LỜI GIỚI THIỆU
Ngày 30 tháng 3 năm 1820, Anna Sewell, tác giả Ngựa ô yêu dấu (Black Beauty), ra đời trong một ngôi nhà xinh xắn ở Yarmouth. Sau này, Anna Sewell trở thành nhà văn nổi tiếng; bà đã dành rất nhiều ưu ái cho một loài vật đáng quý - loài ngựa.
Ngay sau khi sinh Anna vài ngày, cha em (ông Isaac Sewell) phát hiện ra ông bị lừa gạt và thâm hụt trong một vụ kinh doanh mới bắt tay vào trước đó một thời gian ngắn. Lúc này nặng gánh trách nhiệm gia đình, với người vợ quá trẻ và đứa con thơ, ông phải tìm cách phát triển những công việc mới.
Trong trí nhớ của bạn bè và họ hàng, Isaac Sewell là người can đảm, đã trải qua nhiều thử thách khó khăn trong cuộc sống. Thời kì đầu, ông dọn đến một ngôi nhà nhỏ trên phố Bishopsgate, London. Ở đây, ông bắt đầu công việc làm ăn mới và là nơi Philip, cậu con trai duy nhất của ông chào đời.
Vận rủi làm vợ ông, bà Mary Sewell (nhũ danh là Wright) rất vất vả. Bà là một phụ nữ rất nhạy cảm và có tính nghệ sĩ, giống như bà đã sáng tác trong nhiều bài balat giản dị, nổi tiếng là Những lời cuối cùng của mẹ, Sự tận tâm của cha, Đứa em trai tội nghiệp…
Lần thất bại thứ hai trong công việc đã làm ông Isaac Sewell phải bắt đầu làm lại lần nữa. Ông dọn đến Dalston, gia đình bé nhỏ của ông đã ở đấy khoảng chín, mười năm đầy hạnh phúc, tuy kinh tế eo hẹp và làm lụng vất vả. Anna và Philip được nuôi dạy trong bầu không khí tươi sáng, không vướng bận nợ nần và lo âu.
Hai đứa trẻ trở thành bạn chơi với nhau và khi lớn lên, chúng trở thành người đỡ đần mẹ rất tốt. Bà Mary Sewell dạy các con cách tìm thấy niềm vui trong công việc. Công việc là lối thoát dễ chịu nhất cho bản tính hăng hái, can đảm và cao thượng của Anna.
Tình yêu thiên nhiên và nghệ thuật sớm phát triển trong Anna, và ngay từ hồi thơ bé, em đã biết viết, vẽ để ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên.
Những ngày ở Dalston, Anna Sewell luôn giữ được tinh thần khỏe khoắn và sức sống dồi dào. Tinh thần đó về sau đã giúp nữ tác giả Ngựa ô yêu dấu vượt qua bao nhiêu đau đớn để hoàn thành tác phẩm được cả thế giới biết đến ấy.
Cũng chính ở Dalston, bà Mary Sewell viết cuốn sách nhỏ đầu tiên, thể hiện niềm khao khát tận tụy trong suy nghĩ của bà.
Mary Sewell viết để kiếm tiền mua sách và dạy dỗ hai con. Chắc hẳn bà là một cô giáo tuyệt diệu và là một người mẹ tận tụy, vì bà không chỉ dạy kiến thức mà còn dạy các con rằng hãy không biết sợ. Anna và Philip không sợ bất cứ loài súc vật hoặc côn trùng nào, kể cả bóng tối cũng không làm các em hốt hoảng.
Một trong những kỉ niệm vui sướng nhất của hai đứa trẻ là lần đến thăm ông bố ở Buxton, ngoại vi Norwich. Đây là lần đầu tiên các em đến thăm ông bà. Tại đây, các em được tận hưởng bầu không gian thoáng đãng của thôn quê. Ông của các em rất hiểu trái tim trẻ thơ, ông khuyến khích và thắp lên tình yêu của bọn trẻ với những điều kì diệu nơi thôn dã.
Cũng ở Dalston, Anna bị bong gân khuỷu tay. Lúc nói về tai nạn đau đớn này, em chỉ nói giản dị: “Con chịu được”. Đó là nét đặc trưng của lòng chịu đựng bền bỉ và sự can đảm bình thản mà Anna đã biểu lộ trong suốt cuộc đời bình dị của mình.
Anna coi tấm gương tốt nhất để noi theo là mẹ em - bà Sewell - người đàn bà coi việc cải thiện điều kiện sống cho những người thân yêu là hạnh phúc lớn nhất trong đời mình.
Khi kinh tế gia đình khá lên đôi chút, ông Isaac Sewell muốn sửa chữa cơi nới thêm diện tích nhà ở và khu trang trại, ông liền mua một chuồng gia súc gần nhà và cho sửa sang lại.
Hồi này, gia đình Anna có một người mới là cậu Richard, còn bà Sewell không đủ thời gian dạy Anna học, nên phải gửi cô bé bán trú ở trường cách nhà khoảng một dặm.
Gia đình Sewell lúc này lại gặp khó khăn vì thiếu thốn cơ sở vật chất như thiếu nước, nhưng điều bất hạnh nhất còn chưa tới.
Một hôm, Anna đi học về, lúc đuổi theo chiếc xe ngựa đang rẽ vào cổng vườn, em ngã và bị bong gân ở mắt cá chân rất nghiêm trọng. Hậu quả là Anna bị tập tễnh suốt đời, nhưng như bà Sewell ghi trong nhật kí: “Cũng may (chúng tôi nghĩ thế), sự kiện này không hề làm cuộc sống của con bé nhợt nhạt đi, ngược lại càng làm nó thêm can đảm”.
Họ đã làm mọi thứ cần thiết cứu chữa cho Anna, nhưng buồn thay khi có vị bác sĩ lầm lẫn trong cách điều trị đã làm cho bệnh của Anna không khỏi hẳn mà ngày càng trở nên tập tễnh nhiều hơn.
Bà Mary Sewell chưa bao giờ hết hi vọng là một ngày nào đó, đứa con gái can đảm của bà lại có thể chạy nhảy vui chơi như xưa, nhưng than ôi…
Những ai biết Anna trong những ngày hoạn nạn đó đều yêu quý em, vì em là tấm gương bền chí, can đảm và nhẫn nại, lạc quan nhất. Những đau đớn của em chưa bao giờ làm gia đình u ám hoặc vướng bận. Anna chẳng bao giờ ủ ê nghiền ngẫm đến những tổn thất về sức khỏe, hoặc để mất niềm vui hưởng những điều tốt đẹp khác. Tâm trí em lúc nào cũng chứa đựng bao điều mới mẻ, giống như một vườn ươm màu mỡ chưa được vun trồng đầy đủ nhưng đầy ắp ý nghĩ và sẵn sàng trân trọng tài năng của người khác. Em luôn là ánh mặt trời của mẹ em. Bà Sewell đã viết: “Giữa mẹ con tôi chưa bao giờ vương vấn đám mây mù”.
Năm 1836, bà Sewell dọn đến Brighton, nhận làm quản lí cho Chi nhánh Ngân hàng London & County ở Brighton. Bà và gia đình cố chạy chữa cho Anna. Nhưng tình trạng của cô bé càng tệ hại thêm, chân cô tập tễnh hơn và sức khỏe của Anna dao động thất thường.
Năm 1845, gia đình Sewell chuyển đến Lancing, vì ông Sewell làm nhân viên của trạm nuôi ngựa. Thế là Anna thường theo cha đến trạm Shoreham làm việc. Dần dần Anna càng gần gũi hơn với loài ngựa. Cô vô cùng yêu quý và coi những chú ngựa là niềm vui của mình.
Năm sau, bà Sewell đưa các con đi nghỉ ở Đức, và Anna ở lại đó để chữa trị. Khi trở về, trong lòng Anna đầy vui sướng, cô đã chữa được cả hai chân và đã đi lại được.
Bản năng nghệ sĩ trong Anna Sewell phát triển mạnh mẽ. Các bức tranh của cô thể hiện điều đó. Phong cách và cách sắp xếp trong ngôn ngữ hội họa của Anna làm cho rất nhiều người yêu thích các bức tranh của cô.
Với tác phẩm của mẹ, Anna cũng đóng góp ý kiến phê bình sâu sắc. Bà Sewell rất trân trọng tiếp thu sự phê bình của con gái: “Nếu như tác phẩm của tôi được con gái nói là ‘được đó, mẹ’ thì tôi vô cùng yên tâm!”.
Mùa thu năm 1857, cả gia đình đi chơi Santader ở Tây Ban Nha, và trên đường về, họ cư trú tại Blue Lodge, Wick, gần Bath và Bristol. Chính ở nơi đây, bà Sewell đã viết các tác phẩm chủ yếu của bà. Bà Bayly, tác giả cuốn Những căn nhà tơi tả và cách sửa chữa , đã kể về chuyến viếng thăm bà Sewell tại Blue Lodge vào mùa hè năm 1863 rất thú vị: “Bà mẹ đang viết nốt những chương cuối của Đứa em trai tội nghiệp , có Anna giúp sức. Có lần tôi ở cùng với bà mẹ và cô con gái, bà Sewell đang đọc to bài gì đó viết cho báo. Thật tuyệt vời khi được chứng kiến tình yêu thương đằm thắm, sự ngưỡng mộ và niềm tự hào rực sáng trong cặp mắt người con gái, nhưng tất cả những thứ đó không ngăn cô là một nhà phê bình nghiêm khắc.
Chính tác giả tương lai của Ngựa ô yêu dấu đưa tôi ra ga, rõ ràng cô gái tin vào các tính tốt của con ngựa, chúng tôi có thể nhận thấy qua cách quở trách của cô:
– Đừng có leo lên quả đồi này, mi không thấy trời đang mưa sao? Bây giờ phải đi nhanh hơn một chút, mi sẽ tiếc khi thấy chúng ta đến ga chậm đấy.
Tôi nhớ là trong suốt chặng đường, tôi đã kể với Anna rằng Horace Bushnell đã viết về súc vật. Chắc hẳn chuyện đó không bao giờ bị lãng quên”.
Ngay sau khi xuất bản Ngựa ô yêu dấu bà Bayly nói: “Tôi nhận được một bức thư ngắn của Anna viết: Ý tưởng về Horace Bushnell mà cô gợi ra cho cháu nhiều năm trước đã theo cháu suốt trong thời gian cháu viết cuốn sách này, trước hết đã giúp cháu cảm nhận được rằng chủ đề này rất đáng để cố gắng hết sức. Ít ra nó cũng đưa những suy nghĩ của con người hài hòa hơn với mục đích của Chúa. ”
Tội nghiệp Anna Sewell! Cô đã phải chịu đựng bệnh tật hết sức đau đớn, vô vọng, và nếu bộ mặt của cô có bị méo mó đi vì đau khổ cũng chẳng có gì là lạ. Nhưng không, gương mặt Anna không chỉ dịu dàng và thanh thản mà còn luôn rạng rỡ. Đây là một bằng chứng tuyệt vời của tinh thần chiến thắng bệnh tật. Chỉ riêng sự có mặt của Anna đã làm người ta cảm thấy cô là người trên đất Thánh. Gương mặt cô rạng ngời ánh sáng xa xôi của một tâm hồn mạnh mẽ.
Trong bảy năm cuối đời, tác phẩm Ngựa ô yêu dấu đã hoàn thành nhờ sự say sưa vô tận của Anna khi viết.
Ngày 6 tháng 11 năm 1871, lần đầu tiên cuốn sách được nhắc tới trên báo: “Tôi đang viết về cuộc đời một con ngựa và đang làm búp bê, hộp trang trí cho lễ Giáng sinh”. Đấy là lần nhắc tới duy nhất, cho đến tháng chạp 1876, Anna Sewell viết: “Tôi vẫn đang viết nốt cuốn Ngựa ô yêu dấu ”. Tiếp đến là ngày 21 tháng 8 năm 1877: “Đang in thử các bản đầu tiên cuốn Ngựa ô yêu dấu , rất đẹp”.
Thật quá ư cảm động khi nhớ rằng “Bi kịch tuấn mã Equine” như tác giả đặt tên, gần như hoàn toàn được viết trên giường, là nơi Anna phải chịu đựng sự ốm yếu và đau đớn. Mỗi lúc có thể, cô lại vớ lấy cây bút chì, và bà mẹ ngồi chép lại từng chữ bằng bút mực.
Cuốn sách đã hoàn tất theo kiểu từng đoạn rời rạc như thế. Bạn đọc có thể nhận ra nó không hề “thể hiện sự kết nối” với sự khéo léo của một nhà văn. Nhưng đó là sự rèn luyện, sự chịu đựng bền bỉ để “ra đi, đến nơi thú vị nhất”.
Trong vài trang giấy còn lưu nét chữ của Anna Sewell: “Tôi đã phải nhốt mình sáu năm ròng trong nhà, nằm liệt trên giường. Thỉnh thoảng những lúc có thể được, tôi lại viết những điều tôi suy nghĩ và sẽ tập hợp thành một quyển sách nhỏ. Mục tiêu riêng của cuốn sách là làm cho con người biết đối xử ân cần, cảm thông và hiểu biết loài ngựa.
Nghĩ đến những chiếc xe ngựa là tôi nghĩ đến những bác xà ích và tôi băn khoăn không hiểu tôi có thể thực sự thể hiện được thân phận, những nỗi khó khăn to lớn của họ bằng cách thuật lại chính xác được không.
Vài tuần trước, tôi đã có cuộc trò chuyện thú vị bên cửa sổ với một bác xà ích thông minh đang đợi khách bên cửa nhà chúng tôi. Cuộc nói chuyện ấy đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc.
Lúc câu chuyện dẫn đến vấn đề ngày Chủ nhật, bác ta nói rằng chẳng bao giờ được nghỉ ngày Sabbath [1] . Tôi nhận thấy cảm giác của sự phản kháng mãnh liệt của những người xà ích phải đánh xe trong ngày Chủ nhật, đặc biệt vì họ không được thờ phụng Chúa. Bác ta nói: “Các giáo sĩ cũng thế, cô ạ. Và tôi dám nói là thật hổ thẹn cho tôn giáo vì lẽ ra, ngày Chủ nhật chúng tôi phải được nghỉ”.
Rồi bác ta kể một trong những người xà ích ở London đưa một quý bà đến nhà thờ. Lúc xuống xe, bà ta đã buông ra một lời nhận xét về ngày lễ Sabbath. Câu đó làm người xà ích thực sự phẫn nộ, bác ta nói: “Hay lắm thưa bà, tôi có thể gọi như thế là đạo đức giả được không?”. Tôi cho rằng phần lớn chúng ta đồng tình với bác ta, và không thể giả nhân giả nghĩa như thế được. Rất ít tín đồ Cơ Đốc giáo nhận thức được trách nhiệm khi gọi xe trong ngày Chủ nhật”.
Câu chuyện này chứng tỏ sự phẫn nộ của Anna Sewell vì một thực tế là những con ngựa bị tận dụng ngay cả khi chúng có thể được nghỉ ngơi, và những người ngoan đạo hoặc ra vẻ ngoan đạo lẽ ra nên có ý kiến về việc này.
Ngựa ô yêu dấu ra đời vào cuối năm 1877, và Anna Sewell chỉ còn sống đủ để nghe về thành công của tác phẩm. Tội nghiệp cho nhà văn kiên nhẫn và miệt mài ấy biết chừng nào! Bà được an ủi trong giờ phút cuối cùng, nhưng không sống đủ lâu để biết thành công của “cuốn sách nhỏ” đã kéo dài ra sao, để biết nhiều người đọc đã thấy rằng những chú ngựa nhẫn nại ấy đáng được chăm sóc và thân thiện biết chừng nào.
Nhiều ông bà chủ, người coi chuồng, người chăn ngựa đã say sưa đọc cuốn sách này. Nó đã dạy cho họ biết yêu thương và chăm sóc ngựa hơn mọi cuốn sách đã xuất bản. Có lẽ ít người chú ý đến những thay đổi và cải thiện đáng kể trong cách đối xử và chăm sóc ngựa, chính nhờ những lời cầu nguyện chân thành của người phụ nữ yếu ớt, yêu thương loài ngựa đến thế. Bà đã cầu nguyện cho con người được hạnh phúc hơn, những con ngựa sung sướng hơn, các gia đình đầm ấm hơn. Và điều quan trọng là chúng ta hãy biết cách sử dụng chứ không nên lạm dụng các món quà mà Thượng đế đã ban cho chúng ta.
Chúa đã nghe thấu lời cầu nguyện của Anna Sewell và cho phép bà là người cùng Chúa đem đến những biến đổi từ tâm này.
Tháng 4, 1878, Anna Sewell qua đời và được chôn cất trong nghĩa trang nhỏ, yên tĩnh ở ngôi làng cạnh Lammas gần Norwich, là nơi tổ tiên nhiều đời của bà yên nghỉ. Nghĩa trang nằm nơi khuất nẻo, có nhiều cây to và một hàng rào cây táo gai cao bao quanh, nơi đây luôn có tiếng chim chóc quanh năm.
Mỗi khi đọc Ngựa ô yêu dấu, nghị lực của bà hiển hiện với chúng ta như một lí tưởng và nguồn cảm hứng. Tác phẩm cả đời của Anna Sewell về những con vật không thể tự nói về mình sẽ còn sống mãi, và có ảnh hưởng rộng rãi trên toàn thế giới. Bà đã thực sự nói thay cho những con vật không nói được ấy.