← Quay lại trang sách

Chương 8 Buổi Giao Thời

Từ trước đến nay tôi chỉ trình bày hình ảnh Trung Hoa qua các danh lam cổ tự và các tu sĩ Phật giáo. Hiển nhiên sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu tôi không nói thêm về một khía cạnh khác của quốc gia này qua hình ảnh giới sĩ phu chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Người ta không thể nói đến văn minh Trung Hoa mà không đề cập đến đạo Khổng, nhưng đó là một đề tài lớn mà tôi sẽ viết riêng trong một cuốn sách khác, trong chương sách ngắn ngủi này tôi chỉ muốn nói về một kẻ sĩ trong buổi giao thời: Trần Phi Sơn.

Tôi quen Trần Phi Sơn khi làm việc tại lãnh sự quán Nam Kinh. Cũng như những người khác, ngoài các nhân viên ngoại giao Anh, cơ sở nào cũng mướn thêm vài nhân viên người Trung Hoa nữa. Hôm đó tôi đang sử dụng điện thoại trong văn phòng chính thì một nhân viên người Anh ở ngoài đẩy cửa bước vào. Tôi vẫn yên vị nhưng các nhân viên Trung Hoa làm việc gần đó đều vội vã đứng dậy chào. Đây là một phong tục rất hay của người Trung Hoa. Mỗi khi có nhân viên cao cấp bước vào phòng làm việc họ đều đứng dậy để tỏ lòng kính trọng. Dĩ nhiên tôi không lấy làm lạ vì khi đi dạy học, mỗi khi tôi bước vào lớp, học trò đều đứng dậy chào như thế. Theo phép xã giao, khi được chào như vậy, một người lịch sự sẽ nghiêng mình ngỏ ý cám ơn rồi ra dấu cho những người kia ngồi xuống. Tuy nhiên có lần đó người nhân viên ngoại giao trẻ tuổi đã cười sằng sặc rồi hống hách nói lớn:

- It’s allright, boy!

“Boy”, một danh từ ngụ ý khinh bỉ, coi thường vừa được thốt ra thì tôi thấy khuôn mặt một nhân viên người Trung Hoa lớn tuổi chợt đanh lại. Tuy nhiên chỉ thoáng giây sau ông đã lấy lại tự chủ, thản nhiên ngồi xuống làm việc tiếp. Vì ngồi đối diện ông nên tôi thấy rõ mọi sự và thầm khen người này có khả năng tự chủ rất cao. Tôi thấy ông đang thảo một bức thư bằng tiếng Trung Hoa với tuồng chữ viết rất đẹp. Một lúc sau khi tôi vừa đặt điện thoại xuống, ông lên tiếng khen tôi nói tiếng Trung Hoa rất sõi. Dĩ nhiên tôi cũng lễ phép đáp lại và khen ông có lối viết chữ thảo rất đặc biệt. Chúng tôi đàm đạo một lúc và thấy có nhiều điểm hợp nhau nên tôi mời ông đến dùng cơm tại một nhà hàng gần đó để nói chuyện tiếp. Vài hôm sau, Trần Phi Sơn, tên ông lão, cũng đáp lễ bằng cách mời tôi đến nhà ăn cơm tối.

Tôi được biết Trần Phi Sơn xuất thân trong một gia đình hoàng tộc nhưng đã bị thất sủng. Từ thời Càn Long, gia đình ông đã không được trọng dụng vì có những bất đồng chính kiến với đường lối cai trị lúc đó. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi, để tỏ thái độ bất hợp tác với chính quyền mới, nhiều người thuộc hoàng tộc đã xoay ra làm việc với các sứ thần ngoại quốc và Trần Phi Sơn cũng xin làm thông dịch viên cho tòa Tổng lãnh sự Anh tại Bắc Kinh. Sau nhiều năm chăm chỉ làm việc, ông được cất nhắc lên chức trưởng phòng thông dịch và cố vấn văn hóa. Ông đã giúp đỡ nhiều nhân viên ngoại giao tại đây cho đến khi quân Nhật xâm lăng Bắc Kinh. Biết uy tín của ông, người Nhật đã mời ông giữ một chức vụ quan trọng trong chính phủ mới mà họ thành lập nhưng ông cương quyết từ chối. Người Nhật nghi ngờ bèn bắt giam và tra tấn ông tàn nhẫn nhưng ông vẫn cương quyết giữ vững lập trường. Sau cùng họ phải trả tự do cho ông. Ít lâu sau ông trốn về Nam Kinh và tiếp tục làm việc đắc lực cho Bộ Ngoại giao Anh cho đến lúc qua đời vào năm 1949. Trong chúc thư, ông hy vọng người Anh sẽ giúp đỡ gia đình ông khi ông không thể lo cho họ được nữa, tiếc thay lòng trung thành của ông đã không được Bộ Ngoại giao Anh đoái hoài. Đối với họ, ông chỉ là một nhân viên như mọi nhân viên khác, khi cần dùng đến khả năng của ông thì họ trọng dụng ông, nhưng khi ông già yếu, không tiếp tục làm việc được nữa thì họ tỏ ra hờ hững lạnh nhạt, không một chút thương xót. Khi ông qua đời, gia đình ông quá nghèo không thể lo cho ông một đám tang tươm tất, chính những học trò cũ của ông và một số nhân viên đồng sở người Trung Hoa đã gom góp tiền bạc để tổ chức đám tang cho ông trong khi tòa Lãnh sự cho rằng đó không phải là việc của họ. Ít lâu sau, khi Đảng Cộng sản lên nắm chính quyền, vợ và các con ông đã đến xin tòa Lãnh sự giúp đỡ cho họ được định cư tại Anh nhưng một lần nữa, các nhân viên ngoại giao tại đây đã từ chối lời yêu cầu này một cách tàn nhẫn. Tòa Lãnh sự viện lẽ mặc dù ông đã tận lực làm việc hơn ba mươi năm cho người Anh và có thể bị chính quyền mới nghi ngờ, nhưng dù sao ông cũng đã qua đời rồi. Các nhân viên ngoại giao cho rằng gia đình ông sẽ không bị liên lụy hay nguy hiểm gì. Sự ngây thơ và thái độ thiếu tế nhị này đã mang lại một số hậu quả không hay cho gia đình những người Trung Hoa làm việc cho người ngoại quốc. May mắn thay, gia đình Trần Phi Sơn đã trốn chạy đến được Hồng Kông, nhưng đó là chuyện về sau.

Trần Phi Sơn là một trong những người được giáo dục theo truyền thống cũ. Ông tin có trời, một định luật tối cao điều khiển vạn vật, mà con người phải biết sống thuận theo ý trời hay các định luật này qua cách cư xử và hành động.

Hiển nhiên trong buổi giao thời, khi ảnh hưởng của văn hóa Âu Tây đang phát triển mạnh mẽ thì quan niệm này được coi như không còn thích hợp nữa. Trong các đại học, hầu hết sinh viên Trung Hoa lúc đó đều hăng hái chỉ trích thái độ thụ động, nhu nhược của thế hệ cũ và đổ cho họ trách nhiệm đã đưa quốc gia vào tình trạng suy kém đến nỗi bị các cường quốc khác xâu xé. Đa số đều muốn dứt bỏ quá khứ để chạy theo những tư tưởng mới lạ của Âu Mỹ như khoa học, kỹ thuật. Những lớp người mới chủ trương thay đổi để theo kịp đà văn minh, tiến bộ của thế giới được nhắc đến một cách kính trọng, trong khi những kẻ thuộc thế hệ cũ như ông bị coi là “thủ cựu” và bị khinh miệt, coi thường. Đối với Trần Phi Sơn, xã hội sở dĩ tiến bộ hay có trật tự là do những cá nhân sống trong đó có tinh thần cầu tiến và kỷ luật tự giác. Một xã hội không thể tiến được khi những người sống trong đó thiếu tư cách, bổn phận hay trách nhiệm. Theo ông, người ta chỉ có thể thay đổi xã hội bằng phương pháp duy nhất là tự biết mình, tự đổi thay mình để thích hợp với sự tiến bộ chung, sau đó lo cho gia đình mình, rồi mới có thể lo được cho những người khác hay quốc gia (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Ông giáo dục con cái rất nghiêm và luôn luôn khuyên chúng phải biết cố gắng tự sửa mình một cách thành khẩn. Trong thời gian sống tại Nam Kinh, tôi thường đến thăm ông để học hỏi và đàm đạo về những tập tục của Trung Hoa, và ông đã tìm thấy nơi tôi một tri kỷ, một người muốn nghe, muốn tìm hiểu những chân giá trị của truyền thống này.

Trần Phi Sơn thường dành nhiều thì giờ đọc sách, tập viết theo các kiểu chữ của các danh sư về bút thiếp. Thỉnh thoảng ông cũng làm thơ, vẽ tranh, đánh cờ và tập luyện võ nghệ. Tuy đã ngoài sáu mươi, mắt đã bắt đầu suy kém nhưng không lúc nào ông rời cuốn sách trên tay. Ông luôn luôn đọc đi đọc lại nhiều cuốn sách cũ mà ông kể rằng mỗi lần đọc, ông lại tìm thêm được nhiều ý tưởng thâm thúy mới lạ. Ông thường dậy rất sớm, tập vài động tác Thái cực quyền cho giãn gân cốt rồi ngồi uống trà, đọc sách cho đến khi tới giờ vào sở làm việc. Trong sở, ông làm việc rất chăm. Tuy có tuổi nhưng ông đã làm việc bằng ba hay bốn người khác. Một tay ông soạn thảo, phiên dịch các hồ sơ, công văn và thỉnh thoảng còn giúp các nhân viên khác sửa chữa hồ sơ làm việc của họ cho thật hoàn chỉnh. Tính ông điềm đạm ít nói nên trong sở ai cũng quý mến ông. Về sau có dịp xét lại giấy tờ, công văn của ông viết, tôi nhận thấy hầu như mọi công trình kế hoạch lớn của tòa Lãnh sự Anh tại Nam Kinh đều do chính ông soạn thảo hoặc đề xướng nhưng rất ít ai nhận thấy. Tuy sống trong một hoàn cảnh eo hẹp về tài chính nhưng lúc nào ông cũng tỏ ra biết an phận. Trong suốt thời gian quen biết, không bao giờ tôi thấy ông phàn nàn về một điều gì bất như ý cả. Trái lại, khi đó tôi có nhiều việc không vừa ý nên thường tìm đến ông để tâm sự. Có lần thấy tôi bất mãn về các nghi thức gò bó, thủ tục rườm rà của Bộ Ngoại giao, ông đã an ủi tôi bằng một câu trong kinh Dịch “vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản”. Tôi phản ứng ngay:

- Đó chỉ là một lý thuyết suông. Bao lâu nay tôi có thấy gì biến đổi hay hanh thông đâu?

- Phùng huynh đệ chớ nói như vậy. “Cùng tắc biến” không có nghĩa là sự thay đổi phải xảy ra ngay lập tức mà là một tiến trình diễn biến dần theo thời gian, cũng giống như một cái cây phải mất nhiều năm mới trổ hoa kết trái được. Mọi sự trong trời đất đâu phải xảy ra trong một sớm một chiều mà đều do những nguyên nhân sâu xa từ từ kết tụ lại.

Tuy sống thanh bạch nhưng mỗi khi tới dịp giỗ tết thì ông không ngần ngại phí tổn và thường tổ chức những buổi cúng tế một cách long trọng. Mỗi đầu năm, con cháu trong gia đình phải quây quần tụ họp làm lễ trước bàn thờ tổ tiên và nghe ông giảng dạy về truyền thống gia đình. Ông sống theo một nếp sống nhất định, từ cách nấu nướng ăn uống đến quần áo y phục. Mùa hè phải mặc màu gì, mùa đông phải mặc áo gì. Thức ăn hằng ngày dù thanh bạch cũng phải nấu ăn theo những cách thức nhất định như người xưa vẫn ăn. Thí dụ như vào những ngày đặc biệt, phải có món cháo trắng nấu với những hương liệu đặc biệt như tổ tiên ông vẫn làm. Một hôm tôi hỏi:

- Liệu các vị khuất mặt có trở về hưởng đồ cúng tế của con cháu hay không mà phải làm cỗ bàn phiền nhiễu như thế?

Trần Phi Sơn thản nhiên:

- Này Phùng huynh đệ, mấy ai có thể biết được điều này, nhưng dân tộc chúng tôi đã làm như vậy cả mấy ngàn năm rồi. Hiển nhiên người xưa khi đặt ra những luật lệ như vậy đều có những lý lẽ riêng. Thiếu lễ nghi thì loài người có khác gì cầm thú? Làm người phải biết rõ nguồn gốc của mình, phải biết các tiền nhân ngày trước đã khó khăn gian khổ thế nào mới gây dựng được cơ nghiệp cho chúng ta ngày nay. Cây có gốc, chim có tổ thì người cũng có tông. Ngày đức Khổng Phu Tử còn sống, việc cúng tế thờ phụng tổ tiên đã là một phong tục cổ rồi. Biết kính trọng người xưa, biết thờ cúng tổ tiên, biết đến nguồn gốc chính là hợp với mệnh trời.

- Nhưng biết thế nào là mệnh trời?

- Không biết mình thì làm sao có thể biết được trời, mà không hiểu được trời thì làm sao có thể hiểu được người khác?

Danh từ “trời” (thiên) là một niệm ý hết sức trừu tượng thường gây ngộ nhận đối với các học giả phương Tây. Một số học giả, nhất là các giáo sĩ, đã khó chịu vì cho rằng “trời” có nghĩa là vòm trời, một khái niệm vô tri giác thì làm sao lại được người Trung Hoa coi trọng như vậy? Có người đồng hóa chữ “trời” với một “Thượng đế” tối cao cai trị muôn loài và tự hỏi cái “tôn giáo thờ trời” đó xuất phát từ đâu? Theo Trần Phi Sơn thì danh từ “trời” là một quan niệm hết sức phức tạp, biến ảo, thay đổi tùy theo thời đại và có thể giải thích khác nhau tùy người sử dụng. Theo ông, “trời” có thể giải thích một cách giản dị như những phong tục, truyền thống, cách xử thế hay những định luật mà con người cần phải tuân theo để thiết lập một trật tự tốt đẹp cho xã hội. Vào thời tiền sử, Trung Hoa chỉ là một tập hợp của những dân tộc dã man, ăn lông ở lỗ, không có một quan niệm rõ rệt về cách xử thế. Có lẽ để kìm hãm tính dã man, tránh cảnh đụng chạm xô xát khi con người bắt đầu biết sống thành bộ lạc mà các tù trưởng, các vị lãnh đạo khi đó đã đặt ra những khuôn khổ, tập tục, cách xử thế dưới một danh nghĩa gọi là “thiên đạo”. Từ đó trải qua hàng ngàn năm, danh từ này đã được thay đổi thành một ý niệm trừu tượng, khi thì được nhân cách hóa, lúc được tôn xưng như một triết lý, một tinh hoa của nhiều nền minh triết thâu gồm lại.

Càng quen biết Trần Phi Sơn, tôi càng quý ông vì đức độ, kiến thức và cung cách xử sự ôn nhu, hòa nhã của ông. Một hôm nhân lúc thảo luận về quyển Tam Quốc Chí, tôi đánh bạo ngỏ ý muốn được kết nghĩa anh em với ông. Vừa nói xong tôi lại thấy ngại vì sợ ông từ chối. Tuy biết ông có cảm tình với tôi nhưng làm sao một người Trung Hoa xuất thân từ một gia đình quyền quý lại có thể kết nghĩa với một kẻ Tây phương như tôi cho được! Tuy nhiên tôi không phải lo ngại lâu vì ông đã mỉm cười chấp nhận ngay lời đề nghị của tôi. Sáng hôm sau, chúng tôi sửa soạn lễ vật đến đền thờ Quan Công ở phía nam thành phố để làm lễ kết nghĩa anh em. Trong sảnh đường mờ tối, dưới hàng nến lung linh mờ ảo, chúng tôi đã quỳ xuống thành khẩn kết nghĩa như hàng ngàn người trước đó đã làm lễ trích huyết ăn thề tại đây. Sau buổi lễ, chúng tôi trở về nhà ông để trình bày tự sự trước bàn thờ tổ tiên.

Trước bàn thờ khói hương nghi ngút, Trần Phi Sơn mở chiếc hộp sơn son thiếp vàng lấy ra một bộ gia phả và bắt đầu đọc cho tôi nghe tên tuổi của những người trong dòng họ cũng như những chức tước và thành quả mà họ đã đạt được. Tôi không có gia phả, ngay cả tên tục của ông nội tôi mà tôi còn không biết huống chi tên tuổi những người trong gia tộc mấy chục đời trước. Tôi chỉ nhớ mang máng hình như có lần cha tôi kể rằng ông nội tôi xuất thân từ miền Norfolk đã dọn đến Luân Đôn từ khi cha tôi còn rất nhỏ. Trong căn nhà rộng của cha tôi tại Luân Đôn chỉ có độc một tấm hình chụp ông nội tôi, một tấm hình rất cũ và mờ nhạt. Vì không mấy khi cha tôi nhắc nhở đến gia đình nên truyền thống gia tộc đối với tôi là một khái niệm hết sức xa vời. Nếu không quen với Trần Phi Sơn, có lẽ chẳng bao giờ tôi biết nghĩ đến nguồn gốc của mình. (Về sau khi trở về nước Anh, tôi đã truy tìm gốc gác dòng họ của mình và biết rằng vùng Hoveton, tỉnh Norfolk là nơi dòng họ tôi đã khởi nghiệp. Cuộc truy tìm giúp tôi đến nghĩa trang nhà thờ Norwich, nơi chôn rất nhiều hài cốt tổ tiên dòng họ Blofeld. Tôi lập một bàn thờ tổ tiên rất đẹp tại căn nhà ở Luân Đôn, tôi còn tìm được một số hình ảnh của ông nội, ông cố mình để bày trên đó. Từ đó hàng ngày tôi bày trái cây lên bàn thờ và thắp hương cúng vái rất cẩn thận). Sau buổi kết nghĩa đó, tôi gọi Trần Phi Sơn là “đại ca” và ông gọi tôi là “tiểu đệ”. Tôi được chấp nhận như một người trong gia đình của ông nên ngày nào tôi cũng đến sinh hoạt, học hỏi với ông một cách thoải mái.

Trong lúc tôi đang say mê học hỏi về những tinh hoa của nền văn minh cổ với các cuốn sách như Luận ngữ, kinh Dịch, kinh Xuân Thu thì đa số người Trung Hoa lại hăng hái nghiên cứu những sách vở khoa học của văn minh Âu Mỹ. Hiển nhiên điều này đã tạo ra nhiều câu chuyện lý thú mà tôi chỉ xin ghi lại đây một chuyện nhỏ. Lần đó tôi có hẹn với một thiếu nữ người Trung Hoa tại một ngôi chùa nhỏ. Đó là một sinh viên tượng trưng cho lớp thiếu nữ tân thời, bạo dạn, tự tin và chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây. Trên đường đến nơi hẹn, cô phải đi ngang một hành lang dài với rất nhiều tượng Phật, Bồ Tát và các bài vị hương linh ký thờ trong chùa. Mặc dù giữa trưa nắng gay gắt, người thiếu nữ tên Linh đã phải cố gắng lắm mới dám đi ngang nơi đó. Nhìn thái độ run rẩy của cô ta, tôi ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao cô lại sợ hãi như vậy?

Linh nhìn tôi bẽn lẽn một lúc rồi nói nhỏ:

- Tôi sợ… ma.

- Cái gì? Cô không tin Đức Phật, Bồ Tát và các vị hộ pháp hay sao?

- Nhưng… nhưng tôi vẫn sợ.

- Một người bạo dạn như cô mà cũng sợ ma quỷ à?

- Chắc chắn rồi, ở chỗ tối tăm như vầy chắc chắn phải có… ma.

- Mọi ngày cô vẫn chế nhạo tôi là lạc hậu, viển vông về quá khứ, khác hẳn những người Tây phương đầy tự tin nhưng sao lần này cô lại mất tự tin như vậy?

- Tại vì… chỗ này… ghê ghê làm sao?

- Nhưng thường ngày cô vẫn từ chối không tin những chuyện mê tín dị đoan, gạt bỏ truyền thống cũ mà chỉ tin những gì có thể kiểm chứng được trong phòng thí nghiệm, thế tại sao hôm nay cô lại sợ hãi một điều vô lý như ma quỷ?

- Tại vì… tại vì… chỗ này có bài vị người chết.

- Nhưng đó đều là những người trong làng, những thân quyến của cô, hình như có cả bài vị của phụ thân cô nữa kia mà?

- Người chết và người sống khác nhau chứ…

- Khác nhau chỗ nào?

- Người chết thành quỷ, thành ma… ghê lắm. Thôi, tôi không muốn nói nữa.

Tôi ngậm ngùi nhận thấy rằng chính nền khoa học thực nghiệm đã vô tình cắt đứt sợi dây liên lạc thân ái giữa hiện tại và quá khứ, giữa con người ngày nay với truyền thống ngày trước và xô đẩy con người hiện tại vào tương lai, một thứ tương lai mờ mịt, không rõ rệt. Sự ngông cuồng và tự tin của một nền khoa học quá mới mẻ đã thúc đẩy con người vào một cuộc phiêu lưu không định hướng, vào một thời đại mà trong đó những người thiếu hiểu biết, không được che chở bởi một truyền thống văn hóa sẽ như con tàu bị đứt dây neo, trôi nổi trong bão tố, trôi giạt từ phương trời này qua phương trời khác, không biết đâu là bến bờ. Phải chăng đó là thảm kịch của thế kỷ văn minh ngày nay? Người ta đã mất hết cội nguồn, sống vội vã trong xô đẩy của thời cuộc, lúc nào cũng lo sợ, bất an và không bao giờ có thể ý thức rõ rệt được ý nghĩa của cuộc sống. Mất đi truyền thống là mất đi chính mình. Mất đi cái di sản thiêng liêng quý báu chính là mất đi trật tự và những gì cần thiết để bảo vệ xã hội mà trong đó con người có thể sống thoải mái trong tinh thần tương thân tương ái. Đến khi đó tôi bắt đầu biết kính phục truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Trung Hoa. Tôi ý thức rõ một sợi dây liên lạc thân ái không hề gián đoạn từ thế hệ này đến thế hệ sau. Một truyền thống tốt đẹp được gìn giữ không đứt đoạn qua cuốn gia phả trong gian nhà thờ. Mỗi thế hệ đều có những quan niệm riêng về cách xử thế, về một nền tảng luân lý đạo đức và rút tỉa các bài học mà họ đã phải trả giá rất đắt để học. Tất cả được ghi chép và gìn giữ cẩn thận, trao truyền lại cho thế hệ sau để con cháu khỏi dẫm vào vết xe cũ của người xưa. Tiếc thay, con cháu không nhận thức được chân giá trị này và đã phải trả một giá rất đắt cho sự ngu dại đó.

Thế chiến thứ hai chấm dứt. Quân Nhật đầu hàng và tôi vội vã trở lại Hồng Kông để tìm Tạ Hải. Căn nhà ở khu Caine Road vẫn còn nguyên vẹn nhưng Tạ Hải không còn được như xưa. Trong thời gian quân Nhật chiếm đóng nơi đây, anh bị họ bắt giam vì đã cứu chữa cho một số người tình nghi chống lại người Nhật. Khi được thả ra thì anh chỉ còn là một con người tiều tụy, thân hình gầy còm, da bọc xương. Mặc dù Tạ Hải tỏ ra vui mừng khi gặp tôi nhưng nhìn khuôn mặt xanh mét, ánh mắt lờ đờ của anh, tôi ngại rằng anh khó có thể sống qua được vài tuần nữa. Chúng tôi ngồi nói chuyện trong căn phòng chẩn mạch của anh. Căn phòng vẫn nguyên vẹn với những kệ sách, những bức đồ hình vẽ các huyệt đạo nhưng dường như không gian phảng phất một cái gì khác lạ. Tôi bùi ngùi nhớ lại mới hôm nào chúng tôi vừa quen nhau, khi đó tôi chỉ là một thanh niên mơ mộng, không thực tế, chưa kinh nghiệm và đang gặp khó khăn trong khi Tạ Hải đã là một Đông y sĩ nổi tiếng, một học giả thông thái quen biết nhiều, giao thiệp rộng. Hiện nay mọi sự đã đổi khác. Tôi là một nhân viên ngoại giao cao cấp đã đi khắp Trung Hoa và anh là một nạn nhân chiến cuộc, bệnh hoạn, thoi thóp sống những ngày cuối của cuộc đời. Một lần nữa tôi ý thức rõ rệt về tình trạng vô thường của kiếp người. Tại sao một người hiền lành, thánh thiện, thường giúp đỡ người khác như Tạ Hải lại phải chịu đựng những oan trái nặng nề như vậy?

Chúng tôi cùng nhau ôn lại kỷ niệm xưa. Tạ Hải không nói gì về mình hay những nỗi bất hạnh mà anh trải qua nhưng lại hỏi thăm xem tôi học hỏi tiến bộ đến đâu. Anh nhắc tôi phải chịu khó nghiên cứu, tìm các lý ẩn của kinh và thực hành những điều đã học. Anh nói đến hạnh nguyện Bồ Tát là quên mình để lo cho chúng sinh vì tất cả đều là một, đâu có chi khác biệt. Tôi kể cho anh nghe việc đã thay mặt anh đi hành hương tại núi Nga Mi. Khuôn mặt Tạ Hải trở nên rạng rỡ. Anh yêu cầu tôi kể rõ chi tiết chuyến đi và tỏ ra hoan hỉ về việc tôi đã thay anh hoàn tất những nghi thức của một người hành hương. Anh châm một nén nhang cắm lên bàn thờ và yêu cầu tôi cùng tụng bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Chúng tôi vẫn thường tụng nghi thức này với nhau nên không có gì lạ nhưng lần này tôi linh cảm như đó là lần cuối cùng.

Sau phần hồi hướng công đức, hình như Tạ Hải muốn nói một điều gì nhưng đã quá mệt mỏi, anh phải gắng gượng mãi mới thều thào cho tôi biết rằng anh hy vọng tôi sẽ giúp anh phiên dịch các kinh điển Phật giáo ra Anh ngữ để cho những người phương Tây có thể biết đến những lời dạy bảo của Đức Thế Tôn. Lúc đó có lẽ vì xúc động nên tôi gật đầu mà không suy nghĩ nhiều. Vài hôm sau Tạ Hải từ giã cõi đời.

Sau khi đưa đám Tạ Hải, tôi cảm thấy như toàn thế giới bỗng sụp đổ, mọi sự dường như không còn một ý nghĩa nào hết. Buồn rầu, thất vọng và chán nản, tôi không còn tha thiết đến việc gì nữa. Đời sống tâm linh đã trở nên một cái gì xa vời vô nghĩa.

Tôi trở về Anh làm giấy giải ngũ và rời khỏi Bộ Ngoại giao. Tôi sống với cha tôi trong những ngày cuối của ông. Vài tháng sau khi ông qua đời, tôi tìm được việc làm tại Đại học Oxford. Vài năm sau tôi xin được một học bổng để nghiên cứu về thể thơ Đường luật và trở lại Trung Hoa nhưng khi đó quốc gia này đã suy tàn và kiệt quệ lắm rồi. Xã hội Trung Hoa đã khủng hoảng vì chiến tranh thì nay lại khủng hoảng hơn nữa vì các khó khăn nội bộ. Chính quyền phải đối đầu với tình trạng kinh tế suy kiệt, nạn thất nghiệp lan rộng khắp nơi và cuộc chiến tranh Quốc – Cộng. Cuộc nội chiến ngày một lan rộng, tiếng súng tưởng đã dứt hẳn sau thế chiến lại bắt đâu vang rền khắp nơi. Tôi đến từ biệt Trần Phi Sơn. Khi đó ông đã già yếu lắm rồi. Tuy bị phong thấp không di chuyển được mấy nhưng ông cũng cố gắng tiễn tôi một quãng đường. Chúng tôi bịn rịn không muốn rời nhau. Ông đưa tôi đến tận cửa rồi mệt mỏi ngồi bệt xuống thềm nhà mà nước mắt rưng rưng. Là người tự chủ và điềm đạm, ít khi nào ông để lộ tình cảm nhưng lần đó ông đã không giấu được cảm xúc. Tôi rời Nam Kinh được ít hôm thì nghe tin ông qua đời đúng lúc quân Cộng sản tiến vào thành phố này.

Khi những người thân yêu của tôi lần lượt qua đời thì Trung Quốc cũng bước vào giai đoạn cuối của cuộc chiến. Quân đội Cộng sản siết chặt vòng vây quanh các thành phố lớn. Họ chiếm Quảng Châu, Tứ Xuyên, Quảng Đông và dần dần kiểm soát toàn thể Trung Hoa. Những biến cố dồn dập này đã gây cho tôi một xúc động lớn. Tôi cảm thấy tất cả dường như sụp đổ. Những gì tôi tin tưởng bỗng trở nên vô nghĩa. Tôi không biết phải làm gì với cuộc đời còn lại! Lòng nhiệt thành với đời sống của tôi tự nhiên thay đổi thành một thái độ khủng hoảng và tuyệt vọng. Ngọn lửa tâm linh vẫn nung nấu trong tâm tôi đột nhiên tắt ngấm. Tôi thấy những việc mà tôi vẫn thành kính thực hành từ trước như lễ bái, thiền tập, học kinh điển… bổng trở nên thừa thãi trước những quay cuồng của cuộc đời.

Khi chạy loạn từ Bắc Kinh xuống Vân Nam, trải qua nhiều biến động thập tử nhất sinh, tôi vẫn còn ý thức rõ rệt mục đích của đời sống. Dù đầu óc dao động mạnh, tôi vẫn còn có nơi nương tựa để tìm lại sự quân bình nhưng hiện nay tất cả đều trở nên vô nghĩa. Khi mất niềm tin, người ta thấy mình trôi nổi trong một cơn sốt lạ lùng kéo dài dường như vô tận. Một động năng kỳ lạ nào đó đã đẩy tôi vào hố thẳm mà tôi không thể cưỡng lại được. Tôi tự hỏi phải chăng những việc tâm linh cao thượng chỉ là một ảo tưởng? Phải chăng sự giải thoát khỏi các khổ đau chỉ là một ý niệm viển vông? Tại sao những người hiền lành như Trần Phi Sơn hay Tạ Hải lại gặp những nỗi bất hạnh? Tất cả mọi lý luận hay giải thích lúc đó đều trở nên vô nghĩa. Tôi nghĩ trước sau ai cũng phải chết nhưng trước khi chết hãy sống thoải mái, say sưa, hưởng thụ tất cả những gì có thể hưởng được.

Tôi sống vật vờ không định hướng như vậy trong một thời gian khá lâu cho đến khi gia đình của Trần Phi Sơn qua định cư tại Hồng Kông. Người Trung Hoa có liên hệ gia tộc rất rộng rãi. Chỉ một thời gian ngắn sau khi dọn qua đây, gia đình này gia nhập vào hội của những người cùng mang họ Trần. Đây là một phong tục rất đặc biệt của người Trung Hoa, dù sống bất cứ nơi đâu họ cũng luôn luôn tìm cách kết hợp, giúp đỡ và liên lạc với nhau qua hình thức một hội ái hữu. Vì đã kết nghĩa với Trần Phi Sơn nên tôi được coi như người trong nhà, và đương nhiên là hội viên của Trần gia ái hữu hội. Cách sống buông thả, trụy lạc của tôi khiến nhiều người lo ngại. Một buổi họp gia tộc diễn ra. Người trưởng tộc quyết định rằng, đã đến lúc tôi phải lập gia đình. Ít lâu sau, gia đình họ Trần đã tìm cho tôi một người vợ thuộc gia tộc này.

Cuộc hôn nhân giữa tôi và Trần Mỹ Phương tạm thời mang lại cho tôi một sự quân bình trong đời sống. Khi trước tôi không có ý định lập gia đình vì tôi nghĩ rằng mình không thể tìm thấy hạnh phúc với một thiếu nữ người Âu, nhưng tôi cũng không thể lập gia đình với một thiếu nữ Trung Hoa trong khi cha tôi còn sống. Dĩ nhiên hiện nay điều này không còn là một vấn đề nữa. Trong suốt ba năm liền chúng tôi sống êm đềm trong một căn nhà nhỏ tại Cửu Long. Ngoài việc dạy học mưu sinh, tôi không còn muốn chú ý gì đến cái thế giới đầy phiền phức bên ngoài nữa. Chúng tôi có với nhau hai mụn con, một trai một gái, và dành tất cả thời gian để chăm sóc chúng.

Mặc dù đời sống gia đình phẳng lặng nhưng thỉnh thoảng trong tâm hồn tôi lại lâng lâng một cảm giác lạ lùng không thể diễn tả. Một cái gì nhẹ nhàng như luồng gió mát giữa trưa hè nóng nực nhắc nhở cho tôi về những điều mà tôi đã từng kinh nghiệm được. Khi đó dù bất kỳ ở đâu hay đang làm gì, tôi cũng thấy mình ngây ngất trong một cảm giác kỳ lạ không thể diễn tả. Nhiều lúc người lái xe buýt lắc đầu thương hại người hành khách đãng trí là tôi quên cả trạm xuống. Đôi khi đám học trò bật cười khi giáo sư tự nhiên lắp bắp nói những câu không đâu vào đâu. Dĩ nhiên giây phút đó trôi qua thì tôi lại trở về với đời sống bình thường.

Các sách vở tâm linh thường đề cập đến một giai đoạn đặc biệt khi người lữ hành đi trên đường đạo phải trải qua những giây phút mệt mỏi, chán chường, bị thử thách, đầy tuyệt vọng. Tôn giáo nào cũng nói đến một giai đoạn khi mọi sự tưởng chừng như chìm đắm vĩnh viễn trong đám mây mù dày đặc thì tự nhiên đám mây mù chợt tan biến và mặt trời hay chân lý hiện ra rực rỡ hơn bao giờ hết. Cái kinh nghiệm lạ lùng này đã được triết gia Aldous Huxley tả rõ trong cuốn Perenial Philosophy và gọi đó là giai đoạn cuối của màn đêm trước buổi bình minh của giác ngộ. Giai đoạn mà người lữ hành đạt đến mục tiêu của cuộc hành trình, khi tâm thức được mở rộng hay nâng lên một bình diện mới, khác hẳn với đường lối suy tư thông thường. Các triết gia Hy Lạp đã sử dụng biểu tượng con chim phượng hoàng xuất hiện trong đám tro tàn khi đề cập đến giai đoạn lúc các quan niệm cũ tiêu tan hết và một ý thức mới nảy sinh, thăng hoa bay bổng. Tôi không nghĩ rằng giai đoạn cay đắng, chán chường tuyệt vọng mà tôi trải qua là giai đoạn cuối của màn đêm trước buổi bình minh của giác ngộ nhưng là một dấu hiệu báo trước rằng cuộc đời của tôi đang bước vào một giai đoạn mới.

Sau một thời gian làm việc tại Hồng Kông, tôi xin được một chân dạy tiếng Anh tại Thái Lan. Công việc thu xếp đã xong, chỉ còn chờ ngày lên đường. Hôm đó tôi ngồi trên chiếc ghế nhỏ sau vườn, lơ đãng nhìn lũ con nô đùa trong sân, bất chợt một cơn gió mát thổi qua mặt tôi. Trong giây phút đó tự nhiên tôi nảy ra ý nghĩ rằng đó là một hạt tuyết trắng ngần, bay từ dãy Hy Mã Lạp Sơn xuống. Vừa nghĩ đến đó tôi cảm thấy trong tâm dâng lên một cảm giác lạ lùng, một trạng thái an lạc không thể diễn tả và tự nhiên một tiếng nói thầm lặng, vô thanh từ đâu bỗng rót vào tai tôi: “Giai đoạn đen tối đã qua. Con sẽ thấy nó không phải là hậu quả của những việc con đã làm mà chỉ là một giai đoạn, một dấu hiệu báo trước về những điều tốt đẹp sắp xảy đến. Đừng vì quá bi quan mà quên rằng con người có khả năng tự giải thoát mình ra khỏi các phiền não khổ đau của đời sống. Đừng vì quá quan tâm đến những việc nhỏ mọn mà quên phóng tầm mắt lên những điều cao thượng. Đừng để cho những ánh đèn chập chờn của đô thị làm chóa mắt mà quên đi vẻ đẹp tuyệt vời của vầng trăng sáng. Hãy kiên nhẫn tiếp tục con đường đã đi và đặt niềm tin rằng con sẽ không đi con đường đó một mình.

Hãy tìm kiếm không ngừng rồi con sẽ tìm được điều con muốn tìm. Cơ hội sẽ đến và chỉ đến khi đó con sẽ hiểu được điều ta muốn nói. Điều con muốn tìm con không thể tìm thấy tại Hồng Kông hay Thái Lan, nhưng con sẽ tìm được nó ở một nơi khác. Hãy để cho thời gian làm việc. Đừng tìm kiếm một cách vội vã và hãy để cho nội tâm phong phú của con hướng dẫn”.

Tôi bàng hoàng một lúc khá lâu như vừa tìm lại được cái gì đã mất. Câu nói đó từ đâu xuất phát? Phải chăng đó là một lời tiên tri? Một sự hướng dẫn? Hay chỉ là một ý thức thầm kín trong đáy lòng bỗng bất chợt phát ra? Đã bao lâu nay tôi muốn tìm quên nhưng rồi tôi vẫn không thể quên được. Hình như tôi thấy trong người chợt đổi khác. Tâm trạng khủng hoảng tuyệt vọng vẫn đè nặng tâm tư tôi bỗng biến mất. Như người trút được gánh nặng, tôi bước đến trước bàn thờ trong nhà. Đã lâu lắm rồi tôi mới tìm lại được cử chỉ trang nghiêm thành kính của mình. Tôi nhẹ nhàng châm một nén nhang cắm lên bàn thờ và chợt ý thức rõ rệt mùi thơm của nhang trầm. Một lúc sau tôi thấy mình say sưa tụng lại câu thần chú mà khi xưa Kim Cương trưởng lão đã truyền dạy: “Namo Gurube, Namo Budhdhaya, Namo Dhamaya, Namo Sanghaya”.

Cho đến nay, thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về cảm giác lạ lùng này. Nhiều bạn hữu hỏi rằng có thật tôi đã nghe được một tiếng nói như thế hay không? Dĩ nhiên tôi không thể phủ nhận hay xác nhận, nhưng tôi biết rõ ràng đó là một cảm giác vô cùng đặc biệt, lâng lâng, an lạc, nhẹ nhàng mà không ngòi bút nào có thể tả xiết. Ai đã trải qua kinh nghiệm ấy sẽ hiểu rằng nó chứa đựng một niềm an lạc cao quý nhất trong đời người.

*

Nếu các cung điện tại Bắc Kinh được trang trí lộng lẫy huy hoàng thì tại Thái Lan, kiến trúc lộng lẫy nhất không phải là các cung điện mà là các ngôi chùa (Wat). Từ những màu sắc, cách chạm trổ, các cây cột kèo đều phản ánh một nét mỹ thuật đặc biệt không đâu có. Tôi đã viếng thăm những ngôi chùa Mông Cổ lộng lẫy xây cất trên Ngũ Đài Sơn nhưng so với chùa chiền Thái Lan thì những ngôi chùa này thua kém xa về những chi tiết nghệ thuật. Từ những cây cột bằng gỗ mun đen bóng đến những pho tượng bằng vàng óng ánh; từ những mái ngói màu đỏ thắm đến các ngọn tháp nhọn cao vút… tất cả đều phản ánh một đường nét nghệ thuật độc đáo không đâu có. Người Thái đã biết sử dụng màu sắc một cách tuyệt hảo. Họ đã chọn những màu sắc đặc biệt của các loại ngọc quý như lam ngọc, hồng ngọc, hổ phách… để trang trí.

Từ nhiều thế kỷ nay, Phật giáo đã trở thành quốc giáo, một truyền thống chi phối mạnh mẽ đối với đời sống người dân xứ này. Theo truyền thống, tất cả mọi người thuộc phái nam, không phân biệt vua chúa hay thứ dân, đều phải sống trong tu viện như một tăng sĩ trong một thời gian. Hình ảnh các tăng sĩ đi khất thực trên các đường sá, làng mạc đã trở nên một nét đặc thù quen thuộc. Vì các tăng sĩ đều đi khất thực nên chùa chiền xứ Thái không hề có nhà bếp. Sau khi đi khất thực, các tăng sĩ mang thức ăn về chùa và ăn ngay tại chánh điện. Tại Trung Hoa, chánh điện là nơi tôn kính trang nghiêm, được gìn giữ sạch sẽ, ít ai dám nói lớn hay có những cử chỉ thiếu trang nghiêm tại đây. Riêng tại Thái Lan, chánh điện vừa là nơi hành lễ vừa là chốn hội họp, người ta thản nhiên ăn uống, cười nói một cách thoải mái. Người Thái Lan sống tự nhiên và luôn luôn cười, có lẽ vì thế mà Thái Lan được gọi là “xứ sở của những nụ cười”.

Trong thời gian sống tại đây, tôi thấy Thái Lan đang thay đổi. Tại các đô thị lớn như Bangkok, đời sống không còn an nhiên thoải mái như xưa mà bắt đầu bận rộn quay cuồng. Hầu hết những nhà trí thức, lãnh đạo của Thái đều có khuynh hướng muốn canh tân xứ sở họ theo khuôn mẫu người Âu nên họ đã ban hành nhiều biện pháp cải cách kinh tế, xã hội. Tại Đại học Bangkok, đa số sinh viên tỏ ra nghi ngờ truyền thống cũ và ít nhiều có tư tưởng vọng ngoại. Họ so sánh đời sống tại đây với các cường quốc Âu Mỹ. Họ thán phục các bộ môn khoa học kỹ thuật phương Tây và nhiệt thành bắt chước đời sống của các thanh thiếu niên Âu Mỹ một cách lố bịch. Nhiều người đã nói với tôi rằng: “Phật giáo tượng trưng cho những gì cổ hủ, lạc hậu, không thích hợp với trào lưu tiến hóa hiện nay”. Có người còn cho rằng Đức Phật Thích Ca chỉ là một nhân vật tưởng tượng. Vào các ngày lễ có tính cách tôn giáo, những lớp người trẻ này cũng đi chùa, nhưng thay vì học tập kinh điển hoặc tìm hiểu về truyền thống Phật giáo thì họ lại coi đó là những cơ hội để hẹn hò, gặp gỡ lẫn nhau.

Vì một lý do khó có thể giải thích, người ta đã cố tình phân biệt hai nền văn minh phương Tây và phương Đông như hai chân trời cách biệt, nhưng nếu so sánh kỹ, người ta sẽ thấy ngày trước hai nền văn minh này vốn không khác nhau bao nhiêu. Bây giờ, nền văn minh phương Tây đã thay đổi trong khi phương Đông vẫn còn giữ được những truyền thống ngày trước. Vì thay đổi, dẹp bỏ truyền thống để đuổi bắt theo những điều viển vông mà người ta gọi là văn minh, tiến bộ, người Âu đã lao mình vào một cuộc phiêu lưu chinh phục ngoại giới qua các lý thuyết, vũ khí, kỹ thuật. Càng chiếm đoạt được nhiều lợi lộc, lòng tham của họ càng gia tăng, và lòng tham lam càng gia tăng thì mục đích của cuộc phiêu lưu này càng có tính cách phi nhân, tàn bạo. Không mấy ai chịu đặt câu hỏi rằng, cuộc phiêu lưu này đã mang lại điều gì cho dân chúng phương Tây? Điều đáng tiếc là những thế hệ trẻ của phương Đông cũng không hề đặt câu hỏi một cách đúng đắn về cuộc phiêu lưu này mà lại coi đó như những gì tốt đẹp mà họ phải đuổi bắt cho kịp.

Vì không biết tiếng Thái, việc nghiên cứu của tôi bị giới hạn rất nhiều, nhưng tôi nhận thấy truyền thống Phật giáo Nam Tông tại Thái Lan quá chú trọng vào từ chương và chỉ giới hạn trong một số ít kinh điển bằng tiếng Pali. Các tăng sĩ bị chi phối trong truyền thống bảo thủ, khắt khe này nên đôi lúc khó có thể thích ứng với những đổi thay quá nhanh của thời cuộc bên ngoài. Một phần nữa, các tục lệ mê tín dị đoan của địa phương như cầu khấn, lên đồng nhập cốt, lấy lá số chiêm tinh, cúng sao giải hạn… đã ăn sâu vào đời sống các tu viện và trở thành một nguồn lợi về tài chính quan trọng cho các chùa chiền. Người ta không còn coi Đức Phật Thích Ca như một vị thầy hướng dẫn mà biến ngài thành một vị thần linh, một đấng Thượng đế có thể ban phát các điều này nọ. Tôi đã nghe nhiều buổi diễn giảng mà trong đó các tăng sĩ đã cố tình giảng dạy sai lạc đi hoặc bóp méo những sự kiện lịch sử để thần thánh hóa ngài lên. Có lần tôi tham dự một buổi lễ quan trọng trong một ngôi chùa tại Saraburi, chính giữa chánh điện có một tảng đá khá lớn in dấu một vết chân người, nhưng là một vết chân rất lớn như chân người khổng lồ. Các tăng sĩ nói rằng đó chính là vết chân của Đức Phật Thích Ca khi ngài qua thăm xứ này. Theo sự hiểu biết của tôi thì Đức Phật Thích Ca không hề du hành đến Thái Lan. Phạm vi hoạt động của ngài chỉ giới hạn tại miền bắc nước Ấn mà thôi. Các tăng sĩ quả quyết rằng ngài đã đến giảng dạy tại đây và để lại một vết chân làm tin.

- Các vị hãy nghĩ lại coi, làm gì có vết chân nào to lớn quá khổ, dài cả nửa thước như thế kia? Một người như thế hẳn phải là một người khổng lồ.

- Dĩ nhiên Đức Phật Thích Ca là một người khổng lồ. Một vị Phật ắt phải to lớn hơn người thường rồi.

- Nhưng điều này xét ra vô lý.

- Đức Phật có phép thần thông, ngài muốn biến chân ngài to nhỏ gì chẳng được. Ông là người Âu làm sao có thể biết về Đức Phật nhiều hơn chúng tôi được?

Dĩ nhiên mỗi khi gặp những cuộc tranh luận như thế tôi đều cười trừ, làm thinh vì biết không thể tranh luận gì với những người như vậy.

Tôi sống tại Thái Lan được năm năm liền. Đời sống một giáo sư đại học tương đối nhàn tản nên tôi có dịp đi thăm thú đó đây. Lần đó tôi cùng một nhóm giáo sư du ngoạn lên miền bắc xứ Thái. Trên đường chúng tôi có dịp đi ngang một ngôi chùa xây cất đồ sộ nhưng vì lý do gì đó đã bị bỏ hoang, cây cối mọc kín chung quanh. Không hiểu sao cảnh vật nơi đây dường như có gì quen thuộc, một cái gì kỳ lạ khêu gợi trí tò mò của tôi. Tôi nảy ra ý định sẽ trở lại thăm viếng ngôi chùa này một lần khác, nhưng rồi ngày tháng trôi qua, hình ảnh ngôi chùa đó dần dần chìm sâu trong quên lãng.

Một ngày chủ nhật đẹp trời, đang ngồi trong phòng đọc sách bỗng nhiên tôi thấy lại hình ảnh ngôi chùa đổ nát kia xuất hiện trong tâm khảm mình. Một hình ảnh lạ lùng và dường như có gì thôi thúc tôi đứng bật dậy chạy thẳng xuống nhà lấy xe đi lên miền bắc. Khoảng hai giờ sau tôi đến Nontaburi, một thị trấn nhỏ nằm ở ven sông Cửu Long. Từ đây tôi thuê một chiếc đò nhỏ đi lên phía thượng lưu. Khí trời mùa hạ nóng oi bức. Ngồi trên đò tôi phải che dù và luôn tay quạt cho bớt nóng. Chiếc đò nhẹ nhàng lướt đi, vượt qua những chiếc ghe lớn chở đầy gạo, củi hay những chiếc thuyền thả lưới dọc theo hai bên bờ sông.

Cuối cùng tôi cũng đến Wat Chalem. Tôi hấp tấp bước vào giữa mảnh sân lớn lát gạch. Cây cối xanh rì mọc lan khắp nơi, leo lên cả những bức tường thấp quanh chùa. Một bầu không khí tĩnh lặng bao phủ. Tôi đến đây làm gì? Tôi tìm kiếm gì? Tôi phải đi đâu? Tôi ngơ ngác đứng giữa mảnh sân phủ đầy cỏ, quanh tôi muôn ngàn tiếng chim chóc ríu rít, tiếng côn trùng rỉ rả… Tôi ngồi xuống bậc thềm dẫn lên chánh điện. Một cảm giác an bình lạ lùng dường như xâm chiếm lấy tôi. Một cảm giác thoải mái mà phải chăng người ta chỉ có thể tìm thấy tại những nơi chốn đặc biệt như thế này? Tôi ngây người ngồi tại đó cho đến khi mặt trời từ từ khuất sau hàng cây rậm rạp. Tôi đã kinh nghiệm được gì? Tôi đã thấy gì? Dĩ nhiên tôi không thấy một điều gì lạ lùng cả. Tôi cũng không kinh nghiệm được một điều gì khác lạ nhưng chỉ thấy quanh tôi tràn ngập một màu xanh của cây cối, một thứ màu xanh lạ lùng bao phủ khiến tôi chìm ngập trong đó. Đáng lẽ ra tôi phải vào

thăm chánh điện hay ít ra cũng đi thăm thú phong cảnh quanh chùa, nhưng không hiểu sao tôi lại ngồi yên lặng, ngây người nhìn ngắm cảnh vật xung quanh cho đến khi màn đêm bắt đầu buông xuống. Tôi đứng dậy ra về mà lòng vẫn ngây ngất một cảm giác kỳ lạ khó tả.

Chiều hôm đó khi trở về nhà, tôi thấy trong lòng rộn lên một niềm vui thầm kín, một cảm giác khác thường mà tôi không thể diễn tả. Tôi vui vẻ dùng cơm và tự nhiên thấy bát cơm hôm đó bỗng dưng ngon hơn mọi ngày. Tôi bước ra sân ngồi một mình với chén trà nóng trong tay, tự nhiên tôi thấy cảm giác chán nản, tuyệt vọng khi xưa dường như đã biến mất. Hình như vết thương trong tâm khảm tôi đã lành hẳn, gánh nặng mà tôi chất chứa trong lòng dường như không còn nữa và tôi đã uống trà trong một cử chỉ thành kính, trang nghiêm, tận hưởng từng vị ngọt của trà. Đến nay tôi vẫn không thể diễn tả được tâm trạng kỳ lạ của tôi ngày hôm đó. Tại sao tôi lại đến Wat Chalem? Tại sao tôi lại ngồi yên như vậy trong mấy giờ đồng hồ liền? Tôi biết chắc rằng mình đã không thấy gì hay kinh nghiệm được một điều gì, nhưng không hiểu sao hình như vẫn có một cái gì rộn ràng nảy nở trong tâm trí tôi, một cảm giác như người đi xa vừa trở về nhà. Tôi đứng dậy thắp một nén nhang trên bàn thờ và thành kính tụng kinh cho đến khuya. Đêm hôm đó tôi đã ngủ một giấc dài thoải mái. Ngày hôm sau tôi nhận được một bức điện tín của đài BBC Luân Đôn yêu cầu tôi làm một phóng sự kỷ niệm ngày đản sinh của Đức Phật Thích Ca năm thứ 2500. Để làm phóng sự này, đài BBC sẵn sàng trả cho tôi một số tiền để tôi qua Ấn Độ.

Đối với tín đồ Phật giáo, Phật đản là ngày lễ quan trọng được cử hành rất trọng thể nhưng đặc biệt lần kỷ niệm thứ 2500 này mọi quốc gia đều đua nhau tổ chức long trọng hơn nữa. Đài BBC đồng ý để tôi làm một phóng sự dài tường thuật chi tiết tại từng quốc gia Á châu. Đã từ lâu tôi mong có cơ hội được viếng thăm các quốc gia này cũng như các di tích lịch sử của Phật giáo nên gặp cơ hội hiếm có, tôi lên đường ngay.

Quốc gia đầu tiên mà tôi ghé là Miến Điện, một quốc gia sùng mộ đạo Phật nằm ở phía bắc xứ Thái. So với Thái Lan thì Miến Điện là một nước nghèo đói, lạc hậu vì liên tiếp gặp hết chiến tranh này đến chiến tranh khác nên xã hội không phát triển bao nhiêu. Thay vì tổ chức các buổi họp linh đình rầm rộ như bên Thái Lan, hội Phật giáo Miến Điện quyết định mừng lễ Phật đản 2500 dưới hình thức một buổi kết tập kinh điển rập khuôn theo những buổi kết tập kinh điển ngày trước. Theo chỗ tôi biết thì đây là lần kết tập kinh điển thứ sáu kể từ khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn.

Vì lần kết tập kinh điển đầu tiên được tổ chức trong một hang núi nên ban tổ chức Miến Điện cũng muốn buổi kết tập lần này được tổ chức trong một hang núi. Tuy nhiên quanh Rangoon không có một ngọn núi nào nên ban tổ chức đã phải cho đắp một ngọn núi giả rất lớn ở ngoại ô thành phố làm nơi hội họp. Công trình xây cất hết sức quy mô với rất nhiều người góp công và góp của.

Từ khi đồ án được công bố, rất đông người ở khắp nơi kéo về góp phần xây cất nơi kết tập kinh điển này. Họ không quản ngại khó nhọc mang các vật liệu, dụng cụ từ những vùng đồi núi xa xôi kéo về Rangoon. Thôi thì đủ các sắc dân, từ người Mường, người Mán, người Mèo đến người Trung Hoa, người Đại Lý. Họ đi bằng những phương tiện tự túc và làm việc mà không nhận thù lao. Một kỹ sư chỉ huy công trình xây cất cho biết, lúc đầu dự án cũng chỉ giản dị thôi, nhưng vì số người khắp nơi kéo về nhiều quá, phần lớn đều là những thợ giỏi từ các làng mạc xa xôi với nhiều sáng kiến nên theo thời gian, công trình xây cất đã mang những sắc thái đặc biệt không hề có trong dự án lúc đầu.

Tinh thần sùng mộ đạo Phật tại Miến Điện rất cao, gần như làng mạc nào cũng cử người đại diện, đa số là những thợ khéo nhất làng, đi góp phần công quả vào buổi kết tập kinh điển. Chương trình xây cất kéo dài gần một năm và chỉ hoàn tất trước buổi lễ khoảng vài tuần. Theo chỗ tôi nhận xét thì ngọn núi được đắp lên làm chỗ hội họp này bề ngoài xấu xí, không có gì đặc biệt, giống như nhiều tảng đá lớn chồng chất lên nhau, nhưng bên trong thì thật huy hoàng lộng lẫy đủ chỗ cho cả ngàn người.

Trước ngày khai mạc, rất nhiều tăng sĩ từ các quốc gia quanh vùng như Thái Lan, Lào, Ấn Độ, Sri Lanka, v.v. kéo đến tham dự. Trên nguyên tắc, buổi kết tập kinh điển này là của giáo hội Phật giáo Nam Tông (Theravada) nhưng tôi được biết cũng có nhiều kinh điển của Phật giáo Bắc Tông được mang ra bàn thảo vì Miến Điện có một kho lưu trữ kinh điển của Phật giáo rất lớn do vua Mindon Min sưu tầm để lại và được Hòa thượng U Khanti trông nom[8].

Buổi kết tập kinh điển dự trù kéo dài khoảng một năm và kết quả sẽ là bản tường trình danh sách các kinh điển mà hội đồng tăng sĩ đã duyệt qua. Nói về Tam Tạng kinh điển (Kinh, Luật và Luận) thì có đến hàng trăm ngàn bộ, khó ai có thể nghiên cứu hết nên trong buổi kết tập kinh điển lần này người ta chỉ giới hạn vào các kinh điển chính mà thôi. Tuy thế cũng có đến hàng ngàn bộ kinh được mang ra thẩm xét, nghiên cứu. Nói chung đó là những cuốn sách chỉ dẫn cho mọi người về con đường giải thoát của Giới, Định, Tuệ. Giới hay giới luật là những căn bản cần thiết dành cho bước đầu tu tập để đưa đến Định. Định là điều kiện thiết yếu dẫn đến Tuệ và Tuệ là phần cuối của con đường tu hay giải thoát. Nói thì giản dị nhưng thật ra khó ai có thể phân biệt giới hạn giữa Giới, Định và Tuệ vì trong Giới cũng có Tuệ và trong Tuệ vốn có Định, v.v. Do đó hội đồng chỉ có thể tạm thời phân loại kinh điển dưới một hình thức sắp đặt tượng trưng nào đó thôi.

Vì không phải là tăng sĩ nên tôi không được phép tham dự buổi kết tập và công việc của một phóng viên cũng không cho phép tôi ở lại đây lâu nên tôi chỉ có dịp chứng kiến ngày khai mạc buổi lễ mà thôi. Nhìn hàng ngàn tăng sĩ nghiêm trang hành lễ, hàng trăm ngàn tín đồ xếp hàng quanh ngọn giả sơn thành kính tụng niệm, tự nhiên tôi thấy trong lòng bỗng dâng lên một cảm giác phấn khởi lạ lùng. Miến Điện là một quốc gia đã trải qua hai cuộc Thế chiến, phần lớn nhà cửa và đô thị đều ít nhiều bị bom đạn phá hủy, dân chúng chạy loạn, thất tán tứ phương, ruộng vườn hoang vu không người chăm sóc. Sau Thế chiến thứ hai, quốc gia này lại lâm vào một cuộc nội chiến với các phe phái tranh giành ảnh hưởng, quyền lực. Trước toàn cảnh xã hội rối loạn, luật pháp không được tôn trọng, giặc cướp nổi lên khắp nơi, các nhà chuyên môn đã kết luận rằng một quốc gia nghèo đói, suy kiệt đủ mọi mặt như thế sẽ không thể phát triển hay hy vọng gì ở tương lai. Lúc đầu tôi cũng nghĩ như vậy nhưng sau khi chứng kiến tận mắt lễ Phật đản tại đây thì tôi lại nghĩ khác.

Tôi tin rằng với tiềm lực tôn giáo mạnh mẽ, với tinh thần hăng hái tự nguyện như thế kia thì chắc chắn quốc gia này sẽ phát triển mạnh mẽ vào một ngày không xa. Trong khi những quốc gia khác chỉ lo làm giàu về mặt vật chất, phát triển kinh tế kỹ nghệ rồi khi thịnh vượng lại lo sợ ngoại xâm, bao nhiêu của cải phải đổ ra mua vũ khí, bom đạn để tự vệ thì người dân xứ này đã biết giữ gìn, bảo trì truyền thống tôn giáo tốt đẹp. Phải chăng họ biết rằng tài sản của cải có thể mất đi nhưng truyền thống tôn giáo và những giá trị tinh thần mới thực sự là sức mạnh mà không ai có thể tước đoạt được? Hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được về buổi lễ này là một tấm bia đá lớn ghi lại lời dạy của Đức Phật đã được mang từ Mandala về để trước hội trường: “Lấy oán báo oán thì oán kia chập chùng không bao giờ hết. Hãy lấy ân báo oán, lấy tình thương xóa bỏ hận thù vì đó chính là chân lý”. Tôi tự hỏi điều này đã được công bố từ mấy ngàn năm nay rồi mà sao đến nay người ta vẫn chưa biết áp dụng? Phải chăng chính vì thế mà thế giới ngày nay vẫn trải qua các cuộc khủng hoảng chiến tranh, thù hận và nhân loại cứ mải miết sống trong những nỗi bất an, lo sợ phập phồng?

Sau khi rời Miến Điện, tôi qua Ấn Độ. Theo đúng truyền thống, lễ Phật đản được tổ chức vào ngày rằm tháng tư âm lịch, khoảng tháng năm dương lịch. Tuy nhiên tại Ấn Độ, đây là những tháng hè nóng nhất trong năm. Khí trời gay gắt, vừa nóng vừa ẩm lại không có gió nên không mấy ai có thể chịu nổi. Năm đó ban tổ chức quyết định dời lại ngày lễ đến cuối tháng mười, khi nhiệt độ tương đối ôn hòa dễ chịu hơn. Là một quốc gia đang phát triển, Ấn Độ đang trông cậy rất nhiều vào ngành du lịch. Nhà cầm quyền xứ này hy vọng rằng việc dời ngày tổ chức đến cuối năm có thể đem lại cho họ một nguồn ngoại tệ lớn nhờ số du khách ngoại quốc tham dự. Mặc dù không đồng ý với ban tổ chức nhưng tôi nghĩ đây là một cơ hội tốt để hành hương, chiêm bái các Phật tích vào dịp khách du lịch chưa kéo đến.

Là người không thích đám đông hay các nơi chốn ồn ào, náo nhiệt, tôi tận dụng cơ hội này để đi thăm các thắng tích, bất chấp thời tiết nóng nực. Tôi quan niệm rằng người ta không thể đi hành hương một cách thoải mái với các tiện nghi như lúc đi du lịch được. Hành hương không phải một chuyến đi giải trí mà là một cuộc hành trình của nội tâm khi đức tin là chìa khóa hướng dẫn cho mình. Tôi đã thấy những người hành hương Mông Cổ, Tây Tạng không quản đường xa, đi bộ hàng ngàn cây số đến các địa điểm linh thiêng hoặc có người cứ đi ba bước lại sụp xuống lạy một lần quanh rặng Ngũ Đài. Chỉ khi ra đi với một tinh thần dũng mãnh, cương quyết không quản ngại gian nan thử thách như thế thì chuyến đi mới có thể hữu ích được.

Cũng vì quan niệm rằng đây là một chuyến hành hương, tôi quyết định ăn uống thật giản dị, cố gắng giữ tâm ý cho thật trong sạch qua công phu thiền quán. Dĩ nhiên điều này không dễ vì tôi phải dứt bỏ những thói quen hằng ngày, nhất là thói quen đọc báo theo dõi tin tức