← Quay lại trang sách

Chương 6 MỐI HẬN THÙ

Một năm rưỡi sau trận động đất, trang viên Ba Cô Maria lại trở thành một đồn điền kiểu mẫu như xưa. Ngôi nhà lớn của ông chủ đã xây xong, y hệt như ngôi nhà trước, nhưng kiên cố hơn và có thêm một đường ống dẫn nước nóng vào nhà tắm. Nước chảy vào có mầu sô-cô-la nhạt, đôi khi có cả nòng nọc trôi theo, nhưng vòi chẩy thật vui tươi xối xả. Máy bơm của Đức thật quả tuyệt trần. Tôi đi dạo khắp các ngõ ngách của ngôi nhà, tì trên một cây bo-toong lớn bằng bạc, chính chiếc ba-toong tôi hiện đang dùng, mà cháu gái tôi cho rằng tôi dùng nó chẳng phải vì bệnh thọt, mà sử dụng nó như một lý lẽ chắc chắn khiến cho lời nói của mình có sức mạnh hơn. Căn bệnh kéo dài đã làm sứt mẻ cơ thể tôi và tính nết tôi càng trở nên tồi tệ. Đến cả Clara cuối cùng cũng không thể kìm hãm được những cơn cáu bực của tôi. Như người khác, có thể đã trở thành tàn phế do tai nạn đó, nhưng đối với tôi thì sức mạnh của nỗi thất vọng đã giúp cho qua. Tôi nghĩ tới bà mẹ ngồi thối rữa trên chiếc ghế có bánh xe của bà ngay khi còn sống, và điều đó đã làm cho tôi kiên nhẫn để rồi đứng dậy được, bước đi được, dù cho có phải cố sức như kẻ tội đồ. Tôi thấy mọi người khiếp sợ tôi. Đến cả Clara, người chưa bao giờ sợ hãi cơn cáu bẳn tồi tệ của tôi, một phần vì tôi cũng hết sức giữ gìn để không nổi giận với em, cuối cùng cũng đi đến sợ hãi. Nhìn thấy em sợ hãi mình, tôi càng thấy trong người căng thẳng.

Dần dà Clara tới chỗ có nhiều thay đổi. Em có dáng mỏi mệt và tôi thấy em như xa cách mình. Em đã không còn cảm tình với tôi, những cơn đau của tôi không còn khiến cho em thương hại mà lại làm cho em khó chịu, và tôi nhận thấy em như muốn tránh mặt tôi. Em đã dám nói thẳng với tôi rằng trong thời kỳ đó em thích đi vắt sữa bò cùng Pedro García hơn là ngồi cùng tôi trong phòng khách. Clara càng xa cách, tôi lại thấy sự cần thiết về tình yêu của em càng lớn. Nỗi thèm muốn mà tôi có khi cưới em đã không giảm bớt, tôi vẫn muốn được em hoàn toàn, đến tận những ý nghĩ sâu thẳm nhất của em, nhưng người phụ nữ trong vắt như không khí kia đi qua bên tôi như một hơi thở, và dù cho tôi có nắm giữ em bằng đôi bàn tay và ôm hôn em một cách tàn nhẫn, tôi vẫn không thể cầm giữ được em. Tinh thần em không ở cùng tôi. Khi thấy em sợ hãi mình, cuộc sống của chúng tôi biến thành cuộc sống trong một nhà trừng giới. Ban ngày, người nào bận bịu vào công việc của người đó. Cả hai chúng tôi đều có nhiều việc phải làm: Chúng tôi chỉ gặp nhau trong giờ ăn, và lúc đó tôi là người vừa nói vừa nghe hết cuộc chuyện trò, vì em dường như bay trên những tầng mây lơ lửng. Em trở nên rất ít nói và để mất đâu nụ cười tươi mát và mạnh bạo, cái vẻ mà tôi thích thú nhất trong người em. Bây giờ em đã thôi không còn ngả đầu ra đằng sau mà há miệng cười ha hả. Hầu như không cả mỉm cười. Tôi nghĩ có lẽ tuổi tác và tai nạn của tôi đã làm cho chúng tôi xa cách, có lẽ em đã chán cuộc sống vợ chồng, điều thường xảy ra đối với tất cả mọi cặp lứa đôi, và có lẽ tôi chẳng phải là một anh chồng tế nhị, lúc nào cũng biết tặng hoa và nói những chuyện có duyên, hay đẹp. Nhưng tôi định cố gần em. Sao lại định nhỉ, lạy Chúa! Tôi đột nhập trong buồng em khi em đang say mê viết trong những cuốn vở ghi chép cuộc đời hoặc đang ngồi bên chiếc bàn gọi hồn. Tôi định cố chia sẻ cùng em trong những trò đó nữa, nhưng em không thích người khác xem những điều em ghi chép, và sự có mặt của tôi đã cắt đứt hứng thú của em khi đang chuyện trò với những hồn ma, cho nên tôi đành phải từ bỏ những ý đồ toan tính đó. Đồng thời tôi cũng phải từ bỏ cả dự định xây dựng mối giây liên hệ đẹp đẽ cùng Blanca. Con gái tôi từ thuở còn nhỏ đã rất kỳ cục và chưa bao giờ tỏ ra trìu mến, dịu dàng như tôi vẫn thường mong muốn. Thực tế nó giống như một con sóc lông lá. Tôi nhớ rõ con bé từ trước vẫn có vẻ sợ tôi và không có cái mẫu dục mặc cảm tiên thiên để phải lảng tránh. Nhưng giờ đây nó đã trở thành một cô thiếu nữ, hình như thông minh và chín chắn trong độ tuổi của nó, và rất thống nhất với mẹ. Tôi cho rằng nó có thể giúp tôi, và tôi cố gắng tranh thủ nó làm đồng minh, cho nó nhiều tặng phẩm, đùa bỡn pha trò với nó, nhưng nó cũng vậy, lảng tránh tôi. Bây giờ tôi đã già rồi, có thể nói về việc đó mà không còn thấy mất sáng suốt vì bực bội, tôi cho rằng tất cả những tội lỗi đó đều do tình yêu của nó đối với Pedro García Con gây ra. Blanca là đứa con gái không thể mua chuộc được. Chẳng bao giờ nó đòi hỏi cái gì, còn ít nói hơn cả mẹ nó, và nếu tôi có buộc nó phải hôn chào thường ngày, nó miễn cưỡng hôn làm cho tôi cảm thấy đau như bị một cái tát. “Tất cả sẽ thay đổi, khi chúng ta trở về thủ đô và sống cuộc đời văn minh”, tôi tự nói với mình như vậy, nhưng cả Clara lẫn Blanca đều chẳng biểu lộ chút xíu quan tâm đến việc từ giã đồn điền Ba Cô Maria, mà ngược lại, mỗi lần tôi nhắc đến vấn đề đó, Blanca lại nói cuộc sống ở nông thôn đã làm cho nó khỏi bệnh, nhưng cảm thấy chưa thật khỏe, còn Clara thì nhắc tôi biết còn rất nhiều việc phải làm ở đây, không thể để mọi việc trong tình trạng mới làm xong một nửa. Vợ tôi chẳng nhớ tiếc đến những việc cầu kỳ đã quen thuộc của em, và hôm mà chuyến đồ gỗ và dụng cụ gia đình mà tôi gửi mua để cho em phải ngạc nhiên, về tới trang viên Ba Cô Maria, em chỉ nói gọn một câu khen tất cả đều rất đẹp. Chính tôi phải sắp đặt việc kê, bày từng thứ một đâu vào đấy, bởi em như chẳng quan tâm chút nào vào những công việc đó. Ngôi nhà mới được trang hoàng thực sang như chưa bao giờ từng thấy, ngay cả những ngày huy hoàng trước kia của cha tôi, trước khi người làm cho nó điêu tàn. Họ đã gửi về cho tôi những chiếc bàn kiểu thuộc địa bằng gỗ sến mầu nâu hồng và gỗ hồ đào, đóng bằng tay, và những tấm thảm len dầy cộm, những chiếc đèn bằng sắt và đồng gò, chạm. Tôi đã gửi mua tại thủ đô một bộ bát đĩa ăn bằng sứ nước Anh, có họa tiết trang trí vẽ bằng tay, xứng đáng để bầy tiệc trong một sứ quán, và những đồ thủy tinh, bốn hòm đầy những dụng cụ trang trí, khăn trải giường và khăn bàn bằng sợi đan, một tập đĩa nhạc cổ điển và nhạc nhẹ, cùng với chiếc máy hát thật hiện đại. Bất kỳ người phụ nữ nào cũng đều vui sướng có được trong tay tất cả những thứ đó, và sẽ bận bịu hàng tháng ròng để thu dọn nhà cửa, sắp xếp đâu vào đấy, trừ Clara, em như dửng dưng trước những thứ đồ đạc mới mua về. Em chỉ làm mỗi một việc là huấn luyện cách dùng cho hai chị nấu bếp và hướng dẫn cho mấy cô gái con tá điền, để chúng biết cách hầu hạ trong nhà, và vừa ngơi tay khỏi việc nấu nướng, hoặc rời được chiếc chổi khỏi tay, em lại quay vào mê mải với những cuốn vở ghi chép cuộc đời và những quân bài bói toán trong những giờ nhàn rỗi. Phần lớn thì giờ trong ngày em bận bịu trong xưởng khâu may, trạm y tế và trường học. Tôi để cho em yên ổn trong những công việc đó, bởi vì chính những việc đó đã khẳng định lẽ sống của em, một người phụ nữ từ thiện và rộng lượng, ham mê làm những việc cho người xung quanh mình được dễ chịu, phải, cho tất cả mọi người ở xung quanh, chỉ trừ tôi. Sau trận động đất, chúng tôi xây dựng lại cửa hàng tạp hóa, và để em vừa ý, tôi đã bỏ lối trả công bằng những tấm giấy màu hồng, mà bắt đầu trả mọi người bằng giấy bạc, vì Clara nói dùng tiền mọi người có thể mua các thứ ở thị xã và có thể tiết kiệm được. Không đúng như vậy. Giấy bạc chỉ giúp cho bọn đàn ông đi nhậu nhẹt say sưa, còn đàn bà và trẻ con thì lại chịu thiếu thốn trong mọi yêu cầu cần thiết. Những chuyện loại này và đã khiến chúng tôi phải cãi cọ rất nhiều. Và những người tá điền bao giờ cũng là nguyên nhân gây ra những chuyện tranh cãi giữa chúng tôi. Không, không phải tất cả những chuyện tranh luận. Chúng tôi cũng tranh cãi với nhau về cuộc chiến tranh thế giới nữa. Tôi theo dõi những bước tiến của quân đội phát xít Đức trên một bức bản đồ vẫn treo trên tường phòng khách, còn Clara thì lại đan tất cho binh lính của đồng minh. Blanca đưa tay ôm chặt lấy đầu, không hiểu nguyên cớ của sự say mê khác nhau giữa hai chúng tôi về một cuộc chiến tranh đang diễn ra ở tận mé bên kia đại dương và chẳng có một chút dính líu gì đến chúng tôi cả. Có thể chúng tôi cũng có những sự hiểu lầm bởi nhiều lý do khác. Trên thực tế, rất ít khi chúng tôi đồng ý với nhau về một sự việc gì. Không phải tính nóng nẩy cáu bẳn của tôi là cái tội gây ra tất cả những cuộc tranh cãi và bất đồng ý kiến đó; vì tôi là một người chồng tốt, không còn chút nào bóng dáng của anh chàng điên cuồng khi chưa vợ xưa kia. Và em, là người phụ nữ duy nhất của tôi. Cho đến bây giờ vẫn thế.

Một hôm Clara cho đặt một khóa ngang trong cửa phòng em và không để cho tôi vào nằm cùng giường, ngoài những trường hợp tôi thúc ép ghê quá, dọa rằng nếu từ chối có nghĩa là cắt đứt hoàn toàn. Thoạt đầu tôi nghĩ có lẽ em thấy có cái khó chịu bí mật thường đôi khi xẩy ra với người phụ nữ, hoặc do sự tắt kinh, nhưng khi việc đó kéo dài nhiều tuần lễ, tôi liền quyết định phải nói với em. Bình tĩnh em giải thích cho biết quan hệ vợ chồng giữa chúng tôi đã bị tổn thương, và vì vậy sự sẵn sàng đón những trò yêu đương nhục thể trong em đã mất. Em diễn giải một cách tự nhiên rằng nếu đã chẳng còn điều gì phải nói với nhau, thì cũng không có lý gì để nằm cùng một giường, và tỏ vẻ rất ngạc nhiên thấy suốt ngày tôi giận dữ với em, mà đến đêm lại muốn được em vuốt ve âu yếm. Tôi cố sức nói cho em rõ về phương diện đó đàn ông và đàn bà có đôi chút khác nhau, và tôi yêu quý em dù cho tôi có nhiều tai quái, nhưng tất cả đều vô ích. Trong thời kỳ đó tôi còn có sức lực và mạnh khỏe hơn em, tuy em còn trẻ hơn nhiều và tôi đã gẫy xương vì tai nạn. Theo năm tháng trôi qua, tôi cũng gầy đi. Không còn một gam mỡ nào trong thân thể, nhưng tôi vẫn giữ được cái dẻo dai bền bỉ và mạnh khỏe như thời thanh niên. Tôi vẫn có thể cưỡi trên lưng ngựa suốt ngày, ngả mình bất cứ chỗ nào đều ngủ được, ăn bất cứ món gì cũng xong, không đau bàng quang, gan và những bộ phận nội tạng mà người ta thường hay mắc. Xương thì có đau, cái đó đúng. Vào những buổi chiều trời lạnh hoặc trong những đêm ẩm ướt, cái đau trong những khúc xương bị gẫy dập trong trận động đất thật dữ dội khiến tôi phải cắn chặt chiếc gối để mọi người khỏi nghe thấy tiếng rên. Đến khi không còn chịu nổi, tôi bèn tu vội một hơi dài rượu nặng và hai viên aspirin, nhưng rồi cũng chẳng thấy giảm đau. Điều lạ lùng là vấn đề tình dục của tôi, theo năm tháng trôi qua, trở nên có chọn lọc hơn, nhưng hầu như vẫn bừng bừng dễ cháy như thể trong thời trai tráng. Tôi thích ngắm nhìn phụ nữ, đến bây giờ cũng vẫn như vậy. Nó như một khoái cảm thẩm mỹ, tinh thần. Nhưng chỉ riêng Clara bao giờ cũng khơi dậy trong tôi một thèm muốn cụ thể, tức khắc, bởi trong cuộc chung sống lâu dài, chúng tôi đã hiểu biết rõ về nhau, và người nọ bằng ngón tay của mình đã thông thuộc cái địa lý chính xác của người kia. Em biết đâu là những điểm nhậy cảm nhất của tôi, và có thể nói cho tôi biết đúng điều mà tôi cần nghe. Vào độ tuổi mà số đông nam giới đã chán vợ mình và cần thiết sự kích thích của những người phụ nữ lạ để có thể tìm thấy tia lửa thèm muốn, tôi vẫn tin chắc chắn rằng chỉ có cùng Clara tôi mới có thể thực sự yêu đương, như thể trong thời kỳ trăng mật, không biết mệt. Nên tôi không hề có ý định đi tìm những người đàn bà khác.

Tôi bắt đầu bao vây em khi bóng đêm đổ xuống. Về buổi chiều khi em ngồi viết, tôi giả vờ thưởng thức píp thuốc, nhưng thực tế tôi liếc mắt dò xét trộm. Nhẩm tính rằng em sắp sửa rút về phòng - vì thấy em đã bắt đầu lau ngòi bút và gấp những quyển vở lại - tôi liền đi trước ngay. Tôi khập khiễng bước vào phòng tắm, lau rửa, mặc một áo khoác trong nhà bằng nhung tơ mà tôi đã mua nhằm quyến rũ em, nhưng hình như em chưa bao giờ chú ý đến sự tồn tại của nó; tôi dán tai vào cánh cửa và chờ em. Khi tôi thấy tiếng em bước trên hành lang, liền chạy ra ôm liền. Tôi đã thử đủ mọi cách, từ trút đầy người em những lời khen ngợi và tặng phẩm, cho đến dọa nạt sẽ tống ra khỏi cửa và dần cho một trận ba-toong dừ người, nhưng chẳng cách nào có thể lấp nổi vực thẳm ngăn cách giữa hai chúng tôi. Tôi cho rằng cái ý định cố làm cho em quên tính nết cáu kỉnh đã khiến cho em hấp hối lúc ban ngày bằng những đòi hỏi yêu đương vội vã lúc đêm hôm thật rõ ràng vô ích. Clara lảng tránh tôi bằng vẻ lơ đãng mà cuối cùng tôi rất ghét. Tôi không thể hiểu được cái gì đã làm cho em có sức hấp dẫn tôi đến thế. Em là một phụ nữ đã có tuổi, không đỏm dáng chút nào, khi bước đi hơi lê đôi chân, và đã không còn tính vui vẻ vô cớ nó làm cho em rất duyên dáng trong thời kỳ thanh niên. Clara cũng chẳng có vẻ quyến rũ hoặc dịu dàng âu yếm đối với tôi. Chắc chắn em không hề yêu tôi. Thật chẳng có lý do gì làm cho tôi phải thèm muốn em đến độ không mực thước và thô bạo nó đẩy tôi tới chỗ thất vọng và lố lăng như vậy. Thế nhưng tôi vẫn chẳng tránh được điều đó. Dáng đi đứng nhỏ nhẹ của em, mùi sạch sẽ của quần áo và xà phòng của em, ánh sáng của đôi mắt em, cái duyên dáng của chiếc gáy gầy nhỏ có những mớ tóc loăn xoăn bướng bỉnh rối tung của em, tất cả những thứ đó trong em tôi đều thấy thích. Sự mảnh dẻ của em gây cho tôi một cảm giác dịu hiền không chịu nổi, lại muốn che chở bênh vực em, ôm ấp làm cho em cười vang như những ngày xưa, lại cùng ngủ bên nhau, đầu em gục trên vai tôi, đôi chân thật nhỏ và ấm của em dưới đôi chân tôi, tay em đặt trên ngực tôi, ôi thật dễ thương và quý giá. Đôi lần tôi có ý định trừng phạt em bằng lối giả vờ hờ hững, nhưng chỉ sau một vài ngày tôi phải chịu thua ngay, vì em có vẻ yên tâm và sung sướng nhiều hơn trong thời gian tỏ vẻ quên em. Tôi đục một lỗ thủng trên tường buồng tắm để nhìn trộm em, nhưng việc đó lại đẩy tôi vào một tình trạng nôn nao xáo động gớm ghê nên tôi lại phải bịt nó lại bằng vôi vữa. Để chọc tức em, tôi làm ra vẻ đi đến tiệm Cây Đèn Bão Đỏ, nhưng lời bình duy nhất của em là, như vậy còn hơn là đi hiếp những cô gái nông dân, làm cho tôi ngạc nhiên vô cùng, không dè em lại biết rõ về chuyện đó. Nhân lời bình đó của em, tôi lại định tiến hành những cuộc cưỡng hiếp, cốt để làm cho em khó chịu, nhưng lúc đó lại nhận thấy tuổi tác và trận động đất đã tàn phá sức mạnh đàn ông của mình, bấy giờ tôi chẳng còn đủ sức để vòng tay ôm ngang lưng một cô gái khỏe mạnh, nâng cô lên lưng ngựa, và càng không có thể đủ sức để giật tung quần áo và hiếp cô. Tôi đã ở vào độ tuổi cần phải có sự giúp đỡ, dịu dàng của người khác mới có thể làm được việc yêu đương. Mẹ kiếp, mình già mất rồi.

Esteban là người duy nhất nhận thấy cơ thể mình đang teo nhỏ dần. Ông nhận thấy điều đó qua bộ quần áo. Không phải đơn giản chỉ thấy lùng thùng bề ngang, mà còn thấy tay áo quá dài, ống quần cũng vậy. Ông nhờ Blanca dùng máy khâu sửa chữa lại quần áo cho ông, lấy cớ rằng bây giờ mình gầy đi, nhưng trong thâm tâm lo lắng tự hỏi có phải tại ông Pedro García Già đã sắp xếp xương mình ngược hoặc không đúng chỗ, cho nên thân thể trở nên teo bé lại. Ông không nói với ai điều đó, cũng như không hề nói đến những cơn đau đớn của mình bởi cái tính kiêu ngạo khác người.

Vào dịp đó người ta đang chuẩn bị cuộc bầu cử tổng thống. Trong một bữa ăn tối của những chính khách thuộc Đảng Bảo Thủ tại thị xã, Esteban Trueba làm quen với bá tước Jean de Satigny. Vị này đi giày da dê non, mặc áo ngoài bằng gai thô, không đổ mồ hôi như những con người trần tục và tỏa ra mùi nước hoa Anh, lúc nào cũng phơi người dưới nắng để đánh một quả bóng nhỏ qua một vòng cung nhỏ bằng một cây gậy, và khi nói thì kéo dài những âm tiết cuối cùng và nuốt hết những chữ R. Đó là người duy nhất Esteban quen biết, người đàn ông bôi thuốc đánh bóng móng tay và tô chì xanh da trời quanh vành mắt. Vị bá tước đó có những tấm danh thiếp in gia trưng của dòng họ, con người tuân thủ mọi quy tắc xã giao trong cuộc sống đô thị, cộng thêm một số quy tắc do bản thân ngài sáng tạo ra, ví dụ ăn bánh mì bằng chiếc cặp y tế, khiến cho tất cả mọi người phải sững sờ kinh ngạc. Nam giới chế riễu sau lưng ông ta, nhưng rồi lại thấy họ nhanh chóng bắt chước lối sang trọng của ông, đi giầy da dê non, và học cái vẻ hờ hững và cung cách văn minh của ông ta. Danh hiệu bá tước đã đặt ông vào một trình độ khác với thứ bực của bao người di cư khác đã từ Trung Âu tràn sang đây để trốn tránh những cơn dịch hạch của thế kỷ trước, từ Tây Ban Nha di cư sang để tránh cuộc chiến tranh, từ Trung Đông sang để buôn bán như người Thổ Nhĩ Kỳ, và những người Armenia châu Á sang để bán những món ăn điển hình và những món hàng tạp hóa của họ. Bá tước de Satigny không cần thiết phải làm chuyện buôn bán kiếm ăn, theo như lời ông nói cho mọi người biết vậy. Việc buôn bán loại chồn chuột chẳng qua chỉ là một cách để ông ta giết thì giờ.

Esteban Trueba đã trông thấy loại chồn chuột lảng vảng đến gậm nhấm tại vùng đồn điền của ông, và đã dùng súng săn để bắn cho chúng khỏi phá hoại mùa màng, nhưng thật ra không bao giờ ông lại nghĩ đến việc loài gậm nhấm vô nghĩa lý đó có thể biến thành áo choàng của các bà phụ nữ. Jean de Satigny đang tìm một người đồng hội có thể đầu tư vốn, chạy công việc, tìm người chăn nuôi, và chịu mọi mặt rủi ro, để được chia cho năm mươi phần trăm tiền lãi. Esteban Trueba không phải là một người phiêu lưu trong bất kỳ một mặt nào đó của cuộc đời, nhưng vị bá tước người Pháp có cái duyên nhanh nhẹn và tài năng làm cho ông mê muội, khiến cho ông đã phải bao đêm thức trắng để nghiên cứu đề nghị kinh doanh con chồn chuột và tính toán để bỏ vốn. Trong khi đó Monsieur de Satigny sống dài ở đồn điền Ba Cô Maria, với tư cách khách mời danh dự của ông chủ. Ông ta đánh quả bóng tí hon ở giữa sân cỏ dưới trời nắng rực, uống một cách vô chừng mực nước dưa hấu không pha đường và lượn lờ nhìn ngắm thật khôn khéo những thứ đồ gốm mà Blanca sáng tạo ra. Ông ta đi tới chỗ đề nghị với cô nên cho xuất những món đồ gốm đó sang những nước khác có thị trường chắc chắn để tiêu thụ những sản phẩm của người India. Blanca phải cố giải thích để cho ông ta khỏi lầm lẫn, để ông ta biết cô không có tí chút dính líu gì đến dòng giống người India, và tác phẩm gốm của cô cũng vậy, nhưng hàng rào ngôn ngữ đã ngăn không cho ông ta hiểu được quan điểm của cô. Bá tước de Satigny trở thành một sự giao tiếp xã hội rộng rãi đối với gia đình Esteban Trueba, vì từ khi ông ta đến ở đồn điền Ba Cô Maria, người ta tới tấp mời gia đình ông chủ điền tới những điền trang lân cận, tới các cuộc họp với những nhà đương quyền hành chính của thị xã và tới các cuộc họp quan trọng về văn hóa và xã hội ở trong vùng. Người ta đều muốn được gần cận vị khách người Pháp đó, với hi vọng được lây một chút danh hiệu cao sang của ông ta, những cô thiếu nữ thở hồi hộp khi trông thấy ông ta, và những bà mẹ đều mong được ông ta làm rể, họ tranh nhau cái vinh dự được mời mọc ông ta. Những vị quí phái đều thèm muốn số phận của Esteban Trueba, đã được vị bá tước chọn để hùn vốn kinh doanh loài chồn chuột. Người duy nhất không bị lóe mắt trước những sự cám dỗ đó của ông khách người Pháp là Clara, bà chẳng hề thấy đẹp đẽ ghê gớm gì cái kiểu cách bóc vỏ cam bằng dao ăn mà không dùng đến móng tay, gọt vỏ cam thành một vòng như cái hoa, hoặc chẳng hề thấy giỏi gì cái khả năng trích dẫn những nhà thơ và nhà triết học Pháp bằng tiếng Pháp; và cứ mỗi lần trông thấy ông ta lại phải hỏi tên và rất ngạc nhiên khi gặp ông ta mặc áo khoác trong nhà bằng lụa, đi vào phòng tắm của nhà bà. Blanca, trái lại, lại thấy vui thích thấy ông ta ở trong nhà, và cảm ơn đã có dịp để diện những bộ váy áo đẹp nhất, để chải đầu một cách kỹ lưỡng và bầy bàn ăn bằng bộ đồ sứ Anh và những cây đèn nến bằng bạc khối.

– Ít nhất ông ta cũng lôi chúng mình ra khỏi chỗ man rợ - cô nói.

Esteban Trueba ít chú trọng đến những thói kỳ lạ của nhà quý tộc Pháp bằng chú ý đến những con chồn chuột mà ông đề nghị nuôi. Esteban Trueba nghĩ tại sao ma quỷ nó lại không làm cho ông nẩy sinh ra được ý nghĩ thuộc da những con thú gậm nhấm nhỏ bé này, trong lúc đã để mất bao nhiêu năm tháng nuôi những con gà mái khốn kiếp luôn chết lụi bởi bất kỳ một dịch toi nào, và những con bò cái ăn hết một hécta cỏ cùng một hộp vitamin mới cho vắt ra được một lít sữa, ngoài ra còn làm cho khắp nơi đầy ruồi nhặng, phân bẩn. Clara và Pedro García, trái lại, chẳng thấy phấn khởi gì trước việc định kinh doanh loại gậm nhấm đó, Clara thì vì lý do nhân đạo, nuôi chúng để rồi lột da chúng thì thật tàn ác, còn Pedro García, vì chưa bao giờ nghe nói đến việc chăn nuôi chồn chuột cả.

Một đêm vị bá tước đi ra ngoài ngôi nhà để hút một điếu thuốc lá phương Đông, đặc biệt thứ thuốc mang từ Lebanon tới, nơi mà Esteban Trueba cũng thường nói: ấy dà, ai mà biết được xứ sở đó ở chỗ nào!, và để ngửi hương thơm của những bông hoa lẫn trong những làn khói lớn cuộn bay lên trong vườn và ngập ngụa cả mọi gian phòng. Ông ta đi dạo một chút trên sân cảnh và ước đo bằng mắt diện tích rộng lớn của khu vườn nằm bao quanh ngôi nhà của ông chủ. Bá tước thở dài xúc động bởi cái thiên nhiên kỳ diệu có thể tập hợp tại một nơi xa xôi hẻo lánh trong miền bị quên lãng nhất của trái đất với tất cả thời tiết đặc biệt nhất của nó sinh ra, từ dãy núi tới mặt biển, từ những lũng sâu và những chóp núi cao ghê gớm, từ sông nước trong như thủy tinh đến một tập đoàn động vật thật hiền hòa cho phép con người dạo chơi một cách rất yên tâm ở bất kỳ đâu, chắc chắn không thể có một loài rắn độc, hoặc những con thú dữ hung hãn đói mồi xuất hiện, và để cho thêm phần hoàn hảo, ở đây cũng chẳng có người da đen tai ác, hằn thù hoặc những người India man rợ. Ông ta đã chán ngấy việc ngao du suốt những nước lạ kỳ, dưới dạng buôn vây cá mập làm món ăn tráng dương, buôn nhân sâm để chữa cho đủ bách bệnh, buôn mặt nạ gỗ của những người Eskimo, buôn thuyền độc mộc bằng gỗ hương của vùng sông Amazon và chồn chuột để lấy lông làm áo cho các bà phụ nữ. Ông đã ba mươi tám tuổi, ít nhất ông cũng đã thú nhận như vậy, và cảm thấy cuối cùng đã tìm thấy cái thiên đường trên trái đất này, tại đây ông có thể xây dựng những công việc kinh doanh bình thản cùng với một số đồng bọn ngây thơ. Ông bá tước ngồi trên một thân cây, hút thuốc trong bóng tối. Chợt ông thấy một bóng đen động đậy và thoáng có ý nghĩ có thể là một tên ăn trộm, nhưng ngay lập tức ông bỏ ý nghĩ đó, vì những tên kẻ cướp cũng đều không có mặt trên đất nước này như thể loài vật độc. Ông khôn khéo tiến lại gần và trông rõ Blanca, đưa hai chân ra ngoài cửa sổ, rồi luồn như một con mèo nhẩy rơi xuống bụi hoa cẩm chướng, không một tiếng động nhỏ. Cô gái mặc quần áo nam giới, vì bây giờ bọn chó đã quen, cô không phải ở trần mà đi ra nữa. Jean de Satigny thấy cô đi ra xa, len lỏi lẩn tránh dưới bóng của ngôi nhà và những bóng cây: ông bá tước định đi theo cô, nhưng thấy sợ mấy con chó săn, liền nghĩ chẳng cần thiết phải làm như vậy mới có thể biết cô gái nhẩy qua cửa sổ trong đêm hôm để làm gì. Ông ta cảm thấy lo ngại, vì điều ông vừa trông thấy có thể làm nguy hại đến những kế hoạch của ông.

Ngày hôm sau, bá tước hỏi Blanca Trueba làm vợ. Esteban từ xưa vẫn chẳng hiểu biết rõ về con gái, lầm lẫn tưởng vẻ đáng yêu và sự vui vẻ phấn khởi bày những cây đèn nến bằng bạc trên bàn ăn của cô để mời khách là tình yêu. Ông rất hài lòng thấy cô gái chán ngán và ốm yếu của ông lại vớ được một anh chàng hào hoa mà khắp vùng đều mong đợi. “Anh ta nhìn thấy gì ở con bé nhỉ?”, ông lạ lùng tự hỏi. Esteban Trueba cho người cầu hôn biết ông còn hỏi ý kiến Blanca về việc đó, nhưng ông chắc có thể sẽ chẳng có điều gì bất tiện, và về phần ông, xin đi trước gia đình, rất hoan nghênh tiếp nhận lời cầu hôn. Ông cho gọi con gái, lúc đó đang dạy bài địa lý tại trường học, và hai cha con vào phòng giấy khép cửa lại. Năm phút sau cánh cửa bật mở tung và vị bá tước trông thấy cô gái bước ra đôi má đỏ rực. Khi đi ngang qua cô đã quắc mắt chiếu vào mặt ông ta một cái nhìn giết người rồi quay mặt đi. Người thiếu kiên nhẫn hơn có lẽ đã thu dọn mấy chiếc va-li và rút ngay ra cái khách sạn duy nhất của thị trấn mà ở, nhưng vị bá tước người Pháp lại nói với Esteban Trueba rằng chắc chắn ông ta sẽ chiếm được tình yêu của cô gái, và tất nhiên cần phải có thời gian. Esteban mời ông cứ ở lại trang viên Ba Cô Maria như một người khách trong thời gian cần thiết ấy. Blanca không nói một lời nhưng từ hôm đó trở đi cô không ăn cùng bàn ăn với khách và không thiếu những dịp tỏ cho người Pháp đó cảm thấy chẳng ai cần sự có mặt của ông tại đây. Cô cất những chiếc váy áo ngày lễ và những cây đèn nến bằng bạc, và thận trọng tránh mặt ông khách. Cô báo cho cha cô biết nếu lại nói đến việc hôn nhân đó, thì lập tức cô trở về thủ đô trên chuyến tàu thứ nhất đi qua nhà ga và sẽ tu trong trường học của mấy bà tu sĩ.

– Ý kiến mày rồi sẽ thay đổi thôi! - Esteban Trueba gầm lên.

– Điều đó con ngờ lắm - cô trả lời.

Năm đó khi hai anh em sinh đôi về nghỉ ở trang viên Ba Cô Maria, họ cũng làm cho không khí trong ngôi nhà được nhẹ nhõm hơn. Hai cậu mang về một luồng mát mẻ và nhộn nhịp cho cái không khí ngạt thở của ngôi nhà. Không một ai trong hai anh em đánh giá cao những vẻ mê hoặc của nhà quý phái Pháp, dù cho ông ta cố gắng bí mật bằng mọi thủ đoạn để chiếm cảm tình của hai chàng trai trẻ. Jaime và Nicolás chế diễu những thói quen trong cách đối xử của ông ta, đôi giầy đĩ đực và cái họ tên ngoại quốc của ông ta, nhưng Jean de Satigny không bao giờ tỏ ra khó chịu. Sự vui tính của ông ta cuối cùng tước được vũ khí của hai anh em, và bọn họ chung sống với nhau suốt những ngày nghỉ hè còn lại một cách thật bạn bè, thậm chí đi đến chỗ đồng minh với nhau để lôi Blanca ra khỏi cơn điên giận mà cô vẫn chìm trong đó.

– Chị đã hai mươi bốn tuổi rồi đấy, chị ạ. Chị muốn ở lại nhà để mặc áo nhà tu chăng? - chúng nói.

Hai cậu em cố sức tìm cách khuyến khích chị cắt tóc và bắt chước những mẩu quần áo làm cho nóng đầu lên theo mốt đương thời đăng trong những tờ tạp chí, nhưng Blanca không để ý chút nào đến cái mốt ngoại lai đó, nên chúng không mong có một dịp nhỏ nào được xuất hiện trong đám bụi mù ở nông thôn.

Hai anh em sinh đôi thật rất khác nhau về đủ mọi mặt, khiến cho có vẻ như không phải anh em sinh đôi. Jaime cao, to, bẽn lẽn và chăm chỉ. Bị cưỡng bức bởi sự giáo dục trong trường nội trú, cậu đã có được những cơ bắp của một nhà lực sĩ nhờ tập luyện những môn thể thao, nhưng cậu vẫn cho rằng đó là một hoạt động tốn sức lực vô ích. Cậu không thể hiểu được sự phấn khởi của Jean de Satigny trong việc để cả buổi sáng dùng một cây gậy nhỏ đẩy một quả bóng con vào một cái hố nhỏ, trong khi có thể dễ dàng dùng tay mà bỏ nó vào. Jaime có những thói quen kỳ lạ nó đã bộc lộ ngay từ thời kỳ đó, và càng ngày càng thêm đậm rõ cho đến suốt cuộc đời. Cậu không thích người ta thở vào mặt quá gần, giúp đỡ mình, hỏi mình những câu hỏi về cá nhân, mượn mình sách vở hoặc viết thư cho mình. Tính nết đó đã làm khó khăn trở ngại việc giao thiệp, đối xử của cậu với mọi người, nhưng cũng không làm cho cậu bị cô lập, vì chỉ năm phút sau khi gặp cậu thôi, mặc dầu những tính nết có vẻ tùy tiện đó, người ta vẫn thấy cậu nổi bật lên như một con người rộng lượng, ngây thơ trong sáng, và có một tình yêu hiền dịu mà cậu rất khó dấu đi, và luôn thẹn thùng vì nó. Cậu quan tâm chú ý đến những người khác nhiều hơn điều mà cậu muốn nhận của người ta, và cậu rất dễ cảm động trước những việc người ta chú ý đến mình. Tại trang viên Ba Cô Maria người ta đều gọi cậu là “ông chủ nhỏ” và chạy đến với cậu mỗi khi họ cần một cái gì. Jaime nghe họ chăm chú, không bình luận, rồi trả lời nhát gừng, và cuối cùng quay đi, nhưng cậu sẽ không nghỉ nếu chưa giải quyết xong được vấn đề người ta nhờ cậy. Cậu có máu buồn, và Clara đã nói ngay khi còn bé tí cậu cũng không để cho ai vuốt ve. Từ nhỏ đã có những cử chỉ kỳ cục, cậu có thể cởi ngay áo đang mặc đem cho một người khác, như đã làm trong nhiều trường hợp. Lòng yêu mến và những tình cảm xúc động cậu coi như những dấu hiệu của sự tự ti, và chỉ có đối với loài vật cậu mới mất được cái ngăn cách thân mật do sự thẹn thùng quá đáng gây ra, để mà nằm lăn ra cùng lũ chúng, vuốt ve chúng, đút vào tận miệng chúng để cho ăn, và nằm ôm chó mà ngủ. Cậu cũng có thể đối xử y như vậy đối với bọn trẻ thật nhỏ, nhưng bao giờ cũng vậy, cũng trong những lúc chẳng có ai ngắm nhìn mình, vì ở trước mặt mọi người cậu thích đóng vai trò của một người cứng rắn và cô độc. Sự đào tạo kiểu Anh của mười hai năm trong trường trung học nội trú của người Anh đã không thể phát triển trong con người cậu cái tính ưu uất, thuộc tính quý báu nhất của nhà quý tộc. Cậu là một con người tình cảm. Vì vậy cậu rất chú trọng đến chính trị, và quyết định sẽ không làm nghề luật sư như cha cậu đòi hỏi, mà sẽ trở thành thầy thuốc, để cứu giúp những người thiếu thốn, nghèo khổ như mẹ cậu khuyên vì bà hiểu rõ cậu hơn. Jaime đã từng chơi đùa với Pedro García Con trong suốt thời thơ ấu, nhưng chính đến năm đó cậu mới biết đánh giá cao và phục anh. Blanca phải hi sinh mấy lần gặp gỡ bên bờ sông để cho hai chàng trai hội họp, chuyện trò với nhau. Họ nói về công bằng, bình đẳng, về phong trào nông dân, về chủ nghĩa xã hội, trong khi Blanca nôn nóng nghe hai người, chỉ mong họ chấm dứt nhanh mọi chuyện đi để cho cô được ở lại một mình với người yêu. Tình bạn đó đã gắn bó hai chàng trai trẻ cho đến khi chết, mà Esteban Trueba không ngờ tới.

Nicolás đẹp như một cô tiểu thư. Thừa kế làn da mịn màng trong sáng của mẹ, cậu người nhỏ nhắn, gầy, khôn ngoan, lanh lợi như một con cáo. Có cái thông minh nổi bật, cậu không cần một cố gắng nào cũng vượt được hẳn anh trong bất kỳ việc gì mà hai người cùng bắt đầu một lúc. Cậu đã sáng tạo ra một trò chơi để dày vò anh: cậu đưa ra mọi điều ngược lại trong bất kỳ vấn đề gì rồi biện minh thật tài tình, khôn khéo và chính xác để cuối cùng thuyết phục được Jaime thấy rằng Jaime đã nhầm, phải nhận rằng sai.

– Thế anh có chắc chắn rằng tôi có lý không? - Nicolás sau đó hỏi anh.

– Đúng, em có lý - Jaime làu bàu, vì sự thẳng thắn của cậu không cho phép cãi láo.

– Á, thú vị thật! - Nicolás kêu lên - Bây giờ em sẽ chứng minh rằng người có lý là anh và người lầm lẫn là em nhé. Em sẽ cho anh biết những lý lẽ mà anh cần nêu ra cho em thấy, nếu anh thông minh.

Jaime mất nhẫn nại, nhẩy xổ vào chực nện, nhưng ngay lập tức cậu hối hận, vì cậu khỏe mạnh hơn em nhiều, và cái sức mạnh của chính mình đã khiến cho cậu cảm thấy mình có lỗi. Trong trường trung học, Nicolás dùng cái tài giỏi đó của mình để trêu chọc mọi người, nhưng khi buộc phải đối mặt, phải xô sát, cậu liền gọi anh đến để bảo vệ mình, và cậu đứng đằng sau khích lệ. Jaime đã quen chường mặt ra thay Nicolás, và tiến dần tới thấy như việc mình bị phạt thay em là tự nhiên, làm hộ mọi việc và che chở cho những sự dối trá của nó cũng là tự nhiên. Ngoài việc chinh phục các cô gái, điều mà Nicolás chú trọng nhất trong thời kỳ thanh niên đó là việc phát triển cái tài như của Clara để đoán định tương lai. Cậu mua sách về các hội bí mật, về chiêm tinh học, và về tất cả những gì có đặc tính siêu tự nhiên. Năm đó cậu muốn tìm cách phát hiện bí mật của những hiện tượng thần kỳ huyền diệu Nicolás liền mua cuốn Cuộc đời của các bậc Thánh, loại xuất bản phổ thông, và để cả mùa hè vào việc tìm kiếm những lời giải thích thông thường cho mình về những chiến công kỳ lạ thuộc lĩnh vực tinh thần. Mẹ cậu chế riễu cậu.

– Nếu con chưa thể hiểu cái máy điện thoại nó hoạt động ra làm sao, con ơi, làm thế nào con hiểu được những điều huyền diệu? - Clara nói.

Sự chú trọng đến những vấn đề siêu tự nhiên của Nicolás bắt đầu biểu lộ một hai năm trước đó. Những ngày cuối tuần, ra khỏi trường nội trú, cậu lại đến thăm ba chị em nhà Mora tại chiếc cối xay cũ, để học những khoa học huyền bí. Nhưng cậu rất sớm nhận ra rằng mình không có một chút khuynh hướng tự nhiên nào về sự thông thấu ngoại hình hoặc sự truyền giao cách cảm, cho nên cậu phải tự khuôn mình trong cái cơ chế của những lá bài đoán mệnh, và những chiếc đũa bói kiểu Tầu. Thường thì việc nọ hay dẫn đến việc kia, trong nhà của ba chị em Mora, cậu làm quen với một cô gái trẻ, đẹp tên gọi Amanda, lớn hơn cậu chút ít, và cô gái đã hướng dẫn cậu trong bước nhập môn vào đạo Yoga và thuật châm cứu, mấy môn khoa học mà nhờ có nó Nicolás tiến tới đã chữa khỏi bệnh thấp khớp và một số bệnh đau nho nhỏ khác, còn giỏi hơn là những phương sách mà anh cậu lĩnh hội được sau bẩy năm học tập ở trường thuốc. Nhưng tất cả những điều đó là những chuyện thuộc về sau này. Mùa hè năm đó Nicolás hai mươi mốt tuổi và đã chán ngán nông thôn. Anh cậu canh phòng rất sát để cậu không thể làm phiền các cô thôn nữ, vì Jaime tự phong cho mình chức vụ người bảo vệ phẩm chất trinh tiết của những cô thiếu nữ tại trang viên Ba Cô Maria, và dù vậy Nicolás vẫn thu xếp được hoàn cảnh để có thể quyến rũ hầu như mọi cô gái trẻ ở trong vùng bằng nghệ thuật phong nhã hào hoa mà ở nơi này các cô chưa từng trông thấy. Bao nhiêu thì giờ còn lại, cậu dùng vào việc nghiên cứu những điều huyền bí, cố gắng học cái xảo thuật của mẹ sai khiến cho lọ muối di chuyển bằng sức mạnh tinh thần, nhưng không làm được, và viết những vần thơ say đắm gửi cho Amanda, mà cô này đã gửi trả lại cho cậu qua đường bưu điện, những vần thơ đã được sửa chữa và nâng cao, nhưng cái đó cũng không làm cho anh chàng thanh niên nhụt nhuệ khí.

Ông Pedro García Già chết ít lâu sau cuộc bầu cử tổng thống. Cả nước rung chuyển vì những cuộc vận động chính trị, những chuyến tầu thắng lợi chạy xuyên từ Bắc xuống Nam đưa những vị ứng cử viên nối đuôi nhau ra mặt, cùng với cả cái cung cách vận động địch thủ của mình, chào hỏi mọi người cùng một cách giống nhau như in, hứa hẹn với mọi người cũng giống nhau như đúc, cờ quạt trang trí và một dàn âm thanh huyên náo của dàn nhạc và những chiếc loa phóng thanh ầm ĩ, làm cho sự yên tĩnh của phong cảnh nông thôn bị xáo động, làm khiếp đảm đàn gia súc thả quanh vùng. Ông già đã sống nhiều đến nỗi bây giờ chỉ còn là một đống xương trong veo và dễ gẫy như thủy tinh, bọc ngoài bằng một bộ da mỏng mầu vàng. Mặt ông già trông như một bức đăng ten đầy nếp nhăn nhúm. Ông gõ lách cách cặp mõ dập khi bước đi, răng không còn một chiếc và chỉ còn ăn được món khoai hầm cho trẻ con ăn; ngoài đôi mắt bị mù ông già lại bị điếc tai, nhưng không bao giờ ông thiếu hiểu biết về tất cả mọi sự vật, và mất trí nhớ về quá khứ và những gì đang xẩy ra trước mắt. Ông chết ngồi trên chiếc ghế mây của ông vào buổi chiều tối. Ông thường rất thích ngồi trên bực cửa ra vào để cảm nhận buổi chiều đổ xuống mà ông đoán được, do sự thay đổi tinh tế của thời tiết, do những tiếng động trong mảnh sân, do mùi hương và tiếng động khẩn trương trong bếp nước, do sự im ắng của những mái gà. Cái chết đến với ông già tại đó. Dưới chân ông già, Esteban García, cháu nội ông, lúc đó khoảng mười tuổi, đang bận xuyên một chiếc đinh vào mắt chú gà trống. Đó là con của Esteban García, đứa con hoang duy nhất của ông chủ mang tên ông ta, dù không mang họ của ông ta. Không ai còn nhớ đến nguồn gốc cũng như duyên cớ làm sao nó mang tên như vậy, trừ có chính nó, vì bà nội nó, Pancha García, trước khi chết đã có thể đạt được việc đầu độc thời thơ ấu của nó bằng câu chuyện, nếu cha nó được sinh đẻ vào chỗ của Blanca, Jaime hoặc Nicolás, thì nó có thể được thừa kế đồn điền Ba Cô Maria, và tiến tới có thể làm Tổng Thống của nước cộng hòa, nếu như nó muốn. Trong cả một vùng rải rác đầy những đứa con không chính thức và những đứa con chính thức nhưng không biết ai là cha chúng, có thể nó là đứa duy nhất lớn lên với nỗi hận thù đối với cái tên họ mà nó mang. Nó sống dằn vặt bởi nỗi căm hờn ông chủ, căm thù người bà bị quyến rũ của nó, chống người cha con hoang không có họ của nó và chống cả cái số phận thứ dân bất khả kháng của nó. Esteban Trueba coi nó cũng như những đứa trẻ khác trong trang viên, chẳng qua nó cũng chỉ là một đứa trẻ nữa trong lũ trẻ con đứng hát bài quốc ca trong sân trường học và xếp hàng lũ lượt để nhận quà Nôen của ông chủ. Esteban Trueba không nhớ đến Pancha García, cũng chẳng nhớ rằng đã có một đứa con với người phụ nữ đó, và càng không biết về đứa cháu tai ác nó thù ghét ông, nhưng lại quan sát ông từ một nơi xa để bắt chước những dáng điệu của ông và học mót giọng nói của ông. Đứa bé đã từng thức thâu đêm để tưởng tượng ra những bệnh tật hoặc những tai nạn kinh khủng để kết thúc cuộc đời của ông chủ và tất cả bọn con cái ông, để nó có thể thừa kế tài sản này. Lúc đó nó sẽ biến đồn điền Ba Cô Maria thành vương quốc của nó. Những ước mong kỳ lạ đó nó ve vuốt ấp ủ suốt đời, dù cho đã biết rõ rằng chẳng bao giờ nó có thể có được một cái gì qua con đường thừa kế. Nó luôn luôn oán trách Esteban Trueba đã tạo cho nó cuộc đời tối tăm và như bị trừng phạt đó, ngay cả trong những ngày nó đã tiến tới tột đỉnh của quyền lực và nắm giữ được tất cả gia đình họ trong tầm tay của mình.

Đứa bé nhận thấy có cái gì đã biến đổi trong ông già. Nó đến gần, sờ người ông, và thân hình ông nó đổ nghiêng, rồi rơi xuống đất như một cái túi da bọc xương. Đôi tròng mắt bao phủ bởi một lượt phim mầu sữa loãng làm cho nó không còn trông thấy ánh sáng suốt cả một phần tư thế kỷ. Esteban García cầm chiếc đinh sắp sửa chọc vào đôi mắt ông nó thì Blanca chợt đến đẩy nó ra xa, cũng không ngờ rằng đứa trẻ da nâu tóc đen và tai ác đó lại là cháu trai cô, và trong một số năm sau sẽ trở thành một khí cụ trong tấn thảm kịch của gia đình cô.

– Lạy Chúa tôi, ông già đã chết mất rồi - cô cúi xuống thi thể còng queo của ông già, con người đã thêu dệt gieo trồng bao chuyện cổ tích trong suốt thời kỳ thơ ấu và đã che chở cho những cuộc yêu đương vụng trộm của cô.

Ông Pedro García Già được chôn cất trong một đám ma có lễ canh ma ba ngày đêm mà Esteban Trueba ra lệnh tổ chức không cần phải tiết kiệm. Thi thể ông già được đặt trong một chiếc quan tài bằng gỗ thông đẽo sơ sài, mặc quần áo ngày Chủ nhật, chính bộ quần áo mà ông già đã mặc trong ngày ông lấy vợ, mặc để đi bầu phiếu và mặc để tới đón nhận năm mươi peso tiền mừng ngày lễ Nôen. Gia đình mặc cho ông già chiếc sơ mi độc nhất rộng thùng thình và thật lỏng ở cổ, vì tuổi tác đã co rút người ông lão, thắt cho một chiếc cà vạt đen và cài vào khuyết ve áo một bông hoa cẩm chướng đỏ, như thể ông vẫn đeo trong những ngày hội lễ. Quai hàm ông được buộc bằng một chiếc khăn tay và chiếc mũ đen của ông được đặt bên cạnh mình, vì nhiều lần ông đã nói muốn được ngả mũ ra chào đức Chúa. Ông già không có giầy, nhưng Clara lấy một đôi giày của Esteban Trueba đi vào chân ông, cho mọi người thấy ông lão không đi chân đất lên Thiên đường.

Jean de Satigny rất phấn khởi dự đám tang đó, ông ta lôi từ trong đống hành lý của mình ra một chiếc máy ảnh có giá ba chân chống, và chụp rất nhiều bức chân dung người chết, khiến những người trong gia đình ông lão nghĩ ông khách này định ăn cắp linh hồn của ông già, cho nên để đề phòng cẩn thận, đã đập vỡ hết những miếng kính ảnh đã chụp. Nông dân khắp vùng đến dự lễ canh ma, vì trong suốt một thế kỷ tuổi đời ông Pedro García Già đã quen biết rất nhiều bạn canh điền trong toàn tỉnh. Bà then già, người phụ nữ còn già hơn ông Pedro García Già, cùng một số người India của bộ lạc bà già tới, và tất cả theo lệnh của bà già bắt đầu òa khóc, rồi cứ rấm rứt khóc như thế mãi, chỉ dừng lại sau ba ngày lễ canh ma đã kết thúc. Mọi người quây quần xung quanh gian nhà của ông già để uống rượu vang, đánh đàn guitar và trông coi việc nướng thịt. Có hai ông cố đạo cũng đi xe đạp tới để làm lễ cầu nguyện cho linh hồn Pedro García Già, và chỉ huy lễ chôn cất. Một trong hai vị đó là một người khổng lồ, mặt đỏ lựng, giọng Tây Ban Nha thật khỏe, đó là cha José Dulce María, người mà Esteban Trueba đã biết tên. Ông đã sắp ra lệnh ngăn không cho ông cố đạo đó vào trong đồn điền của mình, nhưng Clara thuyết phục ông thấy bấy giờ không phải lúc để đặt căm thù chính trị lên trên lòng nhiệt thành Cơ đốc của người nông dân. “Ít nhất cũng phải làm cho lễ nghi đâu vào đấy trong những vấn đề linh hồn”, Clara nói. Cuối cùng Esteban Trueba phải ra đón chào và mời ông cố đạo ở lại trong nhà cùng với anh thầy tu cùng đi, người không mở miệng nói nửa lời và luôn luôn cúi gầm mặt xuống đất, đầu hơi nghiêng nghiêng và hai bàn tay chắp vào nhau. Esteban Trueba rất xúc động bởi cái chết của ông già đã từng giúp ông cứu vãn mùa màng khỏi nạn kiến và cơ thể ông khỏi tàng tật, nên ông muốn mọi người phải nhớ mãi đến đám ma này như một sự kiện lớn.

Mấy ông thầy tu tập hợp tất cả tá điền và khách đến viếng tại trường học để nhắc lại những đoạn truyện đã bị quên trong Kinh Thánh và cầu lễ misa cho sự nghỉ ngơi yên tĩnh của linh hồn ông Pedro García Già. Sau đó hai người rút lui về buồng đã dành riêng trong ngôi nhà ông chủ, trong lúc những người khác tiếp tục than vãn, đàn hát, khóc ma. Đêm đó Blanca chờ đến khi những cây đàn guitar và tiếng than khóc của những người India đã ngừng hẳn và tất cả đều đã đi nằm, để luồn qua cửa sổ và lần mò trong bóng tối đi về phía bờ sông nơi vẫn thường hò hẹn. Liền trong ba đêm như vậy, cho tới khi hai nhà tu hành đã ra đi cô mới thôi không ra khỏi nhà lúc đêm khuya. Chỉ trừ có cha mẹ cô, còn tất cả đều biết Blanca đã đến gặp gỡ một trong hai người thầy tu đó bên bờ sông. Đó là Pedro García Con, anh không muốn vắng mặt trong đám ma của ông mình nên đã lợi dụng chiếc áo nhà tu mượn được để đến dự và đi từng nhà để hiệu triệu tá điền, giải thích cho họ hiểu những cuộc bầu cử sắp tới là dịp để cho họ hất bỏ cái ách mà họ đã phải đeo nó mà sống từ bao đời nay. Mọi người ngạc nhiên, lúng túng nghe anh. Họ vẫn tính thời gian theo thời tiết mùa màng, và tư tưởng của họ theo từng thế hệ vẫn là những người chậm chạp và thận trọng. Chỉ có những người trẻ nhất, những người có radio nghe tin tức, những người thỉnh thoảng có ra thị xã chuyện trò với những nhà hoạt động công đoàn, mới có thể nắm vững được đầu đuôi những ý kiến của anh. Còn những người khác lắng nghe vì anh là người anh hùng bị các chủ điền theo dõi, nhưng trong thâm tâm họ vẫn cho rằng anh nói những lời vớ vẩn.

– Nếu ông chủ khám phá ra việc chúng ta sẽ bỏ phiếu cho những người xã hội thì chúng ta hết cách sống - họ nói.

– Ông ta không thể biết được! Bởi lẽ bỏ phiếu kín mà - vị thầy tu giả hiệu biện luận.

– Con tưởng thế thôi, con ạ - Pedro García, cha của anh trả lời - Nói là bỏ phiếu kín, nhưng sau đó bao giờ người ta cũng biết được chúng ta bỏ phiếu cho ai. Thêm nữa, nếu người của Đảng anh thắng trong cuộc bầu cử này, ông chủ sẽ đuổi chúng tôi ra khỏi cửa, chúng tôi mất việc làm. Tôi bao giờ cũng sống ở đây, vậy sẽ sống bằng gì?

– Họ không thể nào đuổi tất cả mọi người được, vì lẽ như vậy ông chủ sẽ thiệt nhiều hơn là các vị, nếu các vị bỏ đi - Pedro García Con biện bạch.

– Chúng ta bỏ phiếu cho ai cũng chẳng quan trọng gì, bao giờ rồi họ cũng thắng cuộc.

– Họ thay đổi, tráo phiếu - Blanca, ngồi cùng những người tá điền tham dự buổi họp cũng lên tiếng.

– Lần này họ không thể làm như thế - Pedro García Con nói - Chúng tôi cử người của Đảng tới để kiểm tra những bàn bỏ phiếu và gắn si những hòm phiếu.

Nhưng tất cả tá điền đều không tin tưởng. Kinh nghiệm đã dạy cho họ biết con cáo bao giờ cũng kết thúc câu chuyện bằng cách chén thịt những mái gà, mặc dầu bài hát lật đổ mà người ta truyền miệng nhau hát nói những điều trái lại. Vì vậy nên khi con tầu của ứng cử viên mới của Đảng Xã Hội đi qua, một vị bác sĩ có cái duyên cận thị trời cho xuống vận động cử tri bằng một bài diễn văn nẩy lửa, nông dân tá điền đứng trước sân ga ngắm nhìn ông, xung quanh họ là các ông chủ điền vũ trang bằng súng săn và dùi cui đứng san sát như một hàng rào ngăn chặn. Họ kính cẩn nghe những lời hô hào của ứng cử viên, nhưng không dám tỏ ra đến một dấu hiệu chào hỏi, trừ một vài nhóm cố nông làm mướn mang theo thuổng cuốc tới, hoan hô đến khản cả giọng, vì những người này chẳng còn cái gì để mà mất, họ là những người lang thang đi tìm việc làm trong khắp vùng nông thôn, không có sở cứ ổn định, không gia đình, không có ông chủ nào cai quản và không sợ hãi bất cứ cái gì.

Ít lâu sau cái chết và đám ma đáng ghi nhớ của ông Pedro García Già, Blanca bắt đầu mất cái màu quả táo hồng hào và thấy tự nhiên mệt mỏi, không phải do ngừng thở gây ra, và nôn ọe buổi sớm không phải do nước chấm nóng gây ra. Cô nghĩ nguyên nhân của những thay đổi đó là do ăn quá nhiều, vì lúc đó chính mùa hái quả bồ đào vàng rực, đậu khấu, và bắp ngô non, loại món ăn nấu trong những nồi đất nung thơm nức mùi hoắc hương, đó là thời kỳ làm mứt và đóng hộp dự trữ thức ăn cho mùa đông. Nhưng sự nhịn đói, uống thuốc ta và nghỉ ngơi đều không chữa cho cô khỏi. Cô mất hứng thú trong việc đến trường dạy học, đến trạm y tế và cả đến việc nặn những con tượng đất cho lễ Nôen, rồi đi đến chỗ lười nhác, ngủ gà ngủ gật, và có thể ngồi trong bóng tối hàng mấy tiếng đồng hồ nhìn ngắm bầu trời, không buồn chú ý đến bất cứ một cái gì. Hoạt động duy nhất mà cô còn giữ là những cuộc nhẩy qua cửa sổ, bỏ nhà trong đêm khuya khi có hò hẹn bên bờ sông cùng với Pedro Gácris Con.

Jean de Satigny quyết không chịu thua mà vẫn bủa vây Blanca trong tầm canh phòng quan sát lãng mạn của ông ta. Cho được kín đáo, ông ta ra ở khách sạn của thị trấn trong một thời gian. Làm vài ba cuộc hành trình ngắn hạn về tận thủ đô, khi trở về mang theo một lô sách vở về loài chồn chuột, về các mẫu lồng chồn, về thức ăn cho chồn, về bệnh tật của chúng, cách thức sinh sản của chúng, về phương pháp thuộc da chồn chuột và, nói chung, tất cả những gì dính dáng đến loài xúc vật bé nhỏ mà số phận của nó là bị thuộc da và trở thành những tấm áo choàng lông thay đổi sắc. Phần lớn những ngày hè, bá tước người Pháp là khách của trang viên Ba Cô Maria. Ông ta là một vị khách lịch sự, thú vị, bình tĩnh và vui vẻ. Bao giờ ông cũng có một câu nói đáng yêu ở đầu lưỡi, để khen ngợi bữa ăn ngon, và làm cho mọi người vui thêm những buổi chiều bằng những bản đàn dương cầm trong phòng khách, tại đó ông thi tài với Clara đánh những bản Dạ khúc của Chopin, và tỏ rõ mình là một nguồn truyện tiếu lâm vô tận. Sáng ông dậy muộn và để một, hai tiếng đồng hồ vào việc sửa soạn cá nhân, tập thể dục, chạy kiệu xung quanh nhà bất chấp những lời chế giễu của bọn tá điền thô lỗ, rồi nằm ngâm mình trong bồn nước nóng, và mất rất nhiều thời giờ rềnh rang chọn quần áo để mặc cho thích hợp theo từng hoàn cảnh. Việc đó là một cố gắng vô ích, vì ở đây không có ai khen ngợi sự sang trọng của ông, và nhiều lần trong những bộ quần áo cưỡi ngựa kiểu Anh, áo khoác nhung và mũ có cắm những chiếc lông công, điều duy nhất ông được tiếp nhận là Clara với ý định thật rõ ràng đã mang tặng ông một bộ quần áo thích hợp hơn để mặc trong vùng đồng ruộng nông thôn. Jean de Satigny vẫn không mất vẻ tươi tỉnh, nhận những tiếng cười chế giễu của ông chủ nhà, và bộ mặt tỏ vẻ khó chịu của Blanca, cùng tính đãng trí triền miên của Clara, sau một năm ông có mặt ở đây, bà vẫn tiếp tục hỏi tên ông vì không nhớ. Ông ta biết nấu một vài món ăn Pháp, làm rất cầu kỳ và trình bầy rất tuyệt, trong những hôm có khách mời. Đây là lần đầu tiên ở đây người ta thấy một người đàn ông lại thích thú đến cả công việc bếp núc, nhưng nghĩ có lẽ đó là tập quán của châu Âu chăng, nên không dám trêu cợt ông ta về chuyện đó để khỏi tỏ ra mình dốt nát. Sau những chuyến đi thủ đô về, ngoài những tài liệu về loài chồn chuột, ông còn đem theo những tạp chí về kiểu mẫu thời trang, những tập truyện đăng báo về chiến tranh để phổ biến và tạo ra cái huyền thoại về người lính anh hùng, và những cuốn tiểu thuyết lãng mạn cho Blanca. Trong những cuộc trò chuyện bên bàn ăn tráng miệng, đôi khi bằng cái vẻ buồn chết người ông ta nói về những mùa hè sống cùng những nhà quý tộc châu Âu của ông ta trong lâu đài Liechtenstein hoặc ở Bờ Biển Xanh. Không bao giờ ông quên kể ông đã rất sung sướng được đổi tất cả những thứ đó lấy cái kỳ thú của cuộc sống châu Mỹ. Blanca hỏi tại sao ông không chọn ở vùng Caribe, hoặc ít nhất cũng ở một nước có những phụ nữ lai đen, có dừa và nhiều loại trống, vì điều thực sự mà ông muốn tìm là sự kỳ lạ ngoại lai, nhưng ông ta giữ ý kiến nói không có nơi nào trên trái đất đáng thú vị, yêu mến hơn cái đất nước xa xôi, mất hút ở nơi tận cùng trái địa cầu này. Vị bá tước Pháp chẳng bao giờ nói đến cuộc đời riêng của mình, chỉ trừ việc để lọt ra một vài chiếc khóa mã khó nhận thấy, nó cho phép người tiếp chuyện láu lỉnh có thể nhận thấy được cái quá khổ huy hoàng của ông ta, tài sản không đếm xuể của ông ta và nguồn gốc quý phái cao sang của ông. Không một ai biết được chắc chắn về tình trạng hôn nhân, về tuổi tác, về gia đình ông ta, hoặc biết được ông ta từ miền nào trên đất Pháp đi tới. Clara cho rằng những sự bí mật đó thật nguy hiểm, nên định tìm hiểu bằng những quân bài bói, nhưng Jean de Satigny không cho phép ai bói xem số phận của mình, hoặc dò tìm xem tướng trên bàn tay mình. Cũng chẳng ai biết được ngày sinh tháng đẻ của ông ta.

Esteban Trueba thấy những điều đó chẳng có gì đáng quan tâm. Đối với ông chỉ cần vị bá tước sẵn sàng tiếp ông một ván cờ hoặc một ván domino là đủ, chỉ cần ngài bá tước tỏ ra có cảm tình và không bao giờ hỏi mượn tiền của ông là được rồi. Từ khi Jean de Satigny đến ở tại gia đình, cuộc sống nông thôn cứ khoảng từ năm giờ chiều trở đi chẳng có việc gì làm tẻ nhạt trước kia, bây giờ cũng dễ chịu hơn. Thêm nữa, thấy những trang trại láng giềng