CHƯƠNG 11 Chủ nhật
RA ĐI
Cô nằm trên giường, miệng phì phèo điếu thuốc. Cô chăm chú quan sát anh trong lúc anh đứng trước cái tủ ngăn kéo thấp, nhìn bả vai anh cử động dưới làn áo gilê khiến lớp vải ánh lên những sắc thái của màu xanh dương và màu đen. Cô đưa mắt về phía tấm gương, ngắm đôi tay anh thắt cà vạt, những động tác mới dịu dàng và tự tin làm sao. Cô thích đôi tay ấy, thích quan sát chúng chuyển động.
“Khi nào anh quay lại?” cô hỏi.
Ánh mắt họ gặp nhau trong gương. Anh mỉm cười. Đến cả nụ cười cũng dịu dàng và tự tin như thế. Cô phụng phịu trề môi.
“Ngay khi có thể, Liebling ạ .”
Trên đời chẳng ai gọi “người yêu dấu” theo cách giống anh cả. Liebling . Khẩu âm lạ lùng và chất giọng du dương gần như khiến cảm tình của cô dành cho tiếng Đức một lần nữa trỗi dậy.
“Trong chuyến bay tối mai, hy vọng thế,” anh nói. “Em sẽ đến gặp anh chứ?”
Cô không sao ngăn được nụ cười nở trên môi. Anh bật cười, khiến cô phải cười theo. Thật đáng ghét, lúc nào cũng vậy.
“Kiểu gì đám đàn bà con gái chẳng xếp hàng dài chờ anh ở Oslo,” cô nói.
“Hy vọng thế.”
Anh cài cúc áo gilê, lấy chiếc áo khoác treo trên mắc trong tủ.
“Em là khăn mùi soa chưa, Liebling ?”
“Em cất vào va li cho anh cùng với đống tất rồi,” cô nói.
“Tốt lắm.”
“Anh có hẹn hò ai trong số ấy không đấy?”
Anh phá lên cười, bước tới bên giường và cúi xuống nhìn cô.
“Thế em nghĩ sao?”
“Em không biết.” Cô vòng tay ôm lấy cổ anh. “Hình như lần nào về nhà, trên người anh cũng có mùi hương đàn bà.”
“Đó là vì anh chưa bao giờ xa em lâu đến nỗi khiến mùi hương của em nhạt mất, Liebling ạ. Lần đầu anh tìm thấy em là cách đây bao lâu nhỉ? Hai mươi sáu tháng. Anh mang mùi hương của em trên người đã hai mươi sáu tháng rồi.”
“Và không còn ai khác nữa chứ?”
Cô nhích người về phía cuối giường, kéo cả anh theo cùng. Anh hôn nhẹ lên môi cô.
“Không còn ai khác nữa. Anh còn phải bắt chuyến bay, Liebling…”
Anh gỡ tay cô ra.
Cô nhìn theo khi anh đi về phía tủ ngăn kéo, mở một ngăn, lấy hộ chiếu và vé máy bay, bỏ chúng vào túi trong rồi cài cúc áo lại. Tất cả chỉ diễn ra bằng một động tác uyển chuyển; trong mắt cô, phong thái nhanh nhẹn và tự tin mà chẳng cần cố gắng này thật vừa gợi cảm vừa đáng sợ. Nếu không vì thực tế gần như mọi việc anh làm đều diễn ra theo cách nhẹ nhàng ấy thì chắc hẳn cô đã cho rằng cả đời anh là để rèn luyện thuần thục kỹ năng: ra đi, rời bỏ.
Nghĩ tới chuyện hai người đã dành bao nhiêu thời gian bên nhau trong suốt hai năm qua, thì quả là đáng kinh ngạc khi những điều cô biết về anh lại ít ỏi đến thế, nhưng anh chưa bao giờ giấu giếm sự thật là có rất nhiều người phụ nữ từng đi qua đời mình. Anh nói, đó là vì bấy lâu nay anh đã đi tìm cô trong tuyệt vọng. Anh đã cắt đứt với những phụ nữ ấy ngay khi nhận ra họ không phải là cô, rồi sau đó lại tiếp tục cuộc tìm kiếm không mệt mỏi, cho tới một ngày thu tuyệt đẹp cách đây hai năm, họ gặp nhau lần đầu trong quán bar của khách sạn Grand Hotel Europa nằm bên quảng trường Wenceslas.
Đó quả là cách miêu tả diễm tình nhất của thói trăng hoa mà cô từng được nghe. Diễm tình hơn hẳn so với lý do của cô, đó là vì tiền.
“Thế anh làm gì ở Oslo?”
“Làm nghề buôn bán,” anh đáp.
“Tại sao anh chẳng bao giờ nói cho em biết cụ thể anh làm gì?”
“Vì chúng ta yêu nhau.”
Anh khẽ khàng đóng cửa lại sau lưng, cô nghe thấy tiếng chân anh bước xuống cầu thang.
Lại một mình với cô đơn. Cô nhắm mắt, thầm hy vọng mùi hương của anh vẫn sẽ còn vương trên gối chăn cho tới khi anh quay lại. Cô đặt tay lên sợi dây chuyền trên cổ mình. Sợi dây cô chưa từng tháo ra kể từ hồi anh tặng nó cho cô, cả lúc đi tắm cô cũng đeo. Vừa vuốt ve mặt dây, cô vừa trầm ngâm nghĩ đến chiếc va li của anh. Nghĩ đến cái cổ cồn trắng mà cô trông thấy bên cạnh đống tất . Nhưng sao cô lại không hỏi anh về nó? Có lẽ là vì cô cảm thấy mình đã hỏi quá nhiều điều rồi. Cô không được phép làm anh bực.
Cô thở dài, nhìn đồng hồ đeo tay rồi lại nhắm mắt. Ngày hôm nay chẳng có gì để mà trông đợi. Ngoài cái hẹn với bác sĩ lúc hai giờ, thế thôi. Cô bắt đầu đếm từng giây trôi đi trong lúc những ngón tay vẫn tiếp tục vuốt ve mặt dây chuyền, một viên kim cương màu đỏ hình ngôi sao năm cánh.
Trang bìa tờ Verdens Gang có đăng bài viết về một nhân vật nổi tiếng giấu tên trong giới truyền thông Na Uy, người đã từng có mối quan hệ “tuy ngắn ngủi nhưng rất nồng cháy” với Camilla Loen. Họ đã tìm được một tấm ảnh toàn đốm nhiễu chụp Camilla đi nghỉ lễ trong bộ bikini siêu kiệm vải, rõ ràng là để nhấn mạnh sự thắm thiết mà bài báo đã nêu có liên quan đến khía cạnh chính của mối quan hệ đó.
Tờ Dagbladet số ra cùng ngày lại đăng bài phỏng vấn Toya Harang, chị gái của Lisbeth Barli, trong đoạn văn ngắn với tựa đề “Lúc nào cũng chạy trốn”, chị ta đã viện dẫn cách hành xử thuở nhỏ của cô em để lý giải cho vụ mất tích khó hiểu. Nguyên văn câu nói của chị ta như sau: “Ngày xưa con bé cũng từng chạy trốn khỏi Xa Kéo Sợi, thế nên bây giờ tại sao lại không chứ?”
Kèm theo bài viết là tấm ảnh chụp chị ta đội mũ cao bồi hiệu Stetson và tươi cười đứng tạo dáng trước xe buýt chở ban nhạc. Harry đồ rằng chị ta chưa suy nghĩ thấu đáo về việc mình đang làm trước khi chụp bức ảnh đó.
“Cho cốc bia.”
Harry ngồi xuống chiếc ghế đẩu trong quán Underwater và kéo tờ Verdens Gang lại gần. Buổi nhạc hội Springsteen ở Valle Hovin đã cháy vé. Nhưng cũng chẳng sao. Thứ nhất, Harry rất ghét nhạc hội diễn ra tại sân vận động, và thứ hai, anh cùng Øystein đã từng vẫy xe xin quá giang đến Drammenshallen năm họ mười lăm tuổi, dùng vé giả Øystein chế ra để dự nhạc hội Springsteen. Hồi ấy là thời kỳ đỉnh cao của cả ba: Springsteen, Øystein và Harry.
Harry gạt tờ báo sang một bên và mở tờ Dagbladet của mình, số có đăng ảnh chị gái Lisbeth. Hai chị em nhà này giống nhau như tạc. Anh đã gọi điện đến Trondheim cho chị ta để hỏi chuyện, nhưng chị ta chẳng cung cấp được cho anh thông tin gì, hay nói đúng hơn là chị ta chẳng cung cấp được cho anh thông tin gì thú vị. Thực tế thì, cuộc nói chuyện kéo dài những hai mươi phút ấy hầu như không có tí liên quan nào tới anh. Chị ta giải thích tên mình phát âm đúng là phải nhấn vào chữ a. ToyA. Và rằng cái tên Toya không phải được đặt theo tên chị gái của Michael Jackson là La Toya, trọng âm nhân vào chữ oy.
Tính đến giờ, Lisbeth mất tích đã được bốn ngày, và tình hình điều tra, nói một cách ngắn gọn, là vẫn giậm chân tại chỗ.
Vụ sát hại Camilla Loen cũng vậy. Ngay cả Beate cũng sốt ruột. Cô đã làm việc miệt mài suốt mấy ngày cuối tuần để giúp đỡ vài thanh tra hiếm hoi không đi nghỉ hè. Beate quả là có tấm lòng vàng. Chỉ tiếc rằng tấm lòng ấy không mang lại cho cô kết quả gì.
Camilla rõ ràng là một cô gái trẻ quảng giao, vì vậy cảnh sát đã xoay xở thu thập được tương đối đầy đủ những hoạt động cô ta tham gia trong vòng một tuần trước khi bị bắn chết, nhưng những manh mối có được cũng chẳng giúp ích gì cho họ.
Thực ra, Harry đã định kể cho Beate nghe chuyện Waaler tới phòng anh, ít nhiều trắng trợn dụ dỗ anh bán linh hồn mình cho hắn, nhưng không hiểu sao anh lại quyết định giữ kín. Hơn nữa, lúc này anh đã có quá nhiều việc phải nghĩ rồi. Có báo cáo với Møller cũng chỉ dẫn đến bất đồng, vì vậy anh lập tức gạt ngay ý tưởng đó đi.
Uống được hơn nửa cốc bia thứ hai thì Harry trông thấy người quen. Cô ngồi một mình ở bàn sát tướng trong không gian tranh tối tranh sáng. Cô đang nhìn thẳng vào anh, miệng hơi mỉm cười. Trên bàn có một chai bia, điếu thuốc kẹp giữa ngón trỏ và ngón giữa.
Harry cầm cốc của mình bước tới bàn cô.
“Tôi ngồi được chứ?”
Vibeke Knutsen hất hàm về phía chiếc ghế trống.
“Sao anh lại đến đây?”
“Tôi sống ở ngay góc phố,” Harry nói.
“Tôi cũng đã ngờ ngợ, nhưng tôi chưa gặp anh ở đây bao giờ.”
“Ừ. Quán quen và tôi có cách nhìn nhận khác nhau đối với sự việc xảy ra tại đó hồi tuần trước.”
“Họ cấm cửa anh à?” cô hỏi kèm theo một tràng cười khàn khàn.
Harry thích tiếng cười ấy. Anh thấy cô gái này có nét quyến rũ, có lẽ là nhờ lớp trang điểm và việc cô chọn ngồi trong bóng tối. Như thế thì đã sao. Anh thích đôi mắt cô; đôi mắt ánh lên vẻ tinh nghịch và tràn đầy sức sống, vừa trẻ con lại vừa thông minh, hệt như mắt Rakel, nhưng nét tương đồng giữa họ chỉ dừng lại ở đó. Rakel có đôi môi nhỏ nhắn, nhạy cảm; còn Vibeke sở hữu khuôn miệng đã rộng lại càng rộng hơn nhờ lớp son đỏ chót như xe cứu hỏa. Rakel thanh lịch một cách đầy kín đáo và lanh lợi, thon thả gần như một vũ công ba lê, không có những đường cong nóng bỏng. Hôm nay, Vibeke mặc trang phục da hổ, nhưng bộ đồ bắt mắt chẳng kém bộ da báo và da ngựa vằn là bao. Hầu như mọi thứ ở Rakel đều có màu tối: đôi mắt, mái tóc, làn da. Anh chưa từng gặp người phụ nữ nào có làn da căng bóng như thế. Còn Vibeke lại là cô gái tóc đỏ với nước da nhạt màu. Đôi chân bắt tréo sáng trắng lên trong bóng tối.
“Sao cô lại ngồi một mình ở đây?” anh hỏi.
Cô nhún vai, nhấp một ngụm bia.
“Anders đi công tác rồi, tối nay mới về. Nên tôi tự chiều chuộng bản thân mình một chút.”
“Đi xa không?”
“Đâu đó ở châu Âu. Anh cũng biết mà. Đối phương chẳng bao giờ nói gì cả.”
“Anh ta làm nghề gì?”
“Bán đồ dùng trong nhà thờ và nhà nguyện. Bệ thờ, bục giảng kinh, thánh giá, vân vân. Cả cũ lẫn mới.”
“Ừm. Anh ta bán khắp châu Âu à?”
“Nếu nhà thờ nào đó ở Thụy Điển cần bục giảng kinh mới, họ có thể đặt mua ở Ålesund. Cái bục cũ có thể được chuyển về Stockholm hoặc Narvik. Anders đi suốt. Đi còn nhiều hơn ở nhà. Nhất là mấy tháng gần đây. Đúng hơn là một năm gần đây.” Cô rít một hơi thuốc, vừa hít vừa nói thêm, “Nhưng anh ta không theo đạo Thiên Chúa.”
“Không ư?”
Cô lắc đầu trong làn khói cuộn lên dày đặc từ đôi môi đỏ bên trên có hai nếp nhăn nhỏ sát cạnh nhau.
“Bố mẹ anh ta theo phái Tin Lành Ngũ tuần, anh ta lớn lên cùng với nó. Tôi mới dự có một buổi tụ họp thôi nhưng anh biết sao không? Tôi thấy ghê chết đi được. Nhất là khi bọn họ chuyển sang nói thứ tiếng lạ. Anh đã dự buổi tụ họp nào như thế chưa?”
“Hai lần,” Harry đáp. “Với hệ phái Tin Lành Philadelphia.”
“Thế có được cứu rỗi không?”
“Tiếc là không. Tôi đến đó chỉ để tìm một người đã hứa với tôi sẽ đứng ra làm chứng trước tòa.”
“Ừm, dù không tìm thấy Chúa Jesus thì ít nhất anh cũng đã tìm được nhân chứng của mình.”
Harry lắc đầu.
“Họ nói anh ta không đến nữa, và cũng không sống ở bất kỳ địa chỉ nào mà tôi được cung cấp. Thế nên, không, tôi chẳng được cứu rỗi tí nào.”
Harry uống cạn cốc bia và ra hiệu cho người phục vụ quầy bar. Cô châm điếu thuốc khác.
“Hôm nay tôi đã cố liên lạc với anh,” cô nói. “Ở cơ quan anh.”
“Vậy sao?”
Harry chợt nghĩ đến tin nhắn không lời trong máy trả lời tự động.
“Ừ, nhưng tôi được báo là anh không phụ trách vụ này.”
“Nếu ý cô muốn nhắc tới vụ án Camilla Loen, vậy thì đúng rồi đấy.”
“Thế nên tôi đành nói chuyện với người hôm trước cũng có mặt ở đó. Anh chàng có hình thể đẹp ấy.”
“Tom Waaler ư?”
“Phải. Tôi đã kể cho anh ta đôi điều về Camilla. Những điều tôi không dám nói lúc anh có ở đó.”
“Sao lại không?”
“Vì Anders đang ngồi ngay bên cạnh.”
Cô rít một hơi thuốc dài.
“Cứ nghe tôi bỉ bai Camilla là anh ta không chịu được. Anh ta nổi khùng lên, mặc dù bọn tôi gần như chẳng quen biết gì cô ta.”
Cô nhún vai.
“Tôi không nghĩ những lời mình nói là bỉ bai. Chỉ có Anders nghĩ thế thôi. Chắc là do bọn tôi được dạy dỗ theo những cách khác nhau. Tôi tin anh ta thực sự cho rằng tất cả đàn bà trên đời chỉ nên ăn nằm với không quá một người đàn ông.” Cô dụi tắt điếu thuốc và hạ giọng nói thêm, “Và chỉ thế thôi.”
“Ừm. Vậy Camilla ăn nằm với hơn một người à?”
“Cái tên thượng lưu của cô ta đã nói lên tất cả.”
“Sao cô biết? Cô nghe thấy tiếng ồn à?”
“Qua sàn giữa tầng trên với tầng dưới thì không. Vậy nên, vào mùa đông bọn tôi nghe không rõ cho lắm. Nhưng đến hè, nhà nhà mở cửa sổ. Anh biết đấy, âm thanh…”
“… có khả năng lan truyền trong không gian khép kín.”
“Chính xác. Anders thường phải dậy đóng sầm cửa sổ phòng ngủ lại. Tôi mà lỡ nhận xét câu gì đó đại loại như ‘giờ cô ta lại sắp sửa lên sàn đấy’, ừm, là anh ta sẽ nổi khùng và hầm hầm đi ra phòng khách ngủ.”
“Cô muốn tìm tôi để kể những chuyện này sao?”
“Phải. Còn một điều khác nữa. Tôi có nhận được một cuộc điện thoại. Lúc đầu tôi tưởng là Anders, nhưng thường thì tôi có thể nghe thấy âm thanh bên ngoài vọng vào mỗi lần anh ta gọi. Vì theo thói quen, anh ta luôn gọi điện từ một con phố nào đó tại một thị trấn nào đó ở châu Âu. Quái dị là ở chỗ, những âm thanh đó nghe y hệt nhau, cứ như thể lần nào anh ta cũng gọi từ đúng một địa điểm vậy. Chỉ có điều, âm thanh lần này lại khác. Thường thì tôi dập máy rồi quên luôn, nhưng sau chuyện xảy ra với Camilla và Anders lại đang đi vắng…”
“Thì sao?”
“Ừm, thực ra cũng không có gì to tát đâu.”
Cô nở nụ cười mệt mỏi. Harry lại thấy nụ cười ấy thật đẹp.
“Chỉ là tiếng thở của ai đó trong điện thoại. Nhưng tôi thấy nó rợn tóc gáy nên muốn báo lại với anh. Waaler nói anh ta sẽ điều tra, nhưng tôi không cho rằng họ sẽ truy ra được số máy ấy. Thực tế cũng có trường hợp kẻ sát nhân quay lại hiện trường gây án phải không?”
“Đa phần chuyện đó chỉ xảy ra trong tiểu thuyết trinh thám thôi,” Harry nói. “Là tôi, tôi sẽ chẳng bận tâm làm gì cho mệt.”
Anh xoay tròn chiếc cốc. Thuốc bắt đầu có tác dụng rồi.
“Cô và bạn trai có tình cờ quen biết Lisbeth Barli không?”
Vibeke đáp lại ánh nhìn của anh, hàng lông mày kẻ vẽ nhướn lên.
“Người phụ nữ mất tích ấy à? Sao chúng tôi quen cô ta được chứ?”
“Cô nói phải, sao lại quen được chứ.” Harry lẩm bẩm và tự hỏi không hiểu vì lý do gì anh hỏi cô điều ấy.
Lúc gần chín giờ, hai người cùng nhau bước ra ngoài vỉa hè trước cửa quán Underwater.
Harry phải cố gắng lắm mới đứng được.
“Nhà tôi ở ngay phía cuối đường kia thôi,” Harry nói. “Hay là…?”
Vibeke nghiêng đầu và mỉm cười.
“Lúc này đừng thốt ra điều gì khiến anh về sau phải hối hận, Harry à.”
“Hối hận ư?”
“Suốt nửa tiếng đồng hồ anh nói không ngừng nghỉ về cô Rakel này. Anh chưa quên đấy chứ?”
“Cô ấy đâu muốn tôi, tôi đã bảo rồi mà.”
“Phải, và anh cũng chẳng muốn tôi. Anh muốn Rakel kìa. Hoặc là một người thay thế Rakel.”
Cô đặt tay lên cánh tay anh.
“Nếu mọi chuyện khác đi, chắc tôi cũng có thể thử tưởng tượng làm người đó xem sao, nhưng đời không như là mơ. Hơn nữa, Anders sẽ sớm về nhà thôi.”
Harry nhún vai, bước sang bên cạnh một bước cho khỏi ngã.
“Ừ, để tôi tiễn cô về tận nhà,” anh khụt khịt nói.
“Những hai trăm mét đấy, Harry.”
“Tôi cố được.”
Vibeke phá lên cười và khoác lấy tay anh.
Hai người ung dung sải bước trên phố Ullevålsveien bên cạnh dòng ô tô và taxi không khách vun vút lao đi, không khí ban đêm ve vuốt làn da trần của họ, đặc trưng của những đêm hè tháng Bảy ở Oslo, nhưng tất cả chỉ có vậy. Harry lắng nghe âm điệu trầm đều trong giọng nói của cô, lòng thầm hỏi không biết giờ này Rakel đang làm gì.
Họ dừng chân bên ngoài cánh cổng sắt nghệ thuật sơn đen.
“Chúc ngủ ngon, Harry.”
“Ừm. Cô có định đi thang máy lên nhà không?”
“Sao anh lại hỏi thế?”
“Không có gì.” Harry đút hai tay vào túi quần để cố giữ thăng bằng. “Bảo trọng nhé. Chúc cô ngủ ngon.”
Vibeke mỉm cười, tiến lại gần anh, Harry ngửi thấy hương nước hoa cô dùng khi cô hôn lên má anh.
“Nếu gặp nhau trong một cuộc đời khác, thì biết đâu đấy?” cô thì thầm.
Cánh cổng khép lại sau lưng cô với một tiếng cạch trơn tru. Harry đứng thần người ra đó, trong lúc anh đang cố gắng xác định phương hướng thì đột nhiên trên cửa sổ trưng bày của cửa hàng trước mặt có một thứ khiến anh phải chú ý. Không phải dãy bia mộ mà là hình ảnh gì đó phản chiếu trên tấm kính. Một cái xe hơi màu đỏ đỗ ở vỉa hè bên kia đường. Nếu Harry quan tâm đến xe hơi, dù chỉ một chút thôi, có lẽ anh đã nhận ra món đồ chơi sang chảnh ấy chính là chiếc Tommykaira ZZ-R.
“Mẹ kiếp,” Harry lầm bầm rủa và bước xuống lòng đường để qua phía bên kia. Một chiếc taxi phóng vụt qua người anh, nhấn còi inh ỏi. Harry bước tới đứng cạnh cửa sổ bên ghế lái của chiếc xe hơi thể thao. Tấm kính tối màu hạ xuống êm ru.
“Mày đến đây làm chó gì?” Harry khò khè nói. “Theo dõi tao à?”
“Buổi tối tốt lành, Harry,” Tom Waaler ngáp dài. “Tôi đang theo dõi bên ngoài căn hộ của Camilla Loen để xem ai đi, ai đến. Anh biết đấy, không phải ngẫu nhiên mà người ta nói kẻ thủ ác thường quay trở lại hiện trường gây án.”
“Đúng. Nói đúng lắm,” Harry đáp.
“Nhưng chắc anh cũng đã nhận ra, thông tin chúng ta thu được chỉ có thế. Kẻ sát nhân chẳng để lại nhiều manh mối để điều tra.”
“Còn chưa biết liệu gã đó…” Harry nói.
“Hoặc ả đó,” Waaler ngắt lời.
Harry nhún vai, cố đứng vững. Cửa bên ghế phụ bật mở.
“Vào đi, Harry. Tôi muốn nói chuyện với anh một lát.”
Harry căng mắt nhìn cửa xe để ngỏ, lòng có chút nao núng. Anh bước sang bên một bước nữa để lấy thăng bằng. Sau đó anh đi vòng sang bên kia và ngồi vào trong xe.
“Anh đã suy nghĩ chưa?” Waaler hỏi, vặn nhỏ nhạc xuống.
“Nghĩ rồi,” Harry nói, cựa mình trong chiếc ghế chật chội có lưng tựa ôm tròn cho một người.
“Và anh rút ra được kết luận đúng đắn rồi chứ?”
“Rõ ràng là mày thích mấy con xế thể thao màu đỏ của Nhật.” Harry giơ tay đập mạnh một cái lên bảng điều khiển. “Hàng cứng đấy. Nói xem…” Harry cố gắng nói cho rành rọt. “Mày và Sverre Olsen cũng ngồi trong xe nói chuyện phiếm như thế này ở Grünerløkka vào cái đêm Ellen bị giết phải không?”
Waaler quan sát Harry một lúc lâu trước khi mở miệng trả lời, “Harry, tôi không hiểu anh đang nói gì.”
“Không ư? Mày biết Ellen đã chỉ đích danh mày là kẻ đầu trò đứng sau đường dây buôn lậu vũ khí, đúng không? Chính mày đã sai Sverre Olsen giết cô ấy trước khi cô ấy kịp nói với bất cứ ai. Rồi khi biết tin tao lần theo dấu vết Sverre Olsen, mày vội vàng dàn dựng sao cho có vẻ như hắn đã rút súng tấn công lúc mày đang cố bắt giữ hắn. Hệt như vụ thằng cha ở phố Havnelageret. Xử đẹp mấy thằng tù gây rắc rối có vẻ là biệt tài của mày thì phải.”
“Anh say rồi, Harry.”
“Tao đã mất hai năm ròng rã cố đi tìm bằng chứng buộc tội mày, Waaler. Mày biết chứ?”
Waaler không đáp.
Harry bật cười ha hả, đập mạnh một phát nữa. Cái bảng điều khiển phát ra tiếng “rắc” thật đáng ngại.
“Tất nhiên là biết rồi! Chả có gì mà Hoàng Tử kiêm kẻ thừa kế lại không biết. Mày làm thế nào vậy? Nói cho tao nghe đi.”
Qua cửa sổ bên xe, Waaler nhác thấy bóng một người đàn ông bước ra từ quán Kebabgården; ông ta dừng lại, nhìn trái nhìn phải trước khi rảo bước về phía nhà thờ Trinity. Không ai nói năng gì cho tới khi người đàn ông rẽ vào con đường chạy giữa nghĩa trang và bệnh viện Our Lady.
“Thôi được,” Waaler gằn giọng. “Tôi thú tội cũng được thôi, nếu anh đã muốn thế. Nhưng anh nên nhớ, một khi đã nghe lời thú tội thì chẳng mấy chốc, anh sẽ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan không lấy gì làm dễ chịu.”
“Tao chấp nhận cái sự không lấy gì làm dễ chịu ấy.”
“Tôi đã bắt Sverre Olsen phải nhận hình phạt thích đáng.”
Harry chậm rãi ngoảnh về phía Waaler, người đang ngả đầu trên gối tựa, hai mắt khép hờ.
“Nhưng không phải vì tôi sợ hắn sẽ tiết lộ việc hắn và tôi cùng hội cùng thuyền. Đó là điểm sai lầm trong giả thuyết của anh.”
“Thế à?”
Waaler thở dài.
“Anh có bao giờ tự hỏi điều gì đã khiến những người như chúng ta chọn làm những gì mình đang làm hay không?”
“Cả đời tao chỉ chuyên làm có thế.”
“Ký ức xa xôi nhất anh còn nhớ được là gì, hả Harry?”
“Ký ức về thời nào mới được chứ?”
“Ký ức xa xôi nhất của tôi là về cái đêm hôm ấy, bố tôi cúi nhìn tôi trên giường.”
Waaler vuốt ve vô lăng.
“Hồi đó chắc tôi khoảng bốn, năm tuổi. Từ người bố tôi tỏa ra mùi thuốc lá và cảm giác an toàn. Anh biết đấy, các ông bố thường như vậy. Ông hay về nhà khi tôi đã đi ngủ. Và tôi biết sáng hôm sau ông sẽ đi làm từ rất sớm, trước khi tôi thức dậy. Tôi biết nếu tôi mở mắt ra, ông sẽ mỉm cười với tôi, vỗ nhẹ lên đầu tôi, rồi lại đi mất. Vì thế tôi đã giả vờ ngủ để ông ở bên tôi lâu hơn chút nữa. Có đôi lần gặp ác mộng về một người đàn bà có cái đầu lợn đi lang thang trên phố tìm kiếm máu trẻ con, tôi sẽ mở mắt ra khi bố tôi đứng dậy định rời đi, xin ông ngồi bên tôi thêm một lát. Ông sẽ ở lại trong lúc tôi nằm đó, mở to mắt nhìn ông. Anh với bố anh có như thế không, Harry?”
Harry nhún vai.
“Bố tao là giáo viên. Ông ấy ở nhà suốt.”
“Vậy gia đình anh thuộc tầng lớp trung lưu.”
“Đại loại thế.”
Waaler gật đầu.
“Bố tôi là dân lao động chân tay. Cũng giống như bố của hai đứa bạn chơi thân với tôi, Geir và Solo. Nhà họ nằm ngay phía trên nhà tôi, trong chung cư tại phố cổ Oslo nơi tôi lớn lên. Ở khu Đông Oslo, ảm đạm, nhưng cũng là một căn chung cư tốt, được bảo trì cẩn thận, thuộc sở hữu của công đoàn. Bọn tôi không coi mình là giai cấp lao động, mà tất cả đều là những ông chủ hãng buôn. Bố Solo thậm chí còn có cả cửa hàng riêng, mọi người trong nhà họ đều tham gia vào việc kinh doanh của gia đình. Đàn ông trong khu tôi ở đều làm việc chăm chỉ, nhưng không ai vất vả bằng bố tôi, ông làm từ sáng sớm tinh mơ đến tối mịt, cả ngày lẫn đêm. Ông giống như cái máy chỉ tắt vào ngày Chủ nhật. Chẳng ai trong bố mẹ tôi theo hẳn đạo Thiên Chúa. Bố tôi tham gia lớp thần học ở trường bổ túc trong khoảng nửa năm, vì ông nội muốn bố tôi trở thành linh mục, nhưng sau khi ông tôi mất thì bố tôi cũng bỏ học. Tuy vậy chúng tôi vẫn đều đặn đi nhà thờ Vålerenga vào Chủ nhật, sau đó theo bố tới khu Ekeberg hoặc Ostmarka. Đến năm giờ, chúng tôi sẽ thay đồ và ăn bữa cơm Chủ nhật ở phòng khách. Nghe thì có vẻ nhàm chán nhưng nói thực, cả tuần tôi chỉ mong đến Chủ nhật thôi.
“Rồi sang thứ Hai, bố tôi lại đi làm. Lúc nào cũng có việc gì đó cần ông làm thêm giờ ở công trường xây dựng. ‘Tiền cũng có loại trắng, trắng hơn, loại đen và loại xám nữa con ạ,’ bố tôi từng bảo thế. Đó là cách duy nhất để có tiền dành dụm trong nghề của ông. Năm tôi mười ba tuổi, gia đình tôi chuyển sang sống ở khu Tây, trong một căn nhà có vườn táo. Bố tôi nói sống ở đó tốt hơn. Tôi là đứa duy nhất trong lớp có bố mẹ không phải là luật sư, nhà kinh tế, bác sĩ hoặc chuyên gia trong lĩnh vực khác. Cạnh nhà tôi là nhà một ông thẩm phán có đứa con trai cũng sàn sàn tuổi tôi. Bố tôi hy vọng sau này tôi sẽ trở thành người như thế. Ông bảo, nếu tôi muốn theo một trong những nghề đó thì phải có bạn đồng môn, phải học hỏi bí kíp, ngôn ngữ và những luật lệ bất thành văn. Thế nhưng tôi chẳng bao giờ gặp bất cứ thằng bé hàng xóm nào mà chỉ trông thấy con chó becgie nhà họ, nó cứ đứng ngoài hiên sủa cả đêm. Vậy nên thay vì thế, tôi đã bắt tàu hỏa tới khu phố cổ Oslo chơi với Geir và Solo sau giờ tan học. Bố mẹ tôi đã mời hàng xóm xung quanh đến dự tiệc nướng ngoài trời nhưng tất cả đều viện cớ từ chối khéo, chỉ trừ đúng một người. Tôi vẫn nhớ mùi khói tỏa ra từ bếp nướng và tiếng cười chối tai trong những khu vườn khác của mùa hè năm đó. Không ai mời đáp lễ chúng tôi dù chỉ một lần.”
Harry cố gắng nói cho rành rọt. “Mày kể lể những chuyện này để làm gì?”
“Điều đó thì anh phải tự nghĩ. Vậy thôi không kể nữa nhé?”
“Khỏi, cứ nói tiếp đi, đằng nào tối nay trên ti vi cũng chả có chương trình gì hay ho.”
“Một ngày Chủ nhật nọ, gia đình tôi sửa soạn đi nhà thờ như thường lệ. Tôi đang đứng trên phố chờ bố mẹ và tranh thủ quan sát con chó becgie lồng lộn trong khu vườn phía bên kia hàng rào, nó cứ nhằm vào tôi mà gầm gừ, mà sủa. Chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, tôi đã đi tới mở cổng ra. Có lẽ lúc đó tôi nghĩ chắc nó cô độc quá nên mới giận dữ thế. Con chó nhảy xồ tới, đẩy tôi ngã ngửa rồi đớp phập một bên má của tôi. Đến giờ vẫn còn sẹo.”
Waaler chỉ vào vết thương cũ, nhưng Harry chẳng thể nhìn thấy gì.
“Lão thẩm phán đứng trên hiên nhà gọi con chó. Nó thả tôi ra, rồi lão bảo tôi cút khỏi vườn nhà lão. Mẹ tôi khóc lóc còn bố tôi hầu như không nói năng gì trong lúc lái xe đưa tôi đi cấp cứu. Đến khi về nhà, trên mặt tôi có một vết khâu dày cộp đen sì, chạy từ cằm tới tận sát mang tai. Bố tôi sang nói chuyện phải trái với lão thẩm phán kia. Lúc quay về, cặp mắt ông tối sầm vì giận dữ, thậm chí ông còn kiệm lời hơn cả lúc trước. Bữa ăn tối Chủ nhật trôi đi hoàn toàn trong im lặng. Đêm đó, tôi đột nhiên tỉnh giấc và cứ nằm đó tự hỏi không hiểu điều gì đã đánh thức mình. Bốn bề im ắng như tờ. Rồi tôi chợt hiểu ra. Là con chó becgie. Nó không sủa như mọi hôm. Tôi nghe thấy tiếng cửa chính đóng lại, và linh tính mách bảo tôi rằng sẽ chẳng bao giờ chúng tôi phải chịu đựng tiếng sủa ấy nữa. Khi cửa phòng ngủ khẽ khàng mở ra, tôi vội nhắm chặt mắt nhưng vẫn kịp nhác thấy bóng dáng một cây búa. Ở ông tỏa ra mùi thuốc lá cùng cảm giác an toàn. Và tôi vờ như đang ngủ say.”
Waaler phủi đi một hạt bụi vô hình trên cần lái.
“Sở dĩ tôi bắn Sverre Olsen là bởi chúng ta đều biết hắn đã sát hại một đồng nghiệp của chúng ta. Tôi làm thế vì Ellen, Harry ạ. Vì chúng ta. Giờ anh biết tôi đã giết một mạng người rồi đấy. Anh có định tố cáo tôi không?”
Harry chỉ trân trân nhìn. Waaler nhắm mắt lại.
“Chúng ta chỉ có chứng cứ gián tiếp chống lại Olsen thôi, Harry ạ. Hắn sẽ thoát tội. Chúng ta không thể để điều đó xảy ra được. Nếu là anh, anh có chịu để yên như thế không, Harry?”
Waaler ngoảnh sang và bắt gặp ánh nhìn không chút khoan nhượng của Harry.
“Có hay không?”
Harry nuốt khan.
“Có người đã trông thấy mày và Sverre Olsen ngồi trong một chiếc xe hơi, người đó sẵn sàng ra làm chứng, nhưng chắc điều đó mày biết rồi chứ gì?”
Waaler nhún vai.
“Tôi đã có dịp nói chuyện với Olsen đôi lần. Hắn là một phần tử Phát xít mới, một tên tội phạm. Trách nhiệm của chúng ta là phải theo dõi sát sao những kẻ như thế, Harry ạ.”
“Giờ bỗng dưng nhân chứng hôm đó trông thấy mày lại ngậm miệng hến. Mày đã nói chuyện với gã rồi đúng không? Dằn mặt để bắt gã phải im lặng.”
Waaler lắc đầu.
“Tôi không thể trả lời câu hỏi kiểu này được, Harry ạ. Kể cả nếu anh có quyết định gia nhập hàng ngũ của chúng tôi đi nữa, thì có một luật lệ bất di bất dịch anh phải theo, đó là chỉ nên biết những gì tối cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nghe có vẻ khắc nghiệt, nhưng lại rất hiệu quả. Hiệu quả đối với bọn tôi.”
“Có phải mày đã nói chuyện với Kvinsvik không?” Harry líu lưỡi hỏi.
“Kvinsvik chẳng qua chỉ là một trong những cối xay gió mà anh đâm đầu vào thôi, Harry ạ. Hãy quên hắn đi. Anh nên nghĩ cho bản thân mình thì hơn.”
Anh ta nhoài người sang chỗ Harry và hạ giọng.
“Anh có còn gì để mất đâu? Thử nhìn mình trong gương xem…”
Harry chớp mắt.
“Phải,” Waaler nói tiếp. “Một gã đàn ông ngấp nghé tuổi bốn mươi, nghiện rượu, không nghề ngỗng, không gia đình, không một xu dính túi.”
“Tao hỏi lần cuối!” Harry cố quát lớn nhưng không xong vì còn đang say quắc cần câu. “Có phải mày đã nói chuyện với… với Kvinsvik không?”
Waaler lại ngồi thẳng người lên.
“Về nhà đi, Harry. Rồi ngẫm xem anh thực sự đang mắc nợ ai. Có phải là cái ngành này không? Những người ăn tươi nuốt sống anh nhưng thấy không hợp khẩu vị nên lại đành khạc ra? Hay là mấy lão sếp lẩn như chạch ngay khi vừa ngửi thấy rắc rối? Hoặc phải chăng anh đang nợ chính bản thân mình? Làm quần quật năm này qua năm khác để mang lại đôi chút bình yên trên những con đường ở Oslo, tại một đất nước bảo vệ lũ tội phạm còn hơn cả bảo vệ chính những người đang ngày đêm phụng sự nó. Thực sự anh là một trong những điều tra viên xuất sắc nhất của ngành. Không như bao kẻ khác, anh tài năng như thế. Vậy mà chỉ được nhận đồng lương còm. Tôi có thể mang lại cho anh số tiền gấp năm lần, nhưng đây chưa phải điều quan trọng nhất. Tôi có thể mang lại cho anh chút phẩm giá, Harry ạ. Là phẩm giá. Anh cứ suy nghĩ đi.”
Harry cố sức tập trung nhìn Waaler, nhưng anh cứ liên tục gà gật. Anh quờ quạng tìm tay nắm cửa, nhưng không thấy. Cái đám xe Nhật chết tiệt. Waaler nhoài người qua chỗ anh và đẩy cửa mở.
“Tôi biết anh đang tìm Kvinsvik,” Waaler nói. “Để tôi giúp anh đỡ mất công. Phải, tôi đã nói chuyện với Olsen ở Grünerløkka tối hôm đó, nhưng như vậy không có nghĩa tôi có dính líu gì tới vụ sát hại Ellen. Tôi giữ kín chuyện này vì không muốn làm phức tạp thêm vấn đề. Anh cứ việc làm những gì anh muốn, nhưng tin tôi đi: Roy Kvinsvik chẳng thể cung cấp cho anh thông tin gì đáng giá hết.”
“Hắn đang ở đâu?”
“Nếu tôi nói cho anh biết thì có thay đổi được gì không? Anh sẽ chịu tin tôi chứ?”
“Có thể,” Harry đáp. “Ai mà biết.”
Waaler thở dài.
“Số 32 phố Sognsvannveien. Hắn đang tá túc trong phòng khách ở tầng hầm nhà ông bố dượng cũ.”
Harry quay đi, vẫy một chiếc taxi đang chạy về hướng mình, biển hiệu sáng.
“Nhưng tối nay hắn có buổi tập cùng ca đoàn Menna,” Waaler nói. “Đi bộ một lát là tới. Bọn họ tập ở sảnh nhà thờ Gamle Aker ấy.”
“Gamle Aker sao?”
“Hắn bỏ hệ phái Tin Lành Philadelphia, chuyển sang Tin Lành Bethlehem rồi.”
Chiếc taxi không khách dừng lại, do dự trong giây lát rồi lại tăng tốc chạy về hướng trung tâm thành phố. Waaler nở nụ cười gượng gạo.
“Anh không nhất thiết phải từ bỏ đức tin để có thể cải đạo, Harry ạ.”