mươi.

- Như vậy, ít nhất Ngân Hà đạo sĩ cũng ngoài bảy mươi hay tám mươi chi đó?

- Đúng thế, ít ra hắn cũng gần tám mươi.

- Nhưng… nhưng làm sao được, đứa con gái của ông ta mới chỉ lên bảy hay tám tuổi thôi mà!

Vị sư già bật cười:

- Như vậy thì đã sao? Ông lão bảy mươi vẫn có thể sinh con được kia mà. Đa số những người tu đạo đều có dáng dấp trẻ hơn người thường. Họ biết cách cải lão hoàn đồng để tự do tiêu dao phóng túng. Cũng vì thế, Ngân Hà đạo sĩ không dám trở lại Chung Sơn nữa.

- Tại sao vậy? Ông ta đã làm gì?

- Hiển nhiên hắn ta đã phạm một lỗi rất lớn, phải cải tên đổi họ, bỏ xứ ra đi, không dám nhìn ai nữa.

- Tại sao vậy?

- Chuyện này nói ra thì dài lắm, để lão kể vắn tắt cho ông nghe vậy. Ngân Hà đạo sĩ theo học với Kim Tinh thượng nhân rất lâu và sở đắc nhiều điều đặc biệt. Tuy lớn tuổi rồi ông trông vẫn như ở tuổi trung niên, râu tóc không hề bạc, cử chỉ lúc nào cũng an nhiên tự tại. Ông có tài chiêm nghiệm, đoán số, xem ngày tốt xấu, ngoài ra còn nổi tiếng là một nhạc sĩ thổi tiêu rất hay. Cách đây khoảng mười năm chi đó, miền Chung Sơn có một thiếu nữ rất đẹp, xuất thân trong một gia đình quyền quý, trai tráng trong vùng đều say mê đắm đuối. Nhưng cô này đã được hứa hôn cho con trai họ Trần, một trại chủ trong vùng, từ khi cả hai còn bé. Trần gia cũng là một gia tộc uy thế, vừa giàu có lại vừa giỏi về võ thuật. Lão trại chủ với môn Thiết Tý Quyền nổi danh thiên hạ vô địch, không mấy ai chịu nổi một quyền của ông. Ông dốc lòng truyền dạy tuyệt kỹ này cho các con nên ai nấy đều mình đồng da sắt, quyền pháp mạnh bạo vô cùng. Do đó dù

say mê sắc đẹp cô gái nọ nhưng không mấy ai dám đụng đến uy danh Trần gia trang.

- Trước ngày cưới khoảng vài tháng, cha cô gái bị bệnh qua đời. Gia đình cử hành tang lễ rất long trọng, cho mời các vị tăng cũng như đạo sĩ đến làm lễ cầu siêu. Ngân Hà đạo sĩ được mời đến làm chủ các nghi thức tế lễ và chọn ngày chôn cất. Chẳng hiểu vì sao vị đạo sĩ đã ngoài bảy mươi này lại rung động trước vẻ đẹp của cô tiểu thư khuê các kia. Ông trổ tài thổi sáo, ngâm thơ dẫn dụ cô gái nọ. Tuy là gái đã hứa hôn nhưng cô ta cũng phải lòng ông này ngay…

Thật đáng trách, cha vừa chết mà con gái đã ăn nằm ngay với trai. Dĩ nhiên họ đâu thể kéo dài mối tình vụng trộm này mãi được. Đạo sĩ không thể ở lâu trong nhà người chết sau tang lễ và cô gái kia cũng không thể giao thiệp với ông này mà không bị dư luận đàm tiếu. Sau đám tang vài hôm, cô gái thu thập tư trang bỏ nhà trốn theo đạo sĩ. Sự kiện này khiến cả vùng xôn xao náo động. Uy tín của Trần gia trang bị thương tổn nặng nề, gia đình cô gái cũng xấu hổ không dám nhìn ai hết.

- Phải chăng vì việc cô ta đi theo một người lớn tuổi?

- Không phải vậy. Việc một cô gái trẻ ăn nằm với một người đàn ông lớn tuổi không quan trọng, nhưng việc một người đàn ông dụ dỗ một thiếu nữ đã hứa hôn là một biến cố lớn, không thể chấp nhận được.

- Nhưng cô ta chưa lập gia đình kia mà!

- Đã hứa hôn thì coi như đã thành vợ người khác rồi, một khi đã nhận lễ vật, đã đồng ý, là một lời hứa danh dự không thể thay đổi.

- Nhưng khi hứa hôn cô gái còn bé, đâu đã biết gì…

- Điều này không quan trọng. Con cái không có quyền cãi cha mẹ, cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó. Ngoài ra cô còn mang tội đại bất hiếu, cha vừa chết chưa xanh mồ mà đã dám bỏ nhà theo trai. Thật tồi bại! Do đó cô gái chết cũng đáng kiếp lắm!

- Làm sao cô ta chết?

- Thì còn làm sao nữa! Có con gái như vậy thì cha mẹ nào chịu nổi, phải vặn cổ nó đi cho rồi…

- Cái gì? Ai vặn cổ ai?

- Thì còn ai vào đây nữa? Chính cha cô ta hay tổ tiên dòng họ đã trừng trị cô ta chứ sao…

- Làm sao được? Ông ta đã chết rồi kia mà.

- Chết thì đã sao? Nếu chết không yên thì người ta trở thành ma quỷ chứ làm sao siêu thoát được!

- Xin ông nói rõ hơn…

- Ngân Hà đạo sĩ và đứa con gái tồi bại đó bỏ Chung Sơn, cải danh ẩn tích trốn đi Hồng Kông. Chỉ vài tháng sau cô nọ có thai. Có lẽ vì thế nên cô ta còn sống thêm được ít tháng nữa.

- Tại sao vậy?

- Dù muốn trừng phạt đứa con bất hiếu nhưng cha mẹ nào lại trừng phạt cả đứa cháu vô tội? Do đó lúc có thai cô gái vẫn bình thường nhưng sau khi sinh xong thì họ mới ra tay trừng trị. Vừa sinh xong đứa bé, cô nọ bị hậu sản chết ngay. Người ta kể rằng cô đã kêu la than khóc, van lạy cha mẹ rối rít trong cơn mê sảng nhưng vô ích. Chuyện này các bà mụ tại Hồng Kông đều biết, họ kể rằng cô đã rú lên từng hồi như heo bị chọc tiết trước khi chết. Ngân Hà đạo sĩ vừa có con xong đã phải lo chôn cất vợ. Tôi nghe nói đứa bé xinh lắm, xinh như mẹ nó vậy… Thật là tội nghiệp!

- Nhưng làm gì có người cha nào nỡ lòng làm việc đó?

- Cái gì? Một người đã chết còn cần con cháu hơn một người còn sống. Nếu không, lấy ai nhang khói thờ phụng? Ai cúng kiếng hay đốt vàng mã cho kẻ dưới âm cung? Tôi quên không kể rằng gia đình đó không có con trai nối dõi mà chỉ có độc một mụn con gái. Họ thương lượng với Trần gia trang để sau khi cưới, con rể sẽ đổi họ trở thành người nhà vợ để nối tiếp dòng họ. Ông không thấy sao, việc Ngân Hà và đứa con gái tồi tệ đó ăn nằm với nhau không những đã làm tuyệt tự dòng họ mà còn khiến cho người chết không còn ai nhang khói thờ phụng nữa… Tội bại hoại gia phong và làm tuyệt tự dòng giống rất nặng, không thể tha thứ được.

- Nhưng Phật giáo đâu có dạy như vậy?

- Đúng thế. Nhưng họ đâu phải tín đồ Phật giáo mà theo truyền thống thờ cúng tổ tiên. Tuy nhiên tôi cũng suy nghĩ về điều này nhiều lắm. Trước sau ai cũng chết nhưng nếu chết mà không được thờ cúng thì biến thành quỷ đói còn gì. Do đó ngay như tôi, một kẻ tu hành cũng thu nhận một gã đệ tử để sau này khi chết đi cũng có người thờ cúng. Điều này thật ra không đúng với Phật pháp nhưng… dù sao người ta cũng phải biết lo toan cho số phận mình ở cõi bên kia chứ!

Tuy ngạc nhiên vì thái độ của vị sư già nhưng tôi vẫn nóng lòng muốn biết về số phận của Phan đạo sĩ:

- Rồi sao nữa? Phải chăng Ngân Hà đạo sĩ chôn cất vợ xong liền về đây ẩn dật?

- Dĩ nhiên rồi. Hắn đâu thể sống ở Hồng Kông mãi được vì có thể bị lộ tung tích. Dù có đi đâu thì vẫn có thể gặp người của gia đình cô gái nọ hoặc của Trần gia trang. Do đó hắn đưa con gái ra đây ẩn dật phía sau núi. Đã từng sống đời đạo sĩ thì trở về sống nơi hoang vu tịch mịch cũng dễ dàng thôi, nhưng dù sao chuyện đã qua cũng để lại một vết thương lòng khó có thể xóa được. Thỉnh thoảng lúc đêm khuya, hắn mang tiêu ra thổi nhưng tiếng tiêu của hắn không còn ung dung tự tại như xưa mà đượm một vẻ xót xa buồn chán chi đó. Ôi chao, vừa nhắc đến tiếng tiêu mà tôi suýt quên rằng mình còn phải trở về gác chuông vì đã đến giờ đánh chuông rồi.

Vị sư già hấp tấp vòng tay chào từ biệt rồi bước thẳng ra cửa. Quanh phòng ăn, mọi người vẫn ồn ào bàn tán những tin tức thời sự, chuyện làm ăn buôn bán cùng những vui buồn của cuộc đời…

Ít lâu sau tôi biết Tiểu Ngọc được đưa vào bệnh viện Đông Hoa tại Hồng Kông. Cuộc khám nghiệm cho thấy cô bé bị chấn động mạnh ở đầu, phải điều trị mấy tháng mới bình phục. Trong thời gian đó, Phan đạo sĩ luôn luôn ở sát bên con gái. Tôi không có dịp gặp lại ông ta và Tiểu Ngọc, phần vì bận việc, phần vì tôi nghĩ mình đã quấy rầy đời sống lặng yên của họ hơi nhiều.

Câu chuyện về Phan đạo sĩ đã giúp tôi nhận thức thêm được một khía cạnh khác của đời sống, về những biến động bất ngờ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Dù cuộc đời có lặng yên như biển cả buổi bình minh, nhưng luôn luôn vẫn có những đợt sóng ngầm, chờ đợi một cơn gió, một cơ hội để tạo thành những cơn sóng thần dữ dội vùi dập tất cả. Tuy là một đạo sĩ công phu tu tập, hàm dưỡng trong nhiều năm mà chỉ trong giây phút cũng bị lôi cuốn vào những phiêu lưu tình cảm bất ngờ để sầu hận cho cả cuộc đời. Dù đời sống nhẹ nhàng êm đềm như một bức tranh nhưng trong cái đẹp đó vẫn có những bất trắc xảy ra. Hình ảnh Tiểu Ngọc đang vui vẻ nhảy chân sáo trên những tảng đá bỗng ngã lộn xuống vực đã giúp tôi nhận thức được sự vô thường trong cuộc đời này. Từ đó tôi ý thức nhiều hơn về sự mong manh, phù du của kiếp người và biết cẩn thận hơn trong hành động, cử chỉ của mình. Trong thời gian còn lại tại Lan đảo, tôi tập trung nỗ lực để thiền định và quán tưởng vì biết rằng bánh xe sinh tử vẫn quay đều, nếu không ý thức được tính cách vô thường, nay còn mai mất, lúc có lúc không của kiếp người thì người ta cứ mãi mãi chịu sự chi phối của nó. Dĩ nhiên muốn thoát khỏi luân hồi, con người phải tinh tấn nỗ lực, phải trải qua vô số kiếp, vượt qua nhiều thử thách lớn lao. Tuy nhiên dù đường xa vạn dặm cũng bắt đầu bằng một bước chân, dù biển khổ mịt mù nhưng một điểm sáng trong tâm cũng đủ giúp chúng ta nhận thức rằng sau đám mây mù kia vẫn có một chân trời xán lạn và chỉ có giải thoát mới thực sự là con đường đúng đắn nhất để chấm dứt mọi khổ não.