Chương 6 Ngũ Đài Sơn
Nếu miền nam Trung Hoa có những thửa ruộng xanh tươi chạy dài đến tận chân trời thì miền bắc lại có những dãy đồi chập chùng bát ngát và Vạn Lý Trường Thành. Đó là một bức tường khổng lồ, trông như con rắn chạy dọc từ Liêu Đông đến Cam Túc (gần Turkestan ngày nay). Thật khó có thể tưởng tượng từ năm 206 trước Tây lịch, người Trung Hoa đã xây cất một công trình kiến trúc vĩ đại như thế. Hiển nhiên vị hoàng đế lúc đó, Tần Thủy Hoàng, đã tốn không biết bao nhiêu tài sản và sức dân để xây dựng công trình này. Sử sách nói rằng hàng triệu người đã chết thảm, lòng oán than đã lên đến trời xanh. Tuy có công thống nhất Trung Hoa và mở mang bờ cõi nhưng người Trung Hoa vẫn chỉ coi Tần Thủy Hoàng như một bạo chúa, sử dụng bạo lực để củng cố quyền hành riêng của mình. Lịch sử Trung Hoa có nhiều bạo chúa nhưng không ai có thể sánh kịp ông vua này về mức độ tàn bạo, dã man và việc hoàn toàn tiêu hủy di sản tiền nhân qua chính sách “đốt sách, chôn nho”. Biết bao nhiêu tâm huyết và tinh hoa của người xưa đã bị hủy hoại bởi ngọn lửa Tần.
Cách Vạn Lý Trường Thành không xa, có một công trình xây cất hết sức vĩ đại, được người dân Trung Hoa nhắc đến một cách hãnh diện: Công trình tạc tượng và điêu khắc vào núi đá ở thành phố Đại Đồng mà nổi tiếng nhất là động Vân Cương thuộc núi Ngũ Châu, hiện được coi như một kỳ quan của thế giới. Theo sử sách, vua Ngụy Văn Đế rất sùng mộ đạo Phật, đã tuyển một số thợ giỏi cho công trình tạc tượng Phật lên núi đá. Vì tính chất vĩ đại của công trình này, nhiều thợ xin mang cả gia đình đến cư ngụ. Vua bèn cấp cho gia đình những người này ruộng nương để cày cấy, miễn thuế khóa, đặt ra nhiều đặc quyền để họ có thể hoàn tất công trình. Do sự biệt đãi hiếm có ấy, nhiều người từ khắp nơi cũng kéo đến xin làm. Theo tài liệu, có lúc đã có hơn 50.000 người cư ngụ và làm việc tại đây, biến miền biên thùy hoang vu này thành một thành phố trù phú có tên là Đại Đồng.
Trải qua các triều đại, vật đổi sao dời nhưng các vua chúa đời sau, từ nhà Tùy, nhà Đường đến nhà Tống thấy công trình tạc tượng tốt đẹp nên vẫn giữ nguyên. Trong lịch sử Trung Hoa, Đại Đồng là thành phố duy nhất không hề trải qua một trận binh đao, dân chúng trong vùng lúc nào cũng được yên ổn làm ăn.
Những người thợ khắc đá cứ tiếp tục làm việc mà không bị gián đoạn bởi thời cuộc, cha truyền con nối từ đời này qua đời khác nên trải qua hàng ngàn năm, công trình điêu khắc tại đây cũng không còn thống nhất như lúc đầu mà là nhiều công trình khác nhau hợp lại. Mỗi nhóm thợ tự ý sáng tác những tác phẩm nghệ thuật riêng chứ không theo một kế hoạch chung. Theo tôi, có lẽ chương trình lúc đầu cũng không quá lớn lao như vậy, nhưng theo thời gian, những người thợ đã tự ý tìm môi trường sáng tác theo cảm xúc cá nhân hay phe nhóm. Một số tìm vào những hang động để tạc, số khác đắp những pho tượng lộ thiên khổng lồ dọc theo sườn núi và kết quả là tạo thành một kỳ quan vĩ đại không tiền khoáng hậu. Có đến hơn hai trăm động đá, được xếp vào năm nhóm. Mỗi động có khoảng vài ngàn công trình điêu khắc, mỗi công trình lại có những đường nét, sự tích khác nhau.
Trong lịch sử nhân loại, có lẽ đây là một kế hoạch kiến trúc kéo dài lâu nhất và có những đặc thù hy hữu nhất. Hãy thử tưởng tượng mấy ngàn người thợ khắc đá ung dung làm việc từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ sau, chẳng cần biết đến triều đại nào đang cai trị, chẳng màng đến thế sự, mà chỉ đem hết tâm hồn phục vụ cho nghệ thuật và cho lý tưởng thanh cao. Trong các công trình kiến trúc của loài người, từ Vạn Lý Trường Thành đến các Kim Tự Tháp, công trình nào cũng làm đổ máu dân lành để hoàn tất giấc mộng điên cuồng của các bạo chúa. Riêng công trình tại núi Ngũ Châu thì khác hẳn, nó được đặt ra trên sự tự nguyện, trong một tinh thần nhân ái, qua những sắc phong của các bậc quân vương và kết quả là đã có hàng trăm ngàn tác phẩm điêu khắc trên đá tuyệt vời, không bút mực nào có thể tả xiết.
Vân Cương là một động lớn gồm nhiều động nhỏ hợp lại. Mỗi động lại có một pho tượng Phật chính tại vị trí trung tâm và nhiều công trình điêu khắc phụ rải rác chung quanh. Đa số các pho tượng chính đều rất lớn, thí dụ như pho tượng Phật ở động số 1 lớn đến nỗi tôi có thể đứng gọn trong lòng bàn tay của pho tượng một cách dễ dàng. Vì hang động thì hẹp mà các pho tượng lại quá lớn nên ít ai có thể chiêm ngưỡng trọn vẹn công trình nghệ thuật vĩ đại này. Dù muốn người ta cũng chỉ có thể ghi nhận một phần của pho tượng vào phim ảnh chứ không thể chụp toàn thể vì diện tích chật hẹp và giới hạn của hang. Hầu hết các bức ảnh chụp tại đây đều ghi nhận các pho tượng phụ, tương đối nhỏ, chạm trổ gần cửa hang vì có đủ ánh sáng, ít ai có thể chụp được các pho tượng chính nằm sâu bên trong [5]. Vì hang động nào cũng có hàng trăm, hàng ngàn tác phẩm điêu khắc nên không ai bước vào đây mà không bị một cảm giác kỳ lạ tràn ngập lôi cuốn. Người ta cảm tưởng như mình đang đứng trong một thế giới huyền ảo mông lung nào khác chứ không phải tại Trung Hoa. Đa số du khách chỉ thăm viếng một vài động chính chứ ít ai chịu bỏ thời giờ tìm đến những hang động nhỏ bé, hẻo lánh, nằm khuất nẻo ở trong sâu.
Sau khi chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật chính, tôi lần mò dọc theo những vách đá hẹp của các hang động phụ để xem xét các công trình nghệ thuật mà ít ai để ý đến. Dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn nến nhỏ, tôi khám phá ra nhiều công trình điêu khắc sơ sài trên vách, đa số đường nét còn vụng dại chứ không sắc sảo như các tác phẩm chính. Có lẽ đây là công trình của những người thợ phụ, người mới học nghề hay con cháu của những người thợ chính đã tìm đến đây để thực tập cho quen tay. Theo ý tôi, người ta phải mất ít nhất một tuần lễ mới có thể thưởng thức trọn vẹn các công trình điêu khắc tại động Vân Cương nhưng ngoài ra quanh Đại Đồng còn có nhiều hang động khác mà ít ai nói đến. Một nhà nghiên cứu thực sự phải bỏ ra vài tháng hay cả năm mới có thể xem hết được các công trình điêu khắc quanh đây được.
Từ Đại Đồng đi Ngũ Đài Sơn mất khoảng tám ngày đường bộ. Vì lý do an ninh, ít ai dám di chuyển một mình mà thường nhập với nhau thành một đoàn. Phái đoàn của chúng tôi gồm có bốn chục người. Ngoại trừ vị lạt ma người Mông Cổ, một ông lão người Mãn Châu và tôi có đủ tiền thuê lừa để cưỡi, tất cả đều đi bộ, chỉ sử dụng lừa, ngựa hay lạc đà để chuyên chở hành lý mà thôi. Mặc dù trước đó không quen nhau nhưng khi đi khoảng nửa ngày, tất cả đều thân mật vui vẻ, nói chuyện như pháo ran. Một số vừa đi vừa kể những câu chuyện truyền khẩu của dân du mục hay các giai thoại cổ tích. Hiển nhiên cũng có người đã biết những chuyện này nên hễ người này mệt thì lại nhường cho người khác kể tiếp… cứ thế câu chuyện lại tiếp diễn, truyền từ miệng người này qua người khác. Đi khoảng vài giờ, đoàn người lại dừng chân để nấu trà và nghỉ ngơi. Một số thương khách mang theo thuốc phiện để hút, một số khác nhai lá cây nha phiến. Họ cho biết nếu không sử dụng những thứ này thì khó có thể chịu đựng những chuyến hành trình gian nan từ năm này qua năm khác được.
Sau khi đi được vài hôm, con lừa tôi cưỡi bỗng giở chứng hất tôi ngã xuống đất mấy lần. Ông già người Mãn Châu chạy đến xem rồi nói ngay:
- Con lừa này mắc bệnh rồi! Tôi chất vấn gã chăn lừa:
- Tại sao anh lại đem một con vật bệnh tật như thế này ra cho mướn?
- Tại vì tôi chỉ có mỗi con lừa này thôi!
- Bây giờ anh tính sao đây? Tôi không thể cưỡi lừa được nữa và dĩ nhiên phải đi bộ, như vậy tôi không thể trả tiền mướn lừa cho anh được.
- Không sao đâu, để tôi xem…
Gã chăn lừa xem xét con vật một lúc rồi rút trong mình ra một cây kim dài đâm luôn vào mặt con vật. Tôi giận quá hét ầm lên:
- Đồ trứng rùa! Sao anh lại làm như vậy?
- Tại sao lão gia dám gọi tôi là trứng rùa?
- Mi không phải là đồ trứng rùa thì là gì nữa đây!
- Không, tôi không phải là trứng rùa!
“Trứng rùa” là câu chửi rất nặng đối với người Trung Hoa, hiển nhiên gã chăn lừa rất khó chịu về câu nói đó. Tôi không muốn cãi vã thêm, hầm hầm bỏ đi xuống cuối đoàn, không ngó ngàng gì đến gã nữa. Dĩ nhiên tối hôm đó, gã chăn lừa không đến dựng lều hay mang trà đến cho tôi như thường lệ nên tôi phải ngủ chung với vị lạt ma người Mông Cổ. Tuy nhiên sáng hôm sau, khi ông già người Mãn Châu dắt con lừa lại cho tôi cưỡi, tôi thấy con vật có vẻ thoải mái, thuần hậu hơn trước. Đến khi đó tôi mới biết gã chăn lừa đã sử dụng cây kim nhọn đâm vào huyệt vị gần mũi để chữa bệnh chứ không phải hành hạ con vật như tôi đã nghĩ. Tôi hối hận tìm đến gã chăn lừa xin lỗi, sau khi chính thức công nhận rằng gã không phải là “đồ trứng rùa” trước mặt mọi người. Gã chăn lừa vui vẻ khoe rằng gã đã học nghệ thuật này từ một vị lương y nổi tiếng. Theo gã, trên mình con lừa có hai mươi mốt huyệt vị chính, mỗi huyệt liên quan đến một số bộ phận trong cơ thể. Nếu biết dùng kim châm vào các huyệt vị để giải tỏa các luồng khí bị nghẽn, người ta có thể chữa được hầu hết các chứng bệnh thông thường.
Ngũ Đài Sơn là một rặng núi có năm ngọn núi chính nhô lên cao như những cái tháp. Đây là một dãy núi lớn đến hàng chục ngọn cao thấp khác nhau nhưng đặc biệt có năm ngọn cao hơn cả, sừng sững như năm cái đài nên được gọi là Ngũ Đài. Đúng như lời người khách tại Bắc Kinh đã tả, phong cảnh quanh đây tuyệt đẹp. Từ xa người ta đã thấy những đồi cỏ mênh mông xanh rì chạy dài đến tận chân trời. Đường lên núi quanh co, nhiều đoạn rất dốc, mọi người đều bỏ lừa đi bộ và phải khó nhọc lắm mới đi được. Đường xuyên sơn gập ghềnh, lúc lên cao khi xuống thấp, có những eo núi bị mây trắng phủ kín, gần như không nhìn thấy gì, có những thung lũng xanh tươi, đầy kỳ hoa dị thảo. Vì là mùa xuân, cây cối nở hoa thơm ngát, có những vùng được hoa phủ kín thung lũng như những tấm thảm muôn màu, đẹp tuyệt vời, không bút mực nào có thể tả xiết. Mặc dù rặng Ngũ Đài nằm trên một cao nguyên, khí hậu ôn đới, lạnh và khô, nhưng các dãy núi dựng đứng như tường thành đã cản mây từ biển thổi vào, bao hơi ẩm đều tích tụ và dồn xuống thung lũng quanh đó nên cây cối nơi đây rậm rạp, xanh tươi không thua kém gì các dãy núi thuộc khí hậu nhiệt đới ở phía nam Trung Hoa. Tuy đã đi thăm nhiều danh lam thắng cảnh nhưng thú thật, tôi không thấy nơi nào cảnh đẹp như nơi này. Theo chỗ tôi biết, rặng Ngũ Đài có đến hơn ba trăm tu viện lớn nhỏ nằm rải rác khắp nơi. Hầu hết các tu viện đều phản ánh đường nét kiến trúc đặc biệt của những sắc dân dựng lên nó. Tu viện của người Tây Tạng với những ngọn tháp nhọn, tu viện của người Trung Hoa với mái chùa cong, chạm trổ rồng phượng, và tu viện của người Mông Cổ, kiến trúc đơn sơ nhưng mái lại dát vàng óng ánh…
Người trưởng phái đoàn cho biết, tất cả các tu viện Tây Tạng đều đặt dưới quyền điều khiển của một vị lạt ma trưởng lão gọi là Kushog, quyền hành tương đương như một vị giám mục hoặc hồng y của Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên các chùa Trung Hoa hay Mông Cổ thì hoàn toàn độc lập, không thuộc sự chi phối của ai cả. Trừ Phật giáo Tây Tạng có một tổ chức chặt chẽ từ trên xuống dưới, Phật giáo Trung Hoa hay Mông Cổ không hề được tổ chức thành các hệ thống như thế. Lạt ma Kushog cư trú tại một tu viện chính rất lớn gọi là Pusa Ting. Đó là một tu viện kiến trúc hết sức đặc biệt về đủ mọi phương diện. Từ xa người ta đã nhìn thấy những bức tường gạch màu đỏ, những bậc thang bằng đá trắng dẫn lên ngôi chùa chính với mái ngói vàng rực rỡ không thua Cấm thành tại Bắc Kinh bao nhiêu. Trong những ngôi chùa tại Ngũ Đài, Pusa Ting là ngôi chùa lớn nhất, vĩ đại nhất và kiến trúc đặc biệt nhất [6]. Ngoài ngôi chùa chính kiến trúc đồ sộ trang nghiêm, còn có hơn tám chục ngôi chùa nhỏ vây quanh đó nữa. Diện tích Pusa Ting lớn đến nỗi phải mất hơn một tuần tôi mới có thể đi thăm viếng hết tu viện này. Có hàng chục chánh điện lớn nhỏ với các pho tượng bằng vàng khối đúc rất đẹp. Có những bức tường gạch lớn được quét vôi rồi vẽ các bức họa lên trên, đường nét sắc sảo trông như thật. Có những thư viện với rất nhiều sách vở, kinh điển hết sức quý giá. Tôi được đưa vào một trú phòng đặc biệt, dành cho các bậc thượng khách. Đó là một căn phòng rộng với đồ đạc bằng gỗ quý, ngay cả tấm thảm lót dưới sàn cũng là một công trình nghệ thuật đặc biệt: Về sau tôi được biết rằng từ nhiều thế kỷ trước, các đoàn khách thương thường mang phẩm vật đến đây dâng cúng vào tu viện; các vua chúa nhà Mãn Thanh cũng đối xử hết sức đặc biệt với Lạt ma Kushog, cung cấp cho tu viện nhiều thứ đặc biệt để giữ tình hòa hảo giữa hai quốc gia Trung Hoa và Tây Tạng. Do đó tu viện Pusa Ting được trang hoàng bằng những đồ đạc đặc biệt lộng lẫy không khác cung điện của một vị vua là bao.
Lúc đầu tôi chỉ định ghé thăm Ngũ Đài Sơn khoảng vài tuần là nhiều nhưng chỉ ít lâu sau tôi được biết sinh viên đại học Bắc Kinh nhất định bãi khóa cho đến khi chính quyền thay đổi chính sách đối với người Nhật tại Liêu Đông. Hiển nhiên đây là một vấn đề hết sức nan giải vì khi đó quyền lực của người Nhật rất mạnh, đang đe dọa thôn tính Trung Hoa. Qua những bức thư liên lạc với nhà trường, ban giám đốc khuyên tôi không nên trở về Bắc Kinh vì tình hình càng ngày càng căng thẳng và bất an. Vài tháng sau, phong trào bài ngoại được khởi xướng, sự có mặt của một người ngoại quốc như tôi tại Bắc Kinh hoàn toàn bất lợi nên tôi đành phải lưu lại Ngũ Đài thêm một thời gian nữa. Tuy nhiên số tiền dự trữ mang theo đã cạn dần, tôi phải liên lạc với bạn bè xa gần để nhờ giúp đỡ. Thời gian cứ thế kéo dài từ vài tuần đến vài tháng và sau cùng là vài năm. Hiển nhiên không bao giờ tôi nghĩ mình lại sống tại Ngũ Đài Sơn lâu đến thế nhưng tình hình Trung Hoa càng ngày càng đi đến chỗ rối loạn và bi đát. Các cuộc tranh chấp giữa Trung Hoa và Nhật Bản ngày càng trở nên nghiêm trọng. Việc thành lập Mãn Châu quốc đã đưa đến nhiều chia rẽ trầm trọng trong nội bộ người Hoa. Ít lâu sau quân Nhật thừa thế bắt đầu phong tỏa vùng biên giới, chiếm đóng các tỉnh đông bắc và điều tôi không ngờ rằng lần rời Bắc Kinh đó cũng là lần cuối cùng tôi nhìn thấy thành phố này.
Cuộc sống tại Ngũ Đài Sơn rất lặng lẽ êm đềm vì tin tức thời sự bên ngoài không mấy khi lọt vào đây, có lẽ không ai để ý đến nó thì đúng hơn. Đời sống trong tu viện trầm lắng và đều đặn với các khóa lễ, các thời khóa tu thiền và học tập kinh điển, một nếp sống không thay đổi từ nhiều thế kỷ nay. Hầu hết khách hành hương đến và đi âm thầm, không ai đề cập hay nhắc nhở gì đến các biến cố đang xảy ra. Phải nói rằng nếu không có những bức thư của bạn hữu gửi từ Bắc Kinh đến thì có lẽ tôi cũng quên luôn thời cuộc bên ngoài rồi. Sau khi thăm viếng Pusa Ting, tôi khởi sự đi thăm những tu viện khác trong vùng. Tu viện đầu tiên tôi đến thăm là Mani Bhadra, một tu viện của người Mông Cổ cách đó không xa, nơi ông lão Mãn Châu đi cùng với tôi đang trú ngụ. Vừa gặp nhau, ông lão đã nói ngay:
- Phùng tiên sinh hãy tạm nghỉ nơi đây ít lâu để gặp một người bạn cũ.
- Bạn cũ? Nhưng tôi có quen ai đâu?
Ông lão Mãn Châu mỉm cười một cách bí mật:
- Cứ tạm ngủ ở đây qua đêm rồi tiên sinh sẽ biết. Sáng hôm sau đang say sưa ngủ thì tôi nghe một giọng cười sang sảng vọng đến. Mở mắt ra tôi đã thấy gã pháp sư Mông Cổ mà tôi quen tại Bắc Kinh đứng ở đầu giường.
- Này Phùng tiên sinh, tôi đã nói rằng chúng ta sẽ gặp lại nhau mà.
Gã pháp sư Mông Cổ cho biết hắn vừa đi Mông Cổ tuyển mộ thợ thuyền cho ngôi chùa đang khởi công xây cất. Hắn đưa tôi đến xem ngôi chùa và chỉ rõ cho tôi từng chi tiết mà hắn định sẽ cho xây. Thật khó có thể tưởng tượng trên một miếng đất hoang vu, cỏ còn mọc đầy mà hắn đi qua đi lại, nói vanh vách từng chi tiết về các phòng ốc, bậc thang, chỗ nào là chánh điện, chỗ nào là hậu liêu, từng cây cột kèo, từng bức tường đá,… Tôi nhìn thấy những người Mông Cổ cởi trần đang hì hục phát cỏ để đổ nền. Họ sử dụng những chiếc xe bằng gỗ thô sơ để vận tải gạch đá. Đa số những người này đều làm việc tự nguyện.
Họ làm một cách say sưa, vừa làm vừa ca hát. Tôi không thể tưởng tượng một công trình xây cất vĩ đại như vậy lại có thể hoàn tất mà không hề có đồ án kiến trúc nào. Đối với tôi, cho đến nay, đây vẫn là một hiện tượng huyền bí không thể giải thích. Vài hôm sau gã pháp sư Mông Cổ lại lên đường đi quyên góp. Hắn ra chỉ thị cho những người thợ phải làm việc như thế nào trong lúc hắn vắng mặt. Vì lý do kỳ lạ nào đó, hắn biết rất rõ khi trở về, công việc sẽ hoàn tất đến đâu, tiến triển như thế nào. Một kiến trúc sư dù lành nghề thế nào cũng khó có thể ước lượng rõ rệt như thế được.
Phía sau chùa Mani Bhadra có một giếng nhỏ gọi là giếng của đức Bồ Tát Phổ Hiền (Samandadhadra). Những người hành hương thường đến đó lấy nước uống và nói rằng giếng đó rất mầu nhiệm, có thể chữa được nhiều thứ bệnh. Lúc đầu tôi không tin, nhưng sống tại đây một thời gian, tôi thấy quả thật Ngũ Đài Sơn là một nơi chốn linh thiêng với những hiện tượng đặc biệt không thể giải thích. Tôi đã chứng kiến nhiều người hành hương chân tay trầy xước vì đi bộ mà chỉ múc nước giếng đó đổ lên người ít lâu là chân tay lành lặn như thường. Ông lão Mãn Châu kể rằng có người bị bệnh phong hủi, tê liệt, nhờ uống nước giếng đó mà chữa khỏi. Tuy không đích thân chứng kiến nhưng tôi đã thấy khá nhiều nạng gỗ được chất ở một căn phòng gần đó như bằng chứng rằng đã có những người què dùng nạng nhờ được chữa khỏi nên không cần sử dụng những cây nạng đó nữa. Trường hợp này cũng không khác phép lạ tại Lourdes [7] là bao nhiêu. Tôi còn nhớ rõ, trước khi rời Ngũ Đài, ông lão Mãn Châu đã cẩn thận múc lấy một bình nước nhỏ tại đây trao cho tôi cất giữ phòng sau này có dịp dùng đến. Thời gian sống tại đây giúp tôi có dịp nhận xét về những người dân du mục hiền lành chất phác. Mặc dù rất nghèo, không tài sản và cũng không một xu dính túi nhưng tâm hồn họ lại vô cùng phóng khoáng rộng rãi.
Người Trung Hoa vẫn coi thường người Mông Cổ như một giống dân man rợ, ngây thơ, dễ bị lừa. Tôi nhớ có lần một người Trung Hoa nói với tôi rằng người Mông Cổ rất dễ tin, nếu lấy một chiếc bát ăn cơm tầm thường và nói rằng đấy là một món đồ cổ vô giá từ thời Tiền Hán thì người Mông Cổ cũng tin ngay. Có lẽ vì thế mà những người Mông Cổ khi vào Trung Nguyên thường hay bị lừa. Khi sống tại Ngũ Đài Sơn, có dịp quan sát về họ, tôi thấy Mông Cổ là một giống dân có gia tài văn hóa rất cao. Số người Mông Cổ tình nguyện đến đây xây chùa rất đông, nhiều người mang theo cả gia đình. Vì là dân du mục, đi đến đâu họ mang theo tài sản đến đó, mặc dù tài sản của họ chỉ giản dị có vài túp lều, mấy con lừa hay ngựa và một bầy dê hay cừu mà thôi. Trong lúc một vài người trong gia đình lo việc xây chùa thì những người khác tiếp tục chăn dê ở những cánh đồng chung quanh. Thỉnh thoảng tôi và ông lão người Mãn Châu cũng thường ra sinh hoạt chung với họ. Hôm đó chúng tôi đang ngồi uống trà với một gia đình người Mông Cổ thì có một thanh niên lạ mặt, quần áo rách rưới tiều tụy ở đâu tìm đến. Thanh niên cho biết anh đi từ Tân Cương đến đây chỉ để tìm gia đình này. Hiện nay anh rất nghèo túng, tài sản không có gì ngoài bộ quần áo rách nát che thân. Sở dĩ anh tìm đến gia đình này vì đời trước, ông nội của anh đã giúp đỡ họ, nay anh tìm đến để được giúp lại. Hai bên trao đổi với nhau những chi tiết về gia tộc và gia đình Mông Cổ xác nhận họ đã từng chịu ơn ông nội của người thanh niên kia. Người chủ gia đình gọi con cháu đến ngồi quanh và ra lệnh:
- Cách đây mấy chục năm, gia súc của gia đình ta bị bệnh dịch chết sạch. Chúng ta rất nghèo khổ vì không có gia súc thì lấy gì mà ăn nên ta đã đến xin gia đình kia cho vài con dê để gây dựng lại tài sản. Hiện nay gia đình mà chúng ta thọ ơn lại gặp khó khăn, con cháu của họ cần giúp đỡ, vậy mỗi người trong gia tộc hãy đem ra một con dê để tặng cho người thanh niên này làm vốn gây dựng lại sự nghiệp.
Lập tức mọi người trong gia tộc đó đều mang đến một con dê hay cừu cho người thanh niên kia. Họ làm một cách tự nhiên như một việc rất thường, không có gì đáng suy nghĩ, tính toán, mặc dù tài sản của họ cũng chẳng nhiều gì, chỉ có vài con dê hay cừu mà thôi. Sáng hôm sau, người thanh niên lên đường trở lại Tân Cương với một bầy dê và cừu. Tôi hỏi ông lão người Mãn Châu:
- Đã có bằng chứng xác nhận thanh niên nọ là con cháu của gia đình kia đâu?
- Một người ngoài không thể biết hết mọi chi tiết trong một gia đình. Hơn nữa việc thi ơn và thọ ơn chỉ có người trong nhà mới biết, không bao giờ họ kể cho người ngoài. Đích thực thanh niên nọ phải là con cháu của gia đình kia rồi.
- Nhưng biết đâu thanh niên kia không hề thiếu thốn mà chỉ giả bộ để xin thêm gia súc thì sao?
- Người Mông Cổ không bao giờ nói dối, họ nghĩ sao nói vậy. Tuyệt đối không bao giờ nói sai sự thật vì danh dự con người chính là ở lời nói và hành động. Một khi đã nói không đúng thì người đó đâu còn danh dự gì nữa.
- Nhưng đâu ai biết!
Ông lão Mãn Châu trợn mắt nhìn tôi:
- Làm sao người ta có thể sống thoải mái khi biết mình đã nói sai sự thật. Đâu cần phải ai biết, chính lương tâm mình là quan tòa công minh nhất. Làm sao mình có thể sống một cách đứng đắn khi đã không thành thật với chính mình?
Ngoài các phong tục tập quán riêng biệt, người Tây Tạng và Mông Cổ còn áp dụng một lối hành lễ hết sức đặc biệt. Không như người Trung Hoa khi lễ xuống thường khom lưng, người Tây Tạng hành lễ rất cẩn thận. Mỗi khi vái xuống họ chắp tay vào nhau giơ cao lên khỏi đầu một cách thành kính, sau đó họ thu tay về đặt xuống trước ngực rồi thong thả quỳ xuống sàn, xoài hẳn người ra, nằm úp toàn thân xuống mặt đất, hai tay duỗi ra đằng trước. Đây là một cách hành lễ rất khó, đòi hỏi một công phu tập luyện và sức khỏe hết sức dẻo dai. Đa số những người hành hương đều lễ lên lễ xuống như vậy hàng trăm lần, có khi hàng ngàn lần. Tôi đã thử bắt chước cách hành lễ này nhưng chỉ vài chục lần là thân thể một thanh niên khỏe mạnh như tôi đã mỏi nhừ, không sao nhấc chân tay lên được nữa. Trong khi đó những người hành hương, đa số là những người đã lớn tuổi, thản nhiên vái lạy như không có chuyện gì xảy ra. Tại trung tâm của tu viện Pusa Ting còn có một bảo tháp rất lớn mà những người hành hương thường đến đó hành lễ, phần lớn vừa đi quanh tháp vừa lễ cho đủ một ngàn tám chục lạy mới thôi.
Trong khi những người hành hương Tây Tạng, Mông Cổ chú trọng đến các nghi thức hành lễ thì những người hành hương Trung Hoa lại chú trọng đến các phẩm vật dâng cúng. Phần lớn người hành hương Trung Hoa là những phú thương, trưởng giả giàu có với rất nhiều phẩm vật dâng cúng. Một phú thương đã dắt tôi đi khắp tu viện để chỉ cho tôi thấy công trình đóng góp và công đức của ông. Từ những bức hoành phi, câu đối đến những rồng phượng đến những pho tượng dát vàng. Ông tin tưởng rằng nhờ góp phần công đức như thế mà đời sống của ông ở kiếp sau sẽ được tốt đẹp hơn. Hiển nhiên việc kiến tạo những ngôi chùa, tô tượng, đúc chuông là quý nhưng người ta không thể chỉ chú trọng đến những hình thức bên ngoài này mà quên rằng tinh hoa của Phật giáo đòi hỏi mỗi người phải tự tiến bước, tự tu học, tự quán xét thân tâm để thay đổi chính mình nhằm giải thoát mình ra khỏi luân hồi sinh tử.
Ngũ Đài Sơn thường được coi là nơi cư ngụ của đức Văn Thù (Manjusri), vị bồ tát tượng trưng cho trí tuệ. Hầu hết các chùa thiền, tu viện trong vùng đều dành riêng một nơi quan trọng để thờ ngài. Đa số các bức tượng đức Văn Thù đều tạc ngài như một tu sĩ, một tay cầm kiếm sắc, tay kia cầm hoa sen, cưỡi trên lưng một con sư tử chúa lông màu xanh. Hàng năm các chùa đều tổ chức lễ vía đức Văn Thù rất trọng thể. Đặc biệt đối với người Mông Cổ, đức Văn Thù là một vị Bồ Tát được hết sức tôn kính cũng như đức Quán Thế Âm đối với người Tây Tạng hay Trung Hoa vậy. Do đó ngày vía đức Văn Thù còn là một ngày hội rất lớn của người Mông Cổ. Trong vòng mấy tuần lễ, số người Mông Cổ kéo về hành lễ rất đông. Hàng ngàn người cắm lều, tụ tập trước tu viện Pusa Ting. Đa số đàn ông đều mặc những bộ quần áo sang trọng, lịch sự, đắt tiền, với những đường thêu cực kỳ sặc sỡ và diêm dúa. Phụ nữ Mông Cổ không chú trọng nhiều về y phục như phái nam, mà đặc biệt săn sóc đến mái tóc của họ. Có đến hàng trăm kiểu tóc khác nhau, có kiểu uốn cong lên như sừng hươu, có người tết bím như đuôi ngựa và cài lên đó những chiếc lược bằng ngà, bằng vàng ngọc chạm trổ công phu. Cả hai phái nam cũng như nữ đều đeo trang sức lộng lẫy, những chiếc vòng ngọc, kiềng vàng, những xâu chuỗi bằng đá quý cũng như những chiếc nhẫn đeo đầy trên các ngón tay… Các tù trưởng, tộc trưởng oai vệ bên những đoàn tùy tùng gươm giáo sáng lòe xen lẫn những người chăn dê nghèo nàn bồng bế con cháu. Tất cả đều tham dự các khóa lễ và thực hành những nghi thức một cách thành kính. Ngoài ra tôi còn thấy một số người hành hương cứ đi ba bước lại quỳ mọp xuống đất một lần (tam bộ nhất bái), mất nhiều năm mới đến được nơi đây để tham dự các khóa lễ. Thật khó có thể giải thích được tinh thần dũng mãnh, can đảm và ý chí cương quyết của những người hành hương như thế này. Một người Âu chắc sẽ bật cười cho rằng đó là những phong tục man di mọi rợ, một hủ tục mê tín dị đoan cần phải loại trừ. Tôi đã hỏi rất kỹ những người này, đa số đều phát tâm tự nguyện đi hành hương như vậy chứ không ai bắt ép họ cả.
- Nhưng tại sao ông lại phải làm như thế?
- Đó là một phương pháp để làm tiêu bớt các nghiệp chướng từ vô thỉ.
- Nhưng vừa đi ba bước vừa lạy xuống như vậy thì được lợi ích gì?
- Thứ nhất đó là một thử thách cho tinh thần cầu đạo, cầu giải thoát. Thứ hai, đó cũng là một cách làm chủ thân và tâm, mỗi bước đi phải xưng tán hồng danh một vị
Phật, mỗi khi quỳ xuống lại phải đọc một câu thần chú. Phải làm sao cho nhất tâm bất loạn thì mới giải được các nghiệp chướng tích lũy từ quá khứ và giúp chúng tôi mở mang trí tuệ.
- Tại sao lại có thể mở mang trí tuệ như thế được?
- Hãy bắt đầu bằng việc tẩy sạch thân và tâm bằng cách loại ra khỏi nó những thèm khát, những sự bất tịnh. Làm sao làm chủ hoàn toàn được thân và tâm. Phương pháp tam bộ nhất bái giúp tôi đạt được điều này. Sau đó tôi đến Ngũ Đài ngồi yên lặng quán tưởng trong những hang động thanh vắng để tất cả mọi căn thức cũng như tâm hồn mở rộng để đón nhận nguồn thần lực của đức Văn Thù rót vào.
Sau các khóa lễ còn có việc đàm luận về Phật giáo Tây Tạng, các tăng sĩ tham dự xếp hàng dọc trước khán đài, những người muốn tranh luận thay phiên nhau ra chất vấn. Họ bước đến trước mặt vị tăng, múa tay múa chân theo nhịp điệu một dàn nhạc với những chiếc tù và lớn, thanh la, não bạt và trống thúc liên hồi. Thoạt trông cứ tưởng những cử chỉ của họ là dư thừa nhưng về sau tôi thấy rõ rệt là có sự ăn khớp giữa những nhịp trống, tiếng tù và và các cử động của họ. Khi họ giơ tay lên, bàn tay xòe ra thì các nhạc khí đều dừng lại và người chất vấn bắt đầu đặt câu hỏi. Vì không biết tiếng Mông Cổ hay Tây Tạng nên tôi không hiểu họ nói gì nhưng đám đông thì say mê lắm, mỗi câu vấn đáp thường được quần chúng xuýt xoa
trầm trồ, và mỗi khi có người thắng cuộc họ vỗ tay la hét, cỗ vũ ầm ĩ. Cuộc tranh luận kéo dài suốt mấy ngày liền, và người thắng cuộc cũng được quần chúng khiêng lên vai chạy mấy vòng quanh sân chùa.
Một trong những nghi lễ quan trọng của những ngày hội này là việc cúng dường diễn ra trong ngày cuối. Sau một buổi lễ hết sức long trọng, những người hành hương xếp hàng dài trước mặt vị chủ lễ Lạt ma Kushog. Họ đưa ra những túi đựng tiền bạc hoặc đồ trang sức như vòng ngọc, kiềng vàng để cúng vào tu viện. Một người bình thường chắc hắn sẽ phải chóa mắt trước tài sản lớn lao thu thập được trong những buổi lễ như thế. Sau lễ cúng dường, các tu sĩ mang ra một bình nước khá lớn. Họ thong thả đến trước mặt từng người, rót vào lòng bàn tay mỗi người một vài giọt nước. Những người này vội vã xoa lên đầu, lên trán họ một cách vô cùng cung kính và thành khẩn. Tôi được giải thích rằng nước đó tượng trưng cho phước báu, có giá trị tương đương với những phẩm vật mà họ dâng cúng. Có nghĩa là những gì họ dâng cúng hay trao tặng không hề mất đi mà luôn luôn trở lại với họ dưới một hình thức khác.
So sánh các chùa chiền, tu viện trong rặng Ngũ Đài này, tôi thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa chùa chiền của người Tây Tạng, Mông Cổ và Trung Hoa. Hầu hết các tu viện của người Tây Tạng và Mông Cổ đều xây cất một cách to lớn, vĩ đại với những đồ đạc hết sức quý báu, sang trọng không thua kém gì cung điện của các vua chúa. Trong khi đó, tu viện Trung Hoa thường bé nhỏ hơn và đồ đạc cũng giản dị hơn nhiều. Điều này phản ánh rõ rệt hai quan niệm khác nhau. Đa số người Tây Tạng và Mông Cổ sống du mục, giản dị, nếu không nói là họ không để ý đến những tiện nghi vật chất bao nhiêu. Có lẽ vì thế nên quan niệm về giải thoát được họ giải thích là tìm sự giải thoát ngay trong đời sống hiện tại, tìm cái đẹp ngay trong lối sống hằng ngày, do đó các tu viện tượng trưng cho chân lý, được xây cất một cách lộng lẫy, đẹp đẽ và các tu sĩ Tây Tạng, Mông Cổ thường mặc các y phục diêm dúa. Trong khi đó người Trung Hoa chú trọng nhiều đến các tiện nghi của đời sống, việc sở hữu và tích lũy tài sản đã trở thành một lối sống, một giá trị cần thiết nên quan niệm về giải thoát của họ được giải thích như sự từ bỏ các tiện nghi, các ràng buộc vật chất, do đó các chùa chiền thường được xây cất một cách giản dị, sơ sài.
Ngoài những tu viện to lớn, lộng lẫy với hàng ngàn tu sĩ như Pusa Ting, Ngũ Đài Sơn còn có nhiều am thất của các tu sĩ sống ẩn dật đơn độc. Hầu hết những người này ít tiếp xúc với khách hành hương. Họ sống tự túc bằng cách trồng trọt hoặc trông nhờ vào sự giúp đỡ của các thí chủ. Đa số dựng am thất ở những nơi hoang vắng, ít người qua lại, có người sống hẳn trong các hang động thiên nhiên. Trong thời gian sống tại Ngũ Đài Sơn, tôi đã tìm cách liên lạc với họ nhưng đa số đều từ chối không tiếp người lạ. Thỉnh thoảng cũng có người bằng lòng nói chuyện với tôi nhưng họ tỏ ra dè dặt không nói gì nhiều. Hầu hết những người sống ẩn dật này đều quan niệm rằng kiến thức thu thập được trong tu viện hay qua sách vở chỉ giúp người ta một căn bản giới hạn nào đó mà thôi. Muốn có kinh nghiệm tâm linh, người tu còn phải đi xa hơn nữa qua các công phu tu tập có tính cá nhân. Hầu hết các phương pháp này đều chú trọng vào việc nghiên cứu, quán sát, thiền định, quán tưởng về một đề tài nào đó, không phải chỉ trong vài ngày, vài tháng hay một thời khóa nhất định, mà nỗ lực ngày đêm không ngừng nghỉ. Qua việc tiếp xúc với những người này, tôi thấy họ thường khiêm tốn và phủ nhận rằng họ đã có kinh nghiệm tâm linh hoặc chứng đắc điều gì. Đôi khi không muốn bị quấy rầy, nhiều người còn tỏ ra khờ khạo, ngây thơ hoặc có những cử chỉ như điên khùng, nhưng theo sự nhận xét của tôi, phần lớn đều đã ít nhiều đạt được những trình độ tâm linh khá cao. Tôi ghi nhận lại đây buổi tiếp xúc với một ẩn sĩ sống trong một am thất nhỏ. Sau câu chuyện xã giao, vị ẩn sĩ đã hỏi tôi:
- Tiên sinh có thấy phong cảnh Ngũ Đài Sơn đẹp không?
- Hiển nhiên phong cảnh Ngũ Đài Sơn đẹp tuyệt vời rồi, nhưng so sánh với cảnh đẹp của các cảnh giới khác thì sao?
Ẩn sĩ ngạc nhiên:
- Làm gì còn cảnh giới nào nữa?
- Tôi nghe nói khi chứng ngộ, không còn bị các vọng tưởng mê hoặc thì người ta sẽ đến được các cảnh giới đẹp tuyệt vời…
- Ha ha ha… Tiên sinh lầm rồi! Làm gì có những cảnh giới như vậy! Đó là những lời đồn đãi vô căn cứ. Cảnh đẹp tuyệt vời là đây, ngay ở đây, trong giây phút thực tại này.
- Nhưng… nhưng đây là cõi vô minh, đầy ảo vọng xấu xa với những ảo ảnh của nhị nguyên như đẹp và xấu, có và không, tốt và không tốt…
- Vậy ư? Thế sao tiên sinh không cho rằng việc có một cảnh giới nào khác biệt với cảnh giới hiện tại cũng là một ảo vọng của tâm thức, cũng tùy thuộc vào đối đãi nhị nguyên?
- Nhưng nếu vậy thì cõi Niết Bàn ra sao?
- Này tiên sinh, hãy nhìn những rặng núi, những con suối chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia. Khi biết nhìn mọi vật với một nhãn quan mới, một nhãn quan không bị chi phối bởi tham, sân, si, bởi vọng tưởng thì cảnh đẹp kia chính là Niết Bàn đó! Niết Bàn không phải một nơi chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới nào mà người ta có thể tìm đến. Niết Bàn chính là đây. Vô minh chính là Niết Bàn. Thay vì phải tìm kiếm ở đâu xa hay phải đến một cõi giới nào đó, chúng ta hãy tìm nó ngay tại đây, hãy ý thức rằng chính vì vô minh mà chúng ta cứ mải miết tìm kiếm một cái gì ở đâu xa mà quên rằng điều chúng ta tìm kiếm vốn có sẵn nơi đây. Khi biết khai mở trí tuệ, biết nhìn mọi vật một cách đúng đắn thì chúng ta sẽ thấy rằng từ trước đến nay chúng ta đã tìm kiếm trong vọng tưởng, như người ngủ say đâu hay biết rằng mình đang mê ngủ. Phải chăng phong cảnh thiên nhiên đẹp tuyệt vời đang nhắc nhở cho chúng ta rằng đừng mê vọng nữa, hãy ý thức rằng Niết Bàn chính là đây.
Ẩn sĩ nhìn tôi một lúc rồi nhẹ nhàng:
- Phùng tiên sinh, khi trở về đời sống quay cuồng điên đảo nơi chốn thị thành, ông có thể tập thói quen đặt lên bàn làm việc một bình hoa nhỏ để nhắc nhở chính mình về cái đẹp sẵn có lúc nào cũng chờ đợi giây phút tỉnh thức.
Tôi đã ghi nhận lời khuyên bảo quý báu này, và từ đó lúc nào trên bàn làm việc của tôi cũng luôn luôn có một bình hoa tươi.
Hiển nhiên không phải tu sĩ nào sống ở Ngũ Đài Sơn cũng đều là bậc chân tu, đạo hạnh. Có rất nhiều tu sĩ chỉ chú trọng đến các hình thức bề ngoài hoặc những vật phẩm dâng cúng của các tín đồ. Có thể vì thành kiến cá nhân qua việc giao tiếp với một số tu sĩ, tôi không mấy có cảm tình với những tu sĩ có danh xưng trọng vọng. Tôi thấy hình như những tu sĩ chức tước lớn, sống trong những tu viện sang trọng đều có một cái gì không được thánh thiện, trong sạch cho lắm. Tuy sống tại Pusa Ting nhưng tôi không có cảm tình với Lạt ma Kushog bao nhiêu. Lần đầu gặp ngài, tôi tuân theo đúng các lễ nghi của người Tây Tạng, quỳ xuống dâng lên một cái khăn quàng và ngài đỡ lấy quàng nhẹ vào cổ tôi, sau đó chúng tôi trao đổi với nhau vài câu xã giao rồi ngài phất tay ra hiệu cho tôi lui ra để đến phiên người khác. Tôi đứng lên lui vào góc nhà theo dõi hàng trăm người được ngài đón tiếp một cách máy móc như vậy, vài câu nói xã giao, vài mẩu chuyện nhỏ rồi thôi. Không có gì đặc biệt khác thường. Càng quan sát tôi càng thấy có một cái gì giả tạo, gượng ép, máy móc và chú trọng đến bề ngoài nhiều quá. Các câu nói chỉ có tính cách xã giao, các lời khen tặng có vẻ hời hợt và luôn luôn kèm thêm những hứa hẹn viển vông không thực tế.
Không riêng gì Lạt ma Kushog mà vị Hoạt Phật người Mông Cổ sống tại tu viện gần đó cũng có tác phong bề ngoài như thế. Theo tôi, danh từ “Hoạt Phật” đã bị sử dụng bừa bãi và được giảng giải như là một vị Phật tái sinh. Theo đúng nghĩa, Phật là quả vị cao tột, là người đã chấm dứt sinh tử luân hồi, đâu còn tái sinh nữa, nhưng nhiều người vẫn cứ mập mờ sử dụng danh từ này với lý do riêng. Theo tôi, có lẽ đó chỉ là một vị Hóa Thân mặc dù không có bằng chứng đích xác rằng đó là một vị Hóa Thân đúng với ý nghĩa cao đẹp nhất. Danh nghĩa “Hóa Thân” cũng bị lạm dụng nhiều vì tôi được biết đã có trường hợp các tu sĩ tự phong mình lên chức “Hóa Thân” hoặc tìm một đứa bé nào đó phong cho nó làm “Hóa Thân”, lợi dụng lòng sùng kính của tín đồ để trục lợi. Hôm đó tôi đến ngôi chùa Mông Cổ thì gặp vị “Hoạt Phật” đang ngồi đánh bài với hai người Trung Hoa. Đó là một cậu bé trạc 18, 20 tuổi, khuôn mặt tròn như trăng rằm, đôi mắt nhỏ xíu và luôn luôn liếc ngang liếc dọc. Theo đúng lễ nghi, tôi quỳ xuống đất lạy ba lần. Vị “Hoạt Phật” không đáp lễ mà bật cười:
- Ha ha… Một Phật tử người da trắng… Tốt lắm, tốt lắm… Ngươi có muốn uống rượu không?
Vừa nói vị “Hoạt Phật” vừa chỉ vào chai rượu để gần đó nhưng thấy tôi vẫn đứng yên không nhúc nhích, cậu khoát tay:
- Rượu này của Phật, ngươi uống đi để lấy phước.
Tôi nói vài câu lễ phép để từ chối nhưng vị “Hoạt
Phật” lắc đầu thương hại:
- Một người da trắng mà không biết uống rượu! Kém quá! Kém quá! Thôi được, để ta uống giùm ngươi vậy!
Vừa nói vị “Hoạt Phật” vừa rót một chén lớn, uống cạn rồi tiếp tục ván bài đang chơi dở, không chú ý gì đến tôi đứng gần đó. Nhìn một người danh xưng trọng vọng đang chúi mũi vào ván bài đen đỏ, tôi cảm thấy vừa thất vọng vừa khó chịu nên đành nói vài câu xã giao xin cáo từ. Cậu bé gật đầu xua tay:
- Được rồi, ngươi cứ lui ra đi để chúng ta còn làm những việc quan trọng.
Tôi phải cố gắng lắm mới khấu đầu đúng ba lần theo lễ nghi mặc dầu trong bụng vô cùng khó chịu về cử chỉ ngạo mạn, bất lịch sự kia. Có lẽ vì những kinh nghiệm không đẹp này nên tôi không thích gặp những tu sĩ danh xưng, chức tước mà chỉ muốn giao thiệp với những tu sĩ vô danh sống khiêm tốn trong các am thất nhỏ bé. Tiếc thay, những người này không chịu tiếp tôi và thường tỏ ra khó chịu khi tôi làm phiền sự thanh tu của họ.
Một hôm người ta rủ tôi đến thăm Hòa thượng Ninh Hải, một tu sĩ nổi tiếng đang trụ trì một tu viện gần đó. Tôi không hào hứng mấy về chuyến đi này vì hình ảnh các tu sĩ danh xưng trọng vọng, tước hiệu đầy người không gây cho tôi một tình cảm gì, nhưng nể nhóm người hành hương Trung Hoa, tôi đành phải đi theo. Hòa thượng Ninh Hải là một người gầy gò bé nhỏ, khuôn mặt khắc khổ, đầy vết nhăn. Tuy là người Trung Hoa nhưng ngài ăn mặc giống như các Lạt ma Tây Tạng vì ngài tu theo Kim Cương Thừa. Hôm đó chúng tôi đến cúng vào lúc ngài vừa thuyết pháp xong nên trông ngài có vẻ mệt. Ngài tiếp phái đoàn một cách lễ phép nhưng có phần hờ hững hay gượng ép. Ngài chỉ cho mọi người một vài nơi chốn để đến thăm, các đền đài để đến lễ, phát cho mỗi người một pho tượng nhỏ để làm quà rồi xua tay ra hiệu cho mọi người lui ra. Dĩ nhiên tôi không hào hứng gì trước những cử chỉ máy móc như vậy. Tuy nhiên ít lâu sau có dịp gặp lại ngài tại một ngôi chùa nhỏ, ngài nhận ra tôi là người đã có mặt trong phái đoàn lần trước và hỏi thăm tôi một cách ân cần. Câu chuyện trở nên thân mật hơn. Càng gần Hòa thượng, tôi càng thấy cái thành kiến trước của tôi về ngài càng sai lầm. Ít lâu sau tôi thường đến thăm ngài để học hỏi thêm về Kim Cương Thừa. Vì biết Hòa thượng đã từng tu Thiền sau lại đổi qua tu Mật nên tôi hỏi:
- Xin Hòa thượng cho biết vì sao một người xuất thân từ Thiền Tông (Đại Thừa) là giảng dạy về Mật Tông (Kim Cương Thừa) như vậy?
- Mặc dầu Đại Thừa và Kim Cương Thừa đều cùng truyền vào Trung Hoa một lúc nhưng tư tưởng Đại Thừa thích hợp với phong hóa nơi đây hơn nên dần dần được phổ biến mạnh mẽ và chiếm ưu thế, do đó ít ai chịu học hỏi thêm về Kim Cương Thừa. Khi còn nhỏ ta chuyên tu Thiền nhưng vào tuổi trung niên có dịp sống tại Thanh Hải, ta gặp một vị thầy người Tây Tạng chỉ dẫn nên về sau ta chuyên tu về Mật Tông. Dù tu theo pháp môn nào thì cũng đều là giáo pháp của Đức Thế Tôn cả, tùy theo căn cơ mà lựa chọn con đường thích hợp.
Biết tôi muốn tìm hiểu thêm về Kim Cương Thừa, ngài lấy ra một cây bút vừa vẽ vừa giải thích:
- Có nhiều cách giải thích khác nhau, để ta giải thích bằng biểu tượng cho dễ hiểu. Tất cả thế gian này có thể tượng trưng như một vòng xoáy mà trung tâm điểm là chân lý tuyệt đối hay “không”, chung quanh đó là những xáo trộn luôn luôn thay đổi biến dịch hay “vô minh”. Có người phân biệt mức độ cao thấp của vòng xoáy này như những bậc thang tiến hóa dần về trung tâm hay thoái hóa khi xa rời trung tâm. Có người coi đó là một vòng tròn xoay chuyển không ngừng, không có khởi đầu mà cũng không có chấm dứt với trung tâm là chân lý tuyệt đối không hề xoay chuyển. Mọi vật ở tại trung tâm vốn không có tự tính hay “Không” nhưng vì vô hình mà đâm ra phân biệt và bị lôi cuốn vào vòng sinh tử luân hồi ở phía bên ngoài kia. Theo Dịch học thì chân lý tuyệt đối là ở Thái Cực hay Một, sau biến thành hai hay Lưỡng Nghi, rồi cứ thế sinh bốn, sinh tám, sinh sáu mươi bốn, v.v. Tất cả chỉ là những biểu tượng hàm chứa một sự thay đổi biến dịch không ngừng. Cũng như thế, Kim Cương Thừa sử dụng những biểu tượng hàm chứa một sự thay đổi biến dịch từ chân lý tuyệt đối ở trung tâm như xanh, đỏ, vàng và xanh lục. Càng đi xa trung tâm, ngọn lửa càng chập chùng biến thành đủ các màu sắc khác nhau, lúc màu này khi màu khác, trong khi gần trung tâm ngọn lửa có màu sắc rõ rệt và ít thay đổi hơn. Vấn đề chính là làm sao ý thức được sự kiện này để quay về bản thể, trở về với cái chân lý tuyệt đối, với cái trung tâm điểm kia. Đối với người tu Thiền thì phải công phu tập luyện làm sao để một người đang đứng từ bên ngoài có thể nhảy vọt vào trung tâm, trong chớp mắt có thể đốn ngộ giải thoát. Hiển nhiên đã có người thành công trong việc này nhưng điều này không dễ. Phải là người có căn cơ thế nào mới có thể hoàn tất được điều trên. Trong khi đó, thay vì trực chỉ chân tâm, giải thoát tức khắc, các bậc thầy về Kim Cương Thừa đã nghiên cứu những động lực biến thiên chuyển hóa và sử dụng nó như phương tiện đưa người ta vào trung tâm. Bí quyết của Kim Cương Thừa hay Mật Tông chính là sự hiểu biết rốt ráo về các động lực chuyển hóa và sử dụng chúng để giải thoát khỏi vòng kiềm tỏa của luân hồi. Vì các động lực này rất mãnh liệt và nguy hiểm nên phương pháp này chỉ thích hợp với căn cơ một thiểu số người, do đó các vị thầy Kim Cương Thừa rất cẩn thận và chỉ truyền dạy nó trong phạm vi bí mật hay khẩu truyền. Việc sử dụng các mãnh lực này rất nguy hiểm nếu người ta không biết cách hoặc không luyện tập đến nơi đến chốn nên con đường tu Mật khó khăn và nguy hiểm hơn các con đường khác.
Hòa thượng Ninh Hải ngưng lại, ném cây bút xuống bàn rồi mỉm cười:
- Phùng tiên sinh có thấy không, chân lý chỉ có một nhưng con đường đưa đến chân lý biến hóa không biết bao nhiêu mà kể! Cũng vì thế mà nhân loại có nhiều tôn giáo hay sự tin tưởng khác nhau. Ta đã sống tại Thanh Hải trong nhiều năm, đã có dịp tiếp xúc với các tu sĩ của nhiều tôn giáo, ta đã đàm đạo với các tu sĩ người Âu đi truyền giáo, các giáo sĩ người Hồi cũng như Do Thái, ta thấy đã có nhiều người đạt đến những trình độ tâm linh rất cao, phải chăng vì họ đã tiến gần đến cái trung tâm hay chân lý tuyệt đối? Phải chăng cái mà ta gọi là “trung tâm” hay chân lý tuyệt đối đó thường được các tôn giáo khác gọi bằng những danh từ khác nhau như “Thượng đế” hay “Thần linh”? Hiển nhiên danh từ không quan trọng và không đáng để ý nhiều vì nó thường gây nên sự phân biệt, chia rẽ. Biết bao nhiêu kẻ xưng là Phật tử nhưng còn xấu xa, tội lỗi hơn những người theo Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo nữa. Trong khi đó có những tu sĩ người Hồi nhưng sự hiểu biết và cách cư xử của họ có khác gì một bậc Bồ Tát đâu! Nhờ có dịp giao thiệp, tiếp xúc với nhiều tu sĩ của các tôn giáo khác nên quan niệm về chân lý của ta cũng phóng khoáng hơn trước nhiều. Thí dụ như người Mông Cổ coi đức Văn Thù như một vị thần, người Trung Hoa coi ngài như một vị Bồ Tát. Điều này đâu khác gì nhau. Tất cả chỉ là những danh xưng hay sự nhân cách hóa một chân lý tối cao nào đó. Cũng như thế, người Thiên Chúa giáo đã nhân cách hóa biểu tượng của chân lý như những vị thiên thần. Ngôn từ thật ra không có ý nghĩa gì cả vì mục đích của con đường đạo là giải thoát, là làm sao bước vào được cái trung tâm hay hòa nhập vào cái chân lý tuyệt đối kia. Khi đã đạt đến một trình độ nào đó thì tất cả mọi danh xưng đều trở thành vô nghĩa. Khi đã bước vào được trung tâm tĩnh lặng, đã ý thức được chân lý tuyệt đối thì người ta sẽ thấy tất cả những gì đang xoay chuyển bên ngoài đều chỉ là sự náo động vô ích mà thôi. Do đó ta khuyên tiên sinh
hãy cố gắng giữ tâm bình thản, không chê bai, không phê phán mà ý thức rõ rệt rằng chỉ khi nào người ta có thể phá tan được sự kiềm tỏa của sinh tử luân hồi, của những động năng lôi kéo con người trong vòng thị phi thì khi đó người ta sẽ hiểu biết một cách thấu đáo mọi sự. Chỉ khi đó thôi người ta mới thực sự hiểu biết, trước khi đó mọi sự giải thích chỉ có tính cách tương đối và gượng ép. Sở dĩ ta tu theo Kim Cương Thừa vì các vị thầy phái này đã vạch rõ cho ta một bản đồ chỉ dẫn rõ ràng, từng chi tiết để đưa đến con đường giải thoát.
Hòa thượng Ninh Hải chăm chú nhìn tôi một lúc:
- Hình như tiên sinh đã từng tu theo Kim Cương Thừa? Tôi gật đầu và kể cho Hòa thượng về việc được Kim
Cương trưởng lão thu nhận và chỉ dạy như thế nào. Hòa thượng Ninh Hải yên lặng lắng nghe một lúc rồi thở dài lắc đầu:
- Làm sao tiên sinh có thể sơ suất đến như thế được? Một cơ hội tốt đẹp hiếm có như thế mà tiên sinh lại bỏ qua! Tiên sinh nên biết việc gặp được một vị thầy như vậy quả là một nhân duyên lớn. Thật đáng tiếc! Thật đáng tiếc! Nhưng dù sao thì hạt giống mà Kim Cương trưởng lão đã gieo sẽ không mất đâu, tiên sinh chỉ cần chăm nom vun xới thì nó sẽ đâm chồi nảy lộc.
Sau khi ngừng lại nhìn tôi một lúc nữa, Hòa thượng
Ninh Hải tiếp tục:
- Phùng tiên sinh có một nhân duyên hết sức hãn hữu nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao tiên sinh lại đến trễ trong buổi lễ điểm đạo quan trọng như vậy? Tôi không biết tiên sinh có ý thức được phần đầu buổi lễ đó quan trọng như thế nào không?
- Thưa không, xin Hòa thượng chỉ dẫn cho. Hòa thượng Ninh Hải nói ngay:
- Phần đầu chính là cái bản đồ chỉ dẫn mà tiên sinh đang cần đó.
- Nhưng… nhưng tôi đã được ngài truyền riêng cho một câu thần chú.
- Đúng thế, đúng thế! Nhưng đó chỉ là cái chìa khóa để mở cửa mà thôi. Cửa đã mở nhưng thiếu bản đồ chỉ dẫn thì tiên sinh khó tiến xa được. Phải chăng chính vì thế mà từ đó đến nay tiên sinh cứ lang thang tìm kiếm mà không ý thức rõ rệt mình đang tìm kiếm gì? Phải chăng sau khi tu học theo phương pháp của Kim Cương trưởng lão một thời gian, tiên sinh vẫn cảm thấy thiếu thốn, chưa nắm bắt được cái mà tiên sinh muốn biết nên tiên sinh cứ lang thang tìm kiếm? Tôi thành thật lấy làm tiếc cho tiên sinh.
Thấy tôi choáng váng ngồi ngây người ra, Hòa thượng
Ninh Hải lắc đầu:
- Tôi chưa thấy ai có một nhân duyên kỳ lạ như vậy! Âu đó cũng là nghiệp quả của tiên sinh mà thôi,
nhưng rồi cũng có lúc tiên sinh sẽ hiểu được sự bí mật của màu xanh lục.
- Hòa thượng nói cái gì? Màu xanh lục?
- Đúng thế, màu xanh của cây cối, của khí hậu miền bắc.
- Xin ngài giải thích rõ hơn.
Hòa thượng Ninh Hải mỉm cười một cách bí mật:
- Hiển nhiên bây giờ tiên sinh chưa hiểu đâu, nhưng đến khi đủ duyên thì tiên sinh sẽ hiểu điều tôi nói.
Hòa thượng Ninh Hải đứng dậy bỏ đi, mặc tôi ngồi thừ ra đó một lúc khá lâu để suy nghĩ về công án lạ lùng mà biết bao năm sau tôi mới hiểu.