← Quay lại trang sách

Sách thứ ba Thebes náo nhiệt

❖ 1 ❖

Rất nhiều người, cả giàu sang lẫn thấp hèn, tụ tập quanh các tường thành của hoàng cung và cả bãi cấm bên sông cũng dày đặc ghe thuyền, những chiếc thuyền chèo tay bằng gỗ của người giàu và thuyền sậy quét hắc ín của người nghèo. Khi thấy chúng tôi, đám đông râm ran tiếng xì xào, nghe như tiếng nước rì rào xa xa và tin người khoan sọ hoàng gia đã đến lan ra, truyền từ người này sang người khác. Lúc đó mọi người giơ tay làm dấu để bày tỏ sự tiếc thương, tiếng la hét và tiếng than khóc vọng đến hoàng cung trước chúng tôi, bởi ai cũng biết rằng không pharaon nào sống thêm được ba ngày sau khi bị khoan sọ.

Từ cổng hoa huệ tây, chúng tôi được đưa tới các phòng trong hoàng cung, các triều thần phục vụ chúng tôi và cúi rạp mình sát đất trước Ptahor và tôi, vì chúng tôi nắm cái chết trong tay. Ở đó, một phòng khử trùng tạm thời đã được chuẩn bị sẵn cho chúng tôi, nhưng sau khi trao đổi đôi lời với ngự y riêng của Pharaon, Ptahor giơ tay biểu thị sự buồn rầu rồi lạnh lùng làm các bước khử trùng. Ngọn lửa thiêng được đưa đến theo sau chúng tôi khi chúng tôi đi qua các phòng tráng lệ của hoàng cung để bước vào cung thất của Pharaon.

Pharaon vĩ đại nằm trên giường dưới lọng vàng, các cột giường là các thần bảo vệ ngài và chiếc giường được đỡ bởi mấy con sư tử. Ngài nằm bất tỉnh trên giường, tất cả các vật biểu trưng quyền lực đã được cởi bỏ, thân thể ngài sưng phồng, trần trụi và tiều tụy; chiếc đầu già nua, teo tóp, ngoẹo sang một bên; ngài thở nặng nhọc và nước dãi từ khóe miệng nhễu ra. Quyền lực và hào quang trần thế như bóng mờ và dần dần biến mất như vậy, khiến ngài không khác gì một người già đang nằm chờ chết trong phòng chờ của Nhà Sống. Nhưng trên các bức tường của căn phòng, ngài vẫn ngồi trong những cỗ xe hoàng gia được những con ngựa có bờm kéo lao vun vút, bàn tay rắn chắc của ngài giương cung và những con sư tử trúng tên gục ngã dưới chân ngài. Các bức tường trong cung thất lập lòe đỏ, vàng và xanh nước biển, dưới sàn cá bơi lội tung tăng, đàn vịt vỗ cánh rào rào và những cây sậy đung đưa trong gió.

Chúng tôi cúi rạp mình trước Pharaon đang hấp hối và bất cứ ai từng nhìn thấy tử thần đều biết rằng tất cả tài năng của Ptahor đều vô ích. Nhưng từ trước đến nay, khoan sọ của pharaon là giải pháp cuối cùng nếu như ngài không chết theo cách tự nhiên, vì vậy đó là việc cần thực hiện lúc này và chúng tôi bắt đầu công việc. Tôi mở hộp gỗ mun, sát trùng khoan, dao mổ và kìm trên lửa một lần nữa rồi đưa con dao nhọn thần thánh cho Ptahor. Ngự y riêng của Pharaon đã cạo sạch tóc và rửa sạch cái đầu đang hấp hối của ngài, nên Ptahor lệnh cho người cầm máu đến ngồi cạnh giường và nâng đầu Pharaon vào lòng anh ta.

Lúc đó Hoàng hậu Teje bước đến gần giường và ngăn lại. Cho đến khi ấy, Hoàng hậu vẫn đứng bên tường, tay giơ cao tỏ nỗi đau buồn và bất động như một tượng thánh. Phía sau Hoàng hậu là Thái tử trẻ Amenhotep và chị gái của ngài, Công chúa Baketamon, nhưng cho đến lúc đó tôi không dám ngẩng lên nhìn họ. Bây giờ, khi trong phòng đang lộn xộn, tôi nhận ra họ từ những bức tranh ở trong đền. Thái tử Amenhotep trạc tuổi tôi nhưng cao hơn. Ngài ngẩng cao đầu, chiếc cằm dài, thẳng và mắt nhắm nghiền. Chân tay ngài khẳng khiu, yếu ớt, đôi lông mày và gò má rung rung. Công chúa Baketamon có những nét quý phái, xinh đẹp với cặp mắt hình trái xoan. Môi và má công chúa tô son hoe hoe đỏ, xiêm áo của công chúa là loại vải lanh hoàng tộc, để lộ ra sau lớp vải, chân tay công chúa như chân tay của thánh thần. Nhưng cả hai đều không oai nghi bằng Hoàng hậu Teje vĩ đại, mặc dù bà nhỏ người và đẫy đà vì tuổi tác. Da bà màu nâu sậm, gò má rộng và cao. Nghe đồn rằng bà có gốc gác thấp hèn và mang dòng máu người da đen, nhưng điều này tôi không dám chắc vì tôi chỉ nghe nói lại. Tôi chỉ biết mặc dù trong các ghi chép, cha mẹ của bà không thuộc dòng dõi quý phái nhưng bà rất cương nghị, sắc sảo, đôi mắt bà thông minh và dáng người bà toát lên vẻ oai vệ. Khi bà giơ tay và nhìn người cầm máu thì người này tựa như cát bụi dưới đôi bàn chân to bè, nâu sậm của bà. Tôi hiểu y vì y vốn chỉ là tay lái xe bò, con nhà thấp hèn, không biết đọc và không biết viết. Y đứng rụt cổ, hai tay thõng xuống, miệng mở hé và nét mặt đầy vẻ ngu đần. Y không tài cán hay sáng dạ, nhưng lại có khả năng chặn máu chảy bằng sự hiện diện của mình và nhờ vậy y được gọi vào ăn lương ở đền, bỏ lại sau những con bò và chiếc cày của mình. Dù có tắm rửa, kỳ cọ đến thế nào thì mùi phân bò vẫn bốc ra từ người y, nhưng y không thể giải thích tại sao mình có khả năng cầm máu. Nó không phải là năng lực, cũng không phải là một kỹ năng nhờ sự trau dồi mà có. Nó tiềm ẩn trong y giống như một viên đá quý có thể có trong đống sỏi và khả năng ấy không thể học hỏi hay qua tu luyện tâm linh mà có được.

- Ta không cho phép nó động vào thánh thể của quốc vương, - Hoàng hậu nói. - Ta sẽ giữ đầu quốc vương nếu cần thiết.

Ptahor không đồng ý và nói phẫu thuật sẽ làm máu bắn tứ tung rất gớm ghiếc. Mặc dù vậy, Hoàng hậu vẫn ngồi xuống mép giường và cẩn thận nâng đầu quân vương tôn kính của mình lên, đặt vào lòng mặc cho nước dãi của vua nhễu xuống tay mình.

- Thánh thượng là của ta, - Hoàng hậu nói. - Không ai khác được chạm vào ngài. Ngài sẽ đi vào cõi chết từ lòng ta.

- Thánh thượng là thần linh, sẽ lên thuyền của mặt trời quốc lão và lướt thẳng tới miền cực lạc. - Ptahor nói và dùng con dao mỏng mở lớp da đầu của Pharaon. - Ngài đã sinh ra từ mặt trời và ngài sẽ trở về mặt trời và thần dân sẽ muôn đời nhắc đến tên ngài. Nhân danh thần Seth và tất cả quỷ dữ, gã cầm máu còn lần chần gì thế?

Ông nói về những điều không liên quan đến ca phẫu thuật để hướng suy nghĩ của Hoàng hậu ra chỗ khác - như các danh y tài ba thường làm để giúp bệnh nhân của mình quên đi đau đớn. Nhưng đến câu cuối cùng, ông quát người cầm máu đang tựa vào khung cửa, mắt ngái ngủ nửa nhắm nửa mở vì máu từ đầu Pharaon bắt đầu chầm chậm chảy và nhỏ xuống người Hoàng hậu khiến bà co rúm lại, mặt trở nên tái nhợt. Gã cầm máu cũng giật mình bừng tỉnh. Có lẽ y đang nghĩ đến những con bò đực và mương tưới tiêu, nhưng bây giờ y đã nhớ ra việc của mình, bước lại gần hơn và nhìn Pharaon tay đang giơ cao. Máu lập tức ngừng chảy và tôi rửa rồi lau sạch đầu Pharaon.

- Xin lỗi, bà chị bé nhỏ của thần, - Ptahor nói và cầm lấy khoan từ tay tôi. - Dù thế nào ngài cũng sẽ đến với mặt trời quốc lão trên chiếc thuyền vàng và Amon sẽ phù hộ ngài.

Vừa nói ông vừa xoay mũi khoan giữa lòng bàn tay một cách nhanh và thành thạo nhất để nó rít ken két, xuyên vào xương. Lúc ấy, Thái tử mở mắt, bước về trước một bước và nói, cơ mặt rung rung:

- Không phải thần Amon mà thần Ra-Horakhty ban phước lành cho phụ vương và thần Aton là hiện thân của phụ vương.

Tôi đưa tay lên bày tỏ sự tôn kính mặc dù không hiểu ngài nói gì, bởi ai mà biết được hết hàng ngàn vị thần của Ai Cập, ít nhất là giáo sĩ của Amon, người có quá nhiều điều để nghĩ trong tam thành và cửu tháp thần thánh của thần.

- Aton linh thiêng, - Ptahor bình thản lầm bầm, - vì sao không phải là Aton, sao lưỡi tôi nhịu lại thế?

Ptahor lại cầm lấy con dao mổ và cái búa bằng gỗ mun rồi bắt đầu gỡ xương bằng những nhát gõ nhẹ.

- Đúng vậy thật, tôi nhớ ra rồi, bằng sự thông thái thần thánh của ngài, Pharaon đã lập đền thờ thần Aton, hình như ngay sau khi Thái tử chào đời, phải vậy không Teje xinh đẹp? Nào, một lát nữa thôi.

Ông liếc nhìn Thái tử đang đứng cạnh giường, vẻ phiền muộn, hai bàn tay nắm chặt và mặt đang run lên.

- Quả thật có lẽ một ngụm rượu nhỏ sẽ giúp vững tay hơn và cũng không hại cho Thái tử. Hơn nữa cũng nên phá xi gắn trên vò rượu của hoàng gia. Ôi chà!

Tôi đưa kìm cho ông và ông gắp ra một mẩu xương khiến cái đầu trên đùi Hoàng hậu động cựa.

- Rọi đèn vào, Sinuhe.

Ptahor thở phào vì việc khó nhất đã xong. Tôi cũng thở phào theo bản năng và hình như cảm giác nhẹ nhõm đã truyền sang Pharaon đang bất tỉnh; các bộ phận thân thể ngài khẽ động đậy, hơi thở chậm lại, rồi ngài lại chìm vào trạng thái bất tỉnh sâu hơn. Dưới ánh sáng đèn rọi vào, Ptahor nhìn chằm chằm vào phần não của Pharaon đang nhô cao lên trong lỗ khoan qua vỏ não. Não màu xanh xám và phập phồng.

- Hừm! - Ptahor kêu lên và trầm ngâm. - Điều gì làm được, ta đã làm. Cuối cùng đành để Aton săn sóc ngài, bởi vì đây là việc của thần linh chứ không phải của con người.

Ông nhẹ nhàng và thận trọng để mẩu xương lại chỗ cũ, phết keo dán vào chỗ hở, kéo da đầu lại rồi băng kín vết thương. Hoàng hậu lại ngả cái đầu xuống súc gối đỡ gáy bằng gỗ đắt tiền được chạm khắc và nhìn Ptahor. Máu trên đùi Hoàng hậu đã khô, nhưng người không để ý đến nó. Ptahor đáp lại cái nhìn can đảm của Hoàng hậu rồi không cúi người, ông hạ thấp giọng và nói:

- Pharaon sẽ sống được đến sáng mai nếu thần của ngài chuẩn thuận.

Nói xong ông giơ tay làm dấu buồn rầu và tôi cũng làm theo. Nhưng động tác giơ tay của Ptahor biểu thị sự thương cảm còn tôi thì không dám, bởi vì tôi là ai mà dám thương xót bậc đế vương. Tôi tẩy sạch bộ đồ mổ trên lửa và xếp chúng vào hộp gỗ mun của Ptahor.

- Ông sẽ được nhận rất nhiều quà, - Hoàng hậu nói và đưa tay ra hiệu chúng tôi được ra về.

Chúng tôi được đãi một bữa ăn trong sảnh đường của hoàng cung và Ptahor mừng rỡ khi nhìn thấy nhiều vò rượu trên giá cạnh tường. Ông sai mở một vò trong số đó sau khi đã đọc kỹ các tấm xi gắn trên miệng vò rồi nô lệ giội nước lên tay chúng tôi. Tôi hỏi Ptahor sao ông dám nói với Hoàng hậu và Thái tử một cách thất lễ như thế.

- Pharaon đích thực là thần khi người còn sống, - Ptahor nói và nhăn mặt, nhìn giống như một con khỉ đầu chó già nua. - Quả thật người ta xây dựng những ngôi đền cho ngài và dâng cúng nhiều sản vật từ mọi miền đất nước nhưng là một danh y, ta thấy Pharaon chỉ là một con người, cũng chết như chúng ta. Hoàng hậu cũng là một con người và có tất cả những tính cách đặc trưng của đàn bà. Lời nói của ta chỉ như tiếng vo ve của ruồi trong tai của gia đình hoàng gia, và cho dù ta có vo ve như những con ruồi xung quanh họ thì họ cũng không buồn dỏng tai về phía ta. Nhưng bây giờ họ sẽ nói: “Ptahor kỳ cục nhưng là một người đàn ông đáng kính. Chúng ta hãy tha thứ cho sự nông nổi của ông ta vì ông ta đã có tuổi và vì ý định tốt đẹp của ông ta”. Và họ trao cho ta nhiều món quà quý giá và sẽ không quên ta. Hãy nhớ rằng nếu cháu muốn hoàng đế nghe mình, hãy nói với ngài những điều trái ngược với điều người khác nói, nói với ngài như với một người đàn ông, người giống như mình. Khi đó, hoặc ngài sẽ nghe lời cháu, hoặc cháu sẽ bị người ta lấy gậy đuổi ra khỏi cung điện, nhưng dù sao ngài cũng sẽ nhớ đến cháu. Và thật tuyệt vời nếu pharaon nhớ đến thuộc hạ của mình.

Ptahor uống rượu và trở nên vui nhộn. Người cầm máu lấy tay nhón miếng thịt tẩm mật ong đút vào miệng nhai nhồm nhoàm, mất hẳn vẻ ngái ngủ ngu đần. Gã nói: “Không còn ở lều đất nữa”.

Gã cũng uống rượu và uống như thể đó là bia, mắt mở to, mặt đỏ bừng. Gã nhắc lại lần nữa:

- Không còn ở lều đất nữa, không bao giờ, không, chào! - Người hầu rót nước cho gã rửa tay và gã vẩy nước khắp sảnh. Ptahor nhìn gã độ lượng, bảo nhân cơ hội này hãy đi xem các chuồng trại của Pharaon, vì chúng tôi không thể rời khỏi cung điện trước khi Pharaon trút hơi thở cuối cùng hoặc khi ngài khỏi bệnh. Đó là quốc phong. Nếu Pharaon băng hà, chúng tôi buộc phải chết theo ngài.

Người cầm máu tin lời Ptahor nói và buồn hẳn. Nhưng rồi gã thấy vui ngay trở lại khi nghĩ mình sẽ không bao giờ phải chết trong lều đất và gã đòi đi xem các chuồng ngựa của Pharaon, khi vẫn còn cơ hội. Ptahor gọi người hầu đến dẫn gã đi và dặn rằng tốt nhất hãy để cho gã ngủ trong chuồng ngựa, vì như thế gã sẽ thấy thân thuộc hơn.

Khi còn lại hai chúng tôi, tôi mạnh dạn hỏi Ptahor về Aton vì tôi thực sự không biết Amenhotep Đệ Tam đã xây đền cho một vị thần có tên như vậy ở Thebes. Ptahor giải thích, Ra-Horakhty là thần của dòng họ Amenhotep, vì Thomes Đệ Nhất, pharaon vĩ đại nhất trong các pharaon, trong một lần tới sa mạc và đứng bên cạnh một nhân sư đã mơ thấy vị thần này hiện về báo mộng rằng ngài sẽ đội trên đầu vương miện của cả hai vương quốc, mặc dù lúc đó Thomes chưa thấy cơ may nào trở thành quốc vương. Trước ngài còn có quá nhiều người khác có thể được kế vị. Điều đó là có thật, vì vào thời trai trẻ điên rồ của mình, Ptahor từng đến chỗ các kim tự tháp và tận mắt nhìn thấy ngôi đền đã được cho xây để tưởng nhớ câu chuyện về giấc mộng của Thomes qua biểu tượng những cái chân khổng lồ của nhân sư và cái bảng ghi lại lời kể của Hoàng đế về sự hiển linh của mình. Từ đó trở đi, dòng họ Amenhotep tôn sùng Ra-Horakhty, vị thần ở hạ lưu Heliopolis và hiển hiện trong hình tướng của Aton. Aton là vị thần cổ sơ, cổ hơn Amon nhưng đã bị lãng quên cho đến khi Hoàng hậu sinh hạ được con trai sau khi đến cầu tự thần này ở Heliopolis. Vì thế một ngôi đền được xây cho Aton ở Thebes mặc dù ngoài các thành viên của hoàng gia không ai thăm viếng đền này. Aton ở đây là con bò đực với mặt trời ngự giữa đôi sừng và thần Horus được tượng hình dưới dạng chim ưng.

- Theo đó Thái tử là con trai thần thánh của Aton, - Ptahor nói và nhấp một ngụm rượu. - Hoàng hậu đã nhận được sự hiển linh trong đền Ra-Horakhty và sau đó sinh được con trai. Cũng từ nơi đó bà đã mang theo về một giáo sĩ đầy tham vọng mà bà rất ưu ái. Tên ông ta là Eje và ông ta đã cho vợ mình về làm vú nuôi của Thái tử. Ông ta có một cô con gái tên là Nefritite, bú từ cùng một bầu sữa với Thái tử và khi còn bé, cô ta giống như chị hoặc em gái Thái tử, như thế thì cháu biết chuyện gì sẽ đến.

Ptahor uống thêm một hớp rượu rồi thở phào và nói:

- À, với một ông già thì không có gì tuyệt hơn là được uống rượu và lảm nhảm về những việc không liên quan gì đến mình. Ôi, Sinuhe, con trai của ta, giá mà cháu biết bao nhiêu điều bí ẩn bị chôn vùi sau vầng trán của một danh y khoan sọ già nua. Có thể trong đó có cả những bí mật của hoàng gia và nhiều người ngạc nhiên vì sao không bé trai nào sinh ra và sống sót nơi hậu cung, bởi điều này trái với mọi nguyên lý của y khoa. Và ngài, người hiện giờ đang nằm kia với hộp sọ bị khoan, từng không bỏ qua bất kỳ thú vui nào trong những ngày tháng vui vẻ và khỏe mạnh của mình. Ngài là một thợ săn vĩ đại và trong cuộc đời mình, ngài đã hạ cả ngàn con sư tử, mấy trăm con bò rừng, bao nhiêu thiếu nữ đã cùng ngài ân ái trên cái giường dưới lọng che thì khó có hoạn quan nào tính được, vậy mà ngài chỉ có duy nhất một con trai với Hoàng hậu Teje.

Bồn chồn vì cũng đã uống khá nhiều, tôi thở dài và nhìn viên đá xanh trên ngón tay mình. Nhưng Ptahor lại tiếp tục nói, không đoái hoài gì đến tôi:

- Ngài, người đang nằm đó, đã tìm thấy Hoàng hậu vĩ đại trong một chuyến đi săn. Người ta nói rằng Teje là con gái của một người săn chim trong rừng sậy ở lưu vực sông Nile, nhưng Hoàng đế đã phong bà lên ngang hàng với mình bởi vì trí thông minh của bà, ngài cũng coi trọng cha mẹ thường dân của bà và chất đầy mộ của họ những món quà quý giá nhất. Và Teje cũng không ngăn cản thú vui nào của ngài, miễn là không phi tần nào nơi hậu cung sinh con trai. Về điểm này, bà có may mắn kỳ lạ và thật khó có thể tin nếu điều đó thật sự đã không xảy ra. Và nếu như ngài, người nằm đó, nắm trong tay trượng và roi thì Hoàng hậu vĩ đại nắm giữ cánh tay và bàn tay. Khi nhà vua vì lợi ích quốc gia mà kết hôn với con gái của vua Mitanni để ra khỏi cuộc chiến kéo dài muôn đời ở Naharani, vùng đất nơi thượng nguồn, Teje đã thuyết phục ngài tin rằng Công chúa có móng dê ở nơi cánh đàn ông ham muốn và rằng nàng cũng có mùi dê, ít nhất như người ta đồn đại và công chúa này về sau hóa điên.

Ptahor liếc nhìn tôi và nhìn xung quanh rồi vội vàng nói:

- Nhưng, Sinuhe, đừng bao giờ tin những chuyện như thế vì đó chỉ là lời đồn đại của những người xấu xa và ai cũng biết đến Hoàng hậu bởi sự thông thái và ân cần, tài lựa chọn những người đàn ông có khả năng xung quanh mình và ngai vàng của mình. Thế đấy.

Ptahor nghiêng cốc cho một giọt rượu rơi xuống sàn và thành kính ngước mặt nhìn lên. Rồi ông liếc sang bên, cười phá lên và reo to:

- Chào người cầm vỉ ruồi, - ông reo to. - Phải anh đó không? Hãy đến ngồi xuống đây và uống cùng tôi một cốc. Đã lâu chúng ta chưa gặp nhau.

Tôi đứng phắt dậy và cúi khom người, hai tay chạm sàn, bởi vì một bậc tôn kính, người cầm vương trượng bên phải nhà vua và giữ ấn triện của ngài, đang hạ cố đến gần chúng tôi. Ông đến một mình, trong tay ông là những biểu tượng quyền lực nhìn trang nghiêm buồn thảm. Khuôn mặt già nua của ông nhăn nhúm vì đau buồn và những giọt nước mắt lăn trên má. Đó là những giọt nước mắt đau khổ chân thành, ông khóc thương chính mình cũng như khóc cho Pharaon. Ông không hề liếc nhìn tôi bởi theo tập quán, đấng bề trên không cần nhìn kẻ bề dưới vốn chỉ như không khí xung quanh mình. Ông ta ngồi xuống, đặt ấn triện và vương trượng xuống, thở dài và cáu kỉnh nói:

- Này danh y khoan sọ, người ta đã tha thứ cho những lời đùa bỡn của ông, nhưng ông không nên cười cợt ở nơi lẽ ra phải đau buồn và than khóc. - Nói xong, ông đưa tay ra dấu muốn hỏi.

- Cho tới sáng, - Ptahor nói, - nhưng nhân lúc chúng ta không ở trong lều đất sét, như một người thông thái vừa mới nói đây, ông cũng nên uống với chúng tôi một cốc vì rượu thích hợp với niềm vui lẫn nỗi buồn. Nhưng tại sao ông chỉ có một mình và xuất hiện như một cái bóng, anh bạn của tôi? Tại sao những kẻ hầu hạ và đám thượng lưu không còn vây quanh ông như ruồi bu quanh chiếc bánh ngọt?

Quan chưởng ấn lau nước mắt trên má và mỉm cười buồn bã.

- Quyền lực giống như cây sậy trong tay con người, - ông nói. - Cây sậy bị gãy và con chim khôn ngoan kịp bay sang đung đưa trên ngọn sậy khác. Vì vậy, có lẽ ta sẽ uống một cốc với ông, Ptahor, mặc dù đó không phải là thói quen của ta, bởi vì ông nói đúng, rượu là thuốc bổ cho trái tim đau khổ.

- Lẽ nào nhanh đến như vậy? - Ptahor hỏi.

Quan chưởng ấn dang tay thể hiện sự bất lực.

- Tôi thậm chí còn không được vào thức canh bên ông chủ đang hấp hối của mình, - ông nói. - Có Amon chứng giám, thế gian trả ơn bằng sự vô ơn. Hoàng hậu vĩ đại đã đoạt lấy ấn triện của Pharaon và đám cận thần chỉ nghe lệnh của bà. Bên cạnh bà là giáo sĩ ngoại đạo và Thái tử, nói thật, Thái tử chỉ chăm chăm nhìn về phía trước, như con bê non để mặc người chăn dẫn đi đâu tùy ý.

- Nói về các giáo sĩ, - Ptahor nói và rót rượu vào cốc của quan chưởng ấn, vì mấy tên hầu đã bỏ đi khi ông đến, - như tôi vừa kể với anh bạn Sinuhe của tôi đây, một lần hồi còn trẻ bên các kim tự tháp tôi đã viết tên mình lên bàn chân của nhân sư khổng lồ như các lữ khách thường làm để tên tôi không bao giờ bị lãng quên.

Quan chưởng ấn lịch sự liếc nhìn nhưng không thấy tôi.

- À, Aton, - ông ta nói và thành kính đưa tay làm dấu biểu tượng Amon. - Các bản lề của cổng đền Aton đã bị hoen rỉ và quốc vương không còn bày tỏ lòng thành với thần đã nhiều năm nay. Ngài chẳng thà mời vị thần ngoại lai đến chữa trị cho mình. Đó là sự khác thường.

Ông ta lại liếc sang tôi lần nữa và chắc đã nhìn thấy tôi vì ông vội vàng nói thêm:

- Người ta cho thần linh được phép khác thường, bởi vì bản chất của thần linh là sự dị thường.

- Nhưng Thái tử lại nói về thần Aton, - Ptahor giải thích.

- Thái tử, - quan chưởng ấn nói với giọng coi thường thấy rõ, - Thái tử điên rồ và ốm yếu. Tôi dám nói, khi Pharaon còn chưa vào Nhà Chết, Hoàng hậu sẽ gắn bộ râu vào cằm mình, buộc đuôi sư tử vào hông rồi ngồi phán xử với vương miện trên đầu. Tất nhiên giáo sĩ đã xúi giục bà ấy, nhưng tôi cũng dám nói rằng Hoàng hậu phải liên minh với Amon nếu bà muốn trị vì Ai Cập.

Ông ta uống một ngụm rượu và mắt nhòe đi.

- Nói thật lòng, - ông nói tiếp, - các vị thần quả thật rất kỳ dị. Tôi đã hiến dâng đời mình cho thần Amon, tôi cúi đầu coi giáo sĩ tối cao của ngài như cha mình; là người kiến thiết tối cao, tôi đã dồn đất đai Ai Cập vào trong các ngôi đền của ngài nhưng không ai ngoài thần Seth với tất cả quỷ dữ của thần biết ơn tôi về điều đó.

Ông ta lại uống rượu và bắt đầu khóc.

- Tôi chỉ là một con chó già, - ông nức nở. - Tôi là con chó già và lưng tôi rụng hết lông, vì vậy mà tôi trần trụi. Ôi, tôi là chiếc ghế đẩu dưới chân đức vua của mình và ngài nhẹ nhàng ấn đầu tôi vào đất bụi trước mặt ngài.

Ông lại uống tiếp rồi ném cây roi vàng xuống sàn và xé bộ trang phục đắt tiền của mình.

- Những thứ phù phiếm, - ông ta nói, - nhưng tôi đã mất rất nhiều thứ để xây một ngôi mộ và họ không thể lấy nó đi được. Họ không thể tước đi nơi an nghỉ vĩnh hằng của tôi bên phải mộ của vua, mặc dù tôi chỉ là một con chó già trụi lông.

Ông ta gục đầu vào lòng hai bàn tay và khóc thảm thiết.

Ptahor vuốt đầu ông ấy dỗ dành, các ngón tay lần xoa những cục u trên đó.

- Ông có cái đầu thật hấp dẫn, - Ptahor nói. - Nói vui thế chứ tôi có thể mổ nó miễn phí cho ông.

Quan chưởng ấn liền nhấc đầu khỏi tay, ngước mặt lên với vẻ sợ hãi. Ptahor vờ hiểu sai phản ứng của quan chưởng ấn và nói theo kiểu lấy lòng.

- Thật đấy, hoàn toàn miễn phí, không cần đáp lại dù chỉ một món quà nhỏ; vì tình bằng hữu lâu năm, tôi sẵn sàng khoan sọ của ông, bởi vì ông có một hộp sọ hấp dẫn.

Quan chưởng ấn đứng lên nắm chặt cạnh bàn và giận dữ nhìn chằm chằm về phía trước, còn Ptahor giữ chặt cánh tay ông ta và khăng khăng thuyết phục:

- Chuyện đó nằm trong tầm tay mà. Tôi sẽ làm nhẹ nhàng, cẩn thận và biết đâu chỉ ngay hôm sau, ông có thể đi theo ông chủ của mình đến ngôi nhà ở miền tây.

- Ông đang nhạo báng tôi, - quan chưởng ấn nói, một lần nữa tỏ vẻ oai nghiêm rồi nhặt chiếc roi trên sàn nhà lên.

- Ông không tin vào Amon, - ông ta nói và thận trọng cúi người lần nữa để giữ chặt cái bàn.

- Thật tệ hại, quá tệ hại, - ông ta nói tiếp. - Nhưng tôi tha thứ cho sự ngu xuẩn của ông, bởi vì tôi không còn quyền trừng phạt nữa.

Ông ta bỏ đi với chiếc roi và cây trượng lủng lẳng bên tay trái, tấm lưng mệt mỏi và đầy phiền muộn. Sau khi ông ta đi khỏi, mấy tên hầu trở lại đại sảnh và đổ nước lên tay chúng tôi rồi xức cho chúng tôi một loại dầu thơm đắt tiền.

- Dắt ta đi, con trai ta Sinuhe, vì ta đã già rồi và đôi chân đã mỏi, - Ptahor nói.

Tôi đưa Ptahor ra để tận hưởng bầu không khí trong lành, màn đêm đã buông xuống và phía đông Thebes sáng rực, át cả ánh sáng đỏ trên bầu trời. Tôi đã uống rượu và cảm thấy tình yêu đối với Thebes lại dâng lên trong huyết quản. Những ngôi sao lấp lánh trên đầu tôi và khu vườn tràn ngập hương hoa thơm ngát.

- Bác Ptahor, - tôi cất lời, - cháu thèm khát tình yêu khi ánh sáng mờ ảo hiện lên trên bầu trời đêm của Thebes.

- Làm gì có tình yêu, - Ptahor nói một cách dứt khoát. - Người đàn ông sẽ trở nên buồn bã nếu anh ta không có một người đàn bà để ngủ cùng. Nhưng khi đã ăn nằm với một người đàn bà, anh ta sẽ càng buồn hơn. Xưa đã thế và sau này vẫn thế.

- Vì sao? - Tôi hỏi.

- Việc đó ngay cả thần linh cũng không giải thích được, - Ptahor đáp. - Đừng nói với ta về tình yêu trừ khi cháu muốn ta mổ sọ cháu. Ta sẽ làm miễn phí và không đòi hỏi ngay cả món quà nhỏ nhất vì làm như vậy, ta sẽ giải thoát cháu khỏi nỗi buồn.

Nghe đến đó tôi thấy tốt nhất là nên làm việc của nô lệ, bế ông vào lòng và đưa ông đến căn phòng dành cho chúng tôi. Ông nhỏ bé và già nua đến nỗi tôi không phải nặng nhọc thở hay gắng sức chút nào. Khi tôi đặt ông xuống giường, ông ngủ ngay lập tức sau vài lần cố với hũ rượu ở cạnh giường. Tôi đắp cho ông những tấm da lông mềm mại vì đêm lạnh rồi trở lên sân thượng đầy hoa, vì tôi còn trẻ và tuổi trẻ thì không muốn ngủ trong đêm Hoàng đế băng hà.

Lên đến sân thượng, tôi nghe thấy âm thanh trầm thấp của những người ngủ lại bên tường thành của cung điện, như tiếng gió xào xạc trong đám sậy xa xa.

❖ 2 ❖

Tôi thao thức trong mùi hoa thơm ngát khi ánh sáng đỏ rực của Thebes hừng lên trên bầu trời phía đông và nhớ đến đôi mắt màu xanh như nước sông Nile trong mùa hè nóng bỏng cho đến khi nhận ra không chỉ có một mình tôi trên sân thượng.

Trăng lưỡi liềm mỏng mảnh và ánh sao nhấp nháy mờ mờ nên tôi không biết người đang đến gần là đàn ông hay phụ nữ. Nhưng ai đó đang lại gần và cố nhìn thẳng vào mặt tôi để nhận diện tôi. Tôi khẽ cựa mình và người đó nói với giọng the thé kiểu trẻ con đầy kẻ cả:

- Có phải ngươi đó không, Người Cô Đơn?

Tôi nhận ra Thái tử nhờ giọng nói và thân hình mảnh khảnh, èo uột và tôi cúi đầu sát đất trước mặt ngài mà không dám nói lời nào. Nhưng Thái tử sốt ruột đưa chân ẩn tôi và nói:

- Đứng thẳng lên và đừng ngốc thế! Không ai thấy chúng ta, vậy nên ngươi không cần phải cúi lạy ta. Hãy dành cái lạy ấy cho thần, người có con trai là ta đây, vì chỉ một thần tồn tại, còn tất cả những thần khác đều là hiển linh của ngài. Ngươi có biết điều đó không?

Không đợi câu trả lời của tôi, ngài ngẫm nghĩ một lát rồi nói thêm:

- Tất cả thần linh, trừ Amon, vị thần giả.

Tôi giơ tay làm cử chỉ ngăn lại và nói “Ồ!” để thể hiện rằng mình sợ lời nói như vậy.

- Thôi đi, - ngài nói, - ta thấy ngươi đứng cạnh giường phụ vương ta rồi đưa dao và búa cho Ptahor ngu xuẩn. Vì thế ta gọi ngươi là Người Cô Đơn. Còn mẹ ta đặt cho Ptahor cái tên Khỉ Đầu Chó. Các ngươi được đặt cho những cái tên này để phòng khi các ngươi buộc phải chết thay vì được rời khỏi cung điện. Nhưng tên của ngươi do ta tìm ra.

Tôi nghĩ ngài thật sự có bệnh và điên rồ khi nói những điều vô nghĩa đó, nhưng cả Ptahor cũng nói rằng nếu Pharaon băng hà thì chúng tôi sẽ phải chết và người cầm máu cũng đã tin điều đó. Vì thế những sợi tóc đang mọc trên đầu tôi bắt đầu ngứa ngáy và tôi giơ hai tay lên để chặn lại vì tôi không muốn chết.

Thái tử thở dốc và đứt quãng bên cạnh tôi, rồi vừa khua tay vừa lẩm bẩm một mình:

- Ta bồn chồn, và muốn được ở nơi nào khác nơi đây. Thần sẽ hiện ra với ta, ta biết điều đó, nhưng ta sợ. Hãy ở bên ta, Người Cô Đơn, bởi vì thần sẽ đè nát thân thể ta bằng sức mạnh của thần và lưỡi ta sẽ đau lắm khi thần hiển linh với ta.

Tôi rùng mình vì nghĩ rằng ngài đang ốm và mê sảng. Nhưng ngài nói như ra lệnh:

- Đi thôi!

Vì thế tôi theo ngài. Thái tử dẫn tôi rời sân thượng và đi qua hồ trong hoàng cung, tiếng rên rỉ, than vãn của dân chúng từ phía sau những bức tường vọng đến tai chúng tôi. Chúng tôi vòng qua chuồng ngựa và trại chó rồi ra ngoài qua cánh cổng dành cho người hầu mà không bị lính gác cản lại. Tôi vô cùng sợ hãi vì Ptahor đã nói rằng chúng tôi không được phép rời khỏi hoàng cung cho đến khi nhà vua lâm chung, nhưng tôi không thể cưỡng lại Thái tử.

Ngài bước thoăn thoắt, thân hình như săn lại khiến tôi phải lấy hết sức mới theo kịp. Ngài chỉ mặc một chiếc khố, ánh trăng chiếu lên làn da trắng mịn, đôi tay khẳng khiu và cặp đùi thon như đùi phụ nữ. Ánh trăng chiếu rõ đôi tai đang dỏng ra, khuôn mặt khổ đau và thể hiện sự cuồng tín như thể ngài đang dõi theo một ảo ảnh mà người khác không thể nhìn thấy.

Khi chúng tôi ra đến bờ sông, ngài nói:

- Chúng ta đi thuyền. Ta phải đi về phía đông để gặp cha ta.

Không lựa chọn thuyền, ngài lên chiếc thuyền sậy gần nhất, tôi đi theo và chúng tôi bắt đầu chèo qua sông mà không bị ai đuổi theo mặc dù chúng tôi đã trộm thuyền. Đêm lao xao, những chiếc thuyền ngang dọc trên sông và vùng sáng Thebes phản chiếu lên bầu trời càng đỏ thẫm hơn trước mặt chúng tôi. Khi chúng tôi đến bờ, ngài để mặc cho thuyền trôi rồi bước đi về phía trước, như thể đã từng đi như thế nhiều lần. Vì không thể làm khác, tôi đi theo ngài lòng đầy sợ hãi. Rất nhiều người đi lại trong đêm nhưng không ai trong chúng tôi bị lính canh hét gọi bởi Thebes đã biết nhà vua sẽ băng hà vào đêm hôm đó.

Ngài vẫn bước đi mặc đói khát và tôi kinh ngạc về sự dẻo dai trong cơ thể yếu ớt của ngài, bởi vì mồ hôi chảy dọc sống lưng tôi khi tôi cố theo kịp ngài mặc dù đêm rất lạnh. Các chùm sao đã đổi ngôi và trăng đã lặn nhưng ngài vẫn đi và chúng tôi rời thung lũng, đặt chân lên một vùng đất hoang vu, bỏ lại Thebes ở phía sau. Trên nền trời phía đông, ba ngọn núi - những vệ sĩ trấn giữ Thebes - hiện lên đen thẫm trước mắt chúng tôi. Tôi băn khoăn tự hỏi không biết từ đâu và bằng cách nào để có được một chiếc kiệu, vì tôi nghĩ ngài sẽ không thể đi bộ cả quãng đường dài tương tự khi chúng tôi quay về.

Cuối cùng ngài vừa thở hổn hển vừa ngồi xuống cát và sợ hãi nói:

- Hãy nắm lấy tay ta, Sinuhe, vì chúng đang run rẩy và tim ta đập mạnh. Thời khắc đã gần kề, bởi vì ở đây hoang vắng, không có ai khác ngoài ngươi và ta, nhưng ở nơi ấy, nơi ta sắp đến, ngươi không thể theo ta. Dù vậy, ta không muốn một mình.

Tôi nắm chặt cổ tay Thái tử, nhận thấy toàn thân ngài co giật và lạnh ướt mồ hôi. Thế giới vắng lặng quanh chúng tôi và ở nơi xa xa nào đó, chó hung sa mạc bắt đầu tru lên cái chết. Những ngôi sao chầm chậm mờ dần và không gian bao quanh chúng tôi ảm đạm màu chết chóc. Đột nhiên, ngài gỡ tay tôi ra rồi đứng dậy và ngước mặt về ngọn núi phía đông.

- Thần đang đến! - Ngài khẽ nói, khuôn mặt ốm yếu hừng lên vẻ sùng kính.

- Thần đang đến! - Ngài nhắc lại, cao giọng hơn.

- Thần đang đến! - Ngài hét to vào sa mạc và ánh sáng bừng lên xung quanh chúng tôi, những ngọn núi phía trước chúng tôi nhuốm màu vàng rực và mặt trời lên. Sau đó, ngài hét lên giọng the thé rồi ngã xuống đất bất tỉnh, chỉ có chân tay co giật và miệng cử động, rồi ngài đưa chân đá cát. Nhưng tôi không còn sợ nữa vì đã từng nghe tiếng hét tương tự như thế trong Nhà Sống và tôi biết phải làm gì. Không có miếng gỗ để đặt vào giữa hai hàm răng ngài nên tôi xé một mảnh khố của mình, cuộn tròn lại và nhét nó vào miệng ngài rồi bắt đầu vuốt chân tay ngài. Biết rằng khi tỉnh dậy ngài có thể bị ốm và lú lẫn, tôi nhìn xung quanh để tìm sự giúp đỡ, nhưng Thebes đã ở xa phía sau chúng tôi và quanh đây không thấy đến một căn lều nhỏ bé nào.

Đúng lúc đó, một con chim ưng bay ngang qua tôi và rít lên. Nó lao thẳng đến từ vùng tia nắng sáng rực của mặt trời đang lên và lượn một vòng cung trên cao quanh chúng tôi. Rồi nó lại sà xuống, như thể muốn đậu lên trán Thái tử. Tôi kinh ngạc và làm dấu thánh Amon theo bản năng. Có lẽ Thái tử muốn nói Horus là thần của mình và thần hiện hình trước chúng tôi trong hình dạng chim ưng. Thái tử rên rỉ và tôi cúi xuống săn sóc ngài. Khi ngẩng đầu lên, tôi thấy chim ưng đã biến thành người. Trước mặt tôi là một chàng trai trẻ đứng trong ánh mặt trời đang lên, đẹp tựa một vị thần. Anh ta cầm một cây giáo và khoác trên vai tấm vải thô của dân nghèo. Dù không tin vào thần linh nhưng để cho chắc, tôi quỳ rạp xuống sát đất trước anh ta.

- Có chuyện gì vậy, - anh ta hỏi bằng giọng người miền Hạ và chỉ vào Thái tử. - Cậu bé này bị ốm sao?

Tôi xấu hổ và đứng dậy quỳ gối chào theo cách thông thường.

- Nếu anh là một tên cướp, - tôi nói, - anh sẽ chẳng cướp được gì nhiều từ chúng tôi, nhưng anh chàng đi cùng tôi bị ốm, và các vị thần có thể sẽ ban phước cho anh nếu anh giúp chúng tôi.

Anh ta rít lên như chim ưng và từ trên không trung, chim ưng bất ngờ lao thẳng xuống như một hòn đá rơi và đậu lên vai anh ta. Tôi nghĩ có lẽ tốt nhất vẫn nên thận trọng vì biết đâu anh ta là thần, dù chỉ là một vị thần hèn mọn nào đó. Vì thế, với vẻ tôn kính và lịch sự, tôi hỏi anh ta là ai và đang đi đâu.

- Tôi là Horemheb, con trai chim ưng, - anh ta nói đầy kiêu hãnh. - Cha mẹ tôi chỉ là thợ làm pho mát, nhưng tôi đã được tiên đoán vào ngày chào đời rằng tôi sẽ trở thành vị chỉ huy của nhiều người. Chim ưng bay trước mặt tôi, vì thế tôi đến đây bởi tôi không tìm thấy một nơi để trú trong những ngôi nhà nơi thành phố. Người dân Thebes sợ ngọn giáo khi trời tối. Nhưng tôi muốn làm chiến binh của Pharaon, vì người ta nói Pharaon đang ốm và ngài cần những chiến binh dũng mãnh để bảo vệ ngai vàng của mình.

Anh ta tráng kiện như một con sư tử mới lớn và ánh mắt lóe sáng như một mũi tên bay. Tôi ghen tị nghĩ thầm chắc có nhiều phụ nữ nói với anh ta: “Anh chàng điển trai, chàng không muốn đến vui với em trong nỗi cô đơn của em ư?”.

Có tiếng nức nở phát ra từ miệng Thái tử, rồi ngài giơ tay sờ mặt mình và vặn vẹo đôi chân. Tôi lấy miếng giẻ ra khỏi miệng ngài và ước giá như tôi có chút nước để làm ngài tỉnh táo lại. Horemheb tò mò nhìn ngài và lãnh đạm hỏi:

- Cậu ta sắp chết à?

- Anh ấy không chết, - tôi gắt gỏng đáp. - Anh ấy mắc chứng bệnh thần linh.

Horemheb nhìn tôi, tay nắm chặt ngọn giáo.

- Anh không cần phải khinh thường tôi, - anh ta nói. - Mặc dù tôi chỉ đi chân đất và vẫn còn nghèo. Tôi biết viết tàm tạm và đọc được các hình chữ, và tôi sẽ trở thành vị chỉ huy của nhiều người. Vị thần nào đã nhập vào anh ta?

Người ta nghĩ rằng thần linh cất tiếng nói qua miệng người mắc bệnh thần linh, do đó anh ta hỏi như thế.

- Anh ấy có thần của riêng mình, - tôi nói. - Tôi nghĩ rằng anh ấy hơi loạn trí. Khi anh ấy tỉnh lại, anh có thể giúp tôi khiêng anh ấy về thành phố không? Ở đó, chúng ta có thể tìm được một chiếc kiệu để đưa anh ấy về nhà.

- Anh ta bị lạnh, - Horemheb nói rồi cởi tấm vải choàng vai đắp cho Thái tử. - Thebes thường lạnh vào buổi sáng, nhưng tôi được dòng máu của mình sưởi ấm. Ngoài ra, tôi biết rất nhiều thần và tôi có thể kể cho anh tên của những thần luôn luôn có thiện ý với tôi. Nhưng vị thần của riêng tôi là Horus. Cậu bé chắc chắn là con nhà giàu vì nước da trắng mịn như thế và cũng không làm việc tay chân. Còn anh là ai?

Anh ta nói nhiều và hào hứng, bởi vì anh ta nghèo, đã vượt một chặng đường dài để đến Thebes và trên đường đi đã nếm trải sự thù địch và sỉ nhục.

- Tôi là một thầy thuốc, - tôi đáp. - Tôi cũng đã được thụ phong giáo sĩ bậc một trong đền thờ Amon ở Thebes.

- Chắc anh đang đưa anh ta vào hoang mạc để chữa trị? - Horemheb đoán. - Nhưng anh nên cho anh ta mặc ấm hơn.

Tôi nói thế không phải vì xem thường tài năng của các thầy thuốc, - anh ta lịch sự nói thêm.

Cát đỏ và lạnh, sáng rực dưới ánh bình minh, mũi giáo của anh ta cũng đỏ rực và chim ưng vừa kêu vừa lượn quanh đầu anh ta. Thái tử ngồi dậy, hai hàm răng rung lập cập, ngài rên nhè nhẹ và bối rối nhìn xung quanh.

- Ta đã thấy, - Thái tử nói, - khoảnh khắc ấy như một thế kỷ, ta không có tuổi, và ngài giơ cả ngàn bàn tay lên đầu ta để ban phước, mỗi bàn tay trao cho ta sự sống muôn đời. Lẽ nào ta không tin?

- Hy vọng ngài không cắn phải lưỡi, - tôi lo lắng nói. - Tôi cố bảo vệ ngài, nhưng tôi không có mảnh gỗ nào để nhét vào giữa hai hàm răng của ngài. Tiếng nói của tôi chỉ như tiếng ruồi vo ve bên tai ngài.

Thái tử nhìn Horemheb, đôi mắt mở to, sáng quắc, ngài đẹp lên khi mỉm cười và kinh ngạc.

- Anh có phải là người mà Aton, vị thần duy nhất, phái đến không? - Ngài ngạc nhiên hỏi.

- Chim ưng bay trước tôi và tôi đi theo chim ưng của mình, - Horemheb đáp, - vì thế nên tôi có mặt ở đây, còn những điều khác tôi không biết.

Thái tử nhìn cây giáo trong tay anh ta và nhăn trán.

- Anh có một cây giáo, - ngài nói với giọng trách móc.

Horemheb đưa cây giáo ra và nói:

- Cán của nó được làm bằng một loại gỗ tuyệt vời và lưỡi bằng đồng của nó khát khao lấy máu kẻ thù của Pharaon. Ngọn giáo của tôi đang khát và tên nó là Sát thủ Cứa Cổ.

- Đừng bao giờ là máu, - Thái tử nói. - Máu là thứ gớm ghiếc trước mặt Aton. Không có gì khủng khiếp hơn máu chảy.

Mặc dù tôi đã nhìn thấy Thái tử nhắm chặt mắt khi Ptahor thực hiện ca khoan sọ, nhưng tôi vẫn không biết rằng có những người phát ốm và có khi bị ngất khi nhìn thấy máu chảy.

- Máu thanh lọc các sắc tộc và làm cho họ mạnh mẽ, - Horemheb nói. - Máu nuôi béo các thần linh và làm họ hài lòng. Chừng nào còn chiến tranh, máu còn phải chảy.

- Sẽ không bao giờ có chiến tranh nữa, - Thái tử nói.

- Anh chàng thật ngớ ngẩn, - Horemheb bật cười. - Chiến tranh đã và sẽ luôn luôn xảy ra, bởi vì các dân tộc phải thử thách khả năng của nhau mới tồn tại được.

- Tất cả các dân tộc đều là con cháu của thần, tất cả các ngôn ngữ và màu da, xứ đất đen cũng như miền đất đỏ, - Thái tử nói và nhìn chằm chằm lên mặt trời. - Ta sẽ sai xây dựng đền thờ cho thần ở mọi vùng đất và sẽ gửi thánh giá sự sống tới các quốc vương của những vùng đất đó, vì ta đã thấy thần, ta được sinh ra từ thần và ta sẽ trở về với thần.

- Anh ta điên thật rồi, - Horemheb nói với tôi và lắc đầu tỏ vẻ thương hại. - Giờ tôi hiểu vì sao anh ta cần được chữa trị.

- Thần của ngài vừa hiện về với ngài, - tôi nghiêm trang nói để cảnh báo Horemheb, vì tôi đã cảm mến Thái tử. - Căn bệnh thần thánh cho ngài nhìn thấy thần linh và chúng ta không đủ khả năng để phán xét những gì thần nói với ngài. Mỗi người được ban phước với đức tin của riêng mình.

- Tôi tin vào cây giáo và chim ưng của mình, - Horemheb nói.

Nhưng Thái tử lại giơ tay chào mặt trời, khuôn mặt lại rạng ngời và đẹp lên như thể ngài đang nhìn thấy một thế giới khác với thế giới của chúng tôi. Chúng tôi để yên cho ngài cầu nguyện, sau đó dẫn ngài vào thành phố, còn ngài để mặc không phản đối. Cơn động kinh đã làm chân tay ngài rã rời, khiến ngài rên rỉ và bước loạng choạng. Vì thế cuối cùng chúng tôi mỗi người một bên, xốc nách Thái tử đi và chim ưng bay về phía trước.

Khi chúng tôi đến được rìa vùng đất canh tác, điểm cuối nơi các kênh tưới tiêu dẫn nước đến, chúng tôi thấy một chiếc kiệu hoàng gia đang chờ sẵn. Những người hầu cúi rạp xuống đất và từ trong kiệu một giáo sĩ cao lớn bước ra đón chúng tôi, đầu ông ta cạo trọc và khuôn mặt ngăm đen với vẻ đẹp u sầu. Tôi cúi đầu, để thẳng tay đến đầu gối trước mặt ông ta, vì tôi nghĩ ông ta là giáo sĩ Eje, người mà Ptahor đã nói đến. Nhưng ông ta không buồn để ý đến tôi. Ông phủ phục trước Thái tử và chào đón ngài như với một vị vua. Từ đó tôi biết Pharaon Amenhotep Đệ Tam đã băng hà. Sau đó, đám nô lệ chạy đến chăm sóc Pharaon mới. Họ rửa ráy, xoa bóp và xức dầu lên cơ thể ngài, mặc đồ vải lanh hoàng gia cho ngài và đội chiếc khăn hoàng đế lên đầu ngài.

Trong lúc đó, Eje nói chuyện với tôi:

- Thái tử gặp được thần không, Sinuhe? - Ông ta hỏi.

- Quốc vương đã gặp thần của ngài, - tôi nói. - Nhưng tôi đã bảo vệ ngài để không có chuyện xấu xảy ra với ngài. Sao ông biết tên tôi?

Ông ta mỉm cười, nói:

- Nhiệm vụ của ta là phải biết mọi việc xảy ra trong cung điện cho đến khi thời gian của ta điểm. Ta biết tên ngươi và biết ngươi là một thầy thuốc. Vì thế ta tin tưởng để Thái tử đi với ngươi. Ta cũng biết ngươi là giáo sĩ của Amon và đã tuyên thệ với thần ấy. - Ông ta cao giọng nói với vẻ đe dọa.

Nhưng tôi dang tay hỏi:

- Lời thề với Amon có ý nghĩa gì?

- Ngươi nói đúng, - ông ta nói, - và ngươi không cần phải hối tiếc. Vậy hãy hiểu rằng Thái tử luôn bứt rứt khi thần đến gần ngài. Lúc đó không gì có thể ngăn giữ ngài và ngài cũng không cho phép hầu cận đi theo. Nhưng ngài và ngươi đã được an toàn suốt đêm, không bị hiểm nguy nào đe dọa và như ngươi có thể thấy, chiếc kiệu đang đợi ngài. Còn người có cây giáo kia là ai?

Ông ta chỉ vào Horemheb đang đứng bên cạnh, tay thử lưỡi giáo, chim ưng đậu trên vai, rồi nói:

- Có lẽ tốt nhất là hắn chết đi, vì bí mật của Pharaon không được chia sẻ cho nhiều người.

- Anh ta đã lấy tấm vải choàng vai của mình đắp cho Pharaon khi trời lạnh, - tôi đáp. - Anh ta sẵn sàng giương giáo chống lại kẻ thù của Pharaon. Tôi nghĩ, anh ta sống sẽ có ích cho ông hơn là chết, thưa giáo sĩ Eje.

Eje tháo chiếc vòng vàng ở cổ tay mình rồi hờ hững ném cho Horemheb và nói:

- Một ngày nào đó ngươi hãy đến chào ta tại hoàng cung, giáo thủ ạ.

Nhưng Horemheb để chiếc vòng vàng rơi xuống đám cát ngay dưới chân mình và nhìn Eje với vẻ thách thức:

- Tôi chỉ tuân lệnh của Pharaon, - anh ta nói. - Và nếu tôi không nhầm, kia là Pharaon, người đội khăn hoàng đế. Chim ưng đã dẫn tôi đến chỗ ngài, thế là đủ.

Eje không tức giận.

- Vàng đáng giá và luôn cần thiết, - ông ta vừa nói vừa nhặt chiếc vòng vàng dưới cát lên và đeo lại vào cổ tay. - Hãy quỳ lạy Pharaon của ngươi, nhưng không được mang giáo đến gần ngài.

Thái tử lại gần chúng tôi. Khuôn mặt ngài tái nhợt và tiều tụy nhưng vẫn toát lên sự say mê kỳ lạ làm ấm lòng tôi.

- Hãy theo ta, - Thái tử nói, - tất cả hãy theo ta trên con đường mới, bởi sự thật đã sáng rõ với ta.

Chúng tôi đi theo Thái tử đến chỗ chiếc kiệu, mặc dù Horemheb lẩm bẩm một mình: “Sự thật nằm nơi ngọn giáo”. Nhưng anh vẫn chịu đưa cây giáo của mình cho tên hầu chạy phía trước và chúng tôi ngồi xuống càng để kiệu rời đi. Những người khênh kiệu ra sức chạy, một chiếc thuyền chờ sẵn trên bến và chúng tôi trở lại cung điện theo đường mình đã đi mà không mấy ai để ý, mặc dù dân chúng đứng trắng xung quanh các bức tường thành của hoàng cung.

Chúng tôi được vào cung thất của Thái tử và ngài cho chúng tôi xem những chiếc bình to xứ Crete, trên vỏ bình vẽ những con cá và động vật sống động. Giá mà Thotmes được nhìn thấy chúng vì chúng chứng tỏ rằng nghệ thuật cũng có thể khác, như ở Ai Cập. Khi đã đỡ mệt và bình tâm trở lại, Thái tử cư xử và nói chuyện điềm đạm như một thanh niên bình thường ở tầm tuổi chúng tôi, không yêu cầu chúng tôi phải quá lễ nghi hay tôn vinh ngài thái quá. Sau đó, người ta báo rằng Hoàng hậu sẽ đến thăm Thái tử và ngài tạm biệt, nói sẽ nhớ cả hai chúng tôi. Khi chúng tôi sắp rời đi, Horemheb nhìn tôi bối rối.

- Tôi đang lo, - anh ta nói, - vì không có nơi nào để đi.

- Cứ bình tâm ở lại đây, - tôi khuyên. - Thái tử đã nói sẽ nhớ đến anh, vì vậy tốt nhất là anh có mặt khi ngài nhớ đến. Các vị thần tính khí thất thường và nhanh quên.

- Ở lại đây để nhập bầy cùng những con ruồi này ư?

Horemheb nói và chỉ vào những triều thần đang rối rít vây quanh cánh cửa cung thái tử.

- Không, tôi có lý do để lo lắng, - anh ta nói tiếp với vẻ buồn rầu. - Ai Cập sẽ thế nào nếu Pharaon sợ máu và cho rằng tất cả các dân tộc, ngôn ngữ và màu da đều bình đẳng. Tôi sinh ra để làm một người lính và khả năng suy xét của người lính trong tôi nói rằng điều này không tốt cho chiến binh. Dù thế nào, tôi cũng đi lấy cây giáo đây. Nó vẫn đang ở chỗ đám dẫn đường.

Chúng tôi chia tay và tôi bảo anh ta hãy tìm tôi ở Nhà Sống nếu cần một người bạn.

Ptahor đợi tôi trong phòng dành cho chúng tôi, đôi mắt đỏ hoe và thái độ gắt gỏng.

- Cháu đã không có mặt khi Pharaon trút hơi thở cuối cùng vào lúc rạng sáng, - ông hét lên. - Cháu bỏ đi còn ta ngủ, vì thế cả hai chúng ta đều không thấy được linh hồn của Pharaon như chim bay thẳng từ mũi ngài về phía mặt trời như thế nào. Nhiều người chứng kiến điều đó. Ta cũng muốn được nhìn thấy bởi vì ta yêu những điều kỳ diệu như vậy, nhưng cháu đã bỏ đi và không đánh thức ta dậy. Cháu đã ngủ bên cô gái nào đêm qua?

Tôi kể cho ông ấy những gì đã xảy ra đêm qua. Ông ấy giơ tay bày tỏ sự kinh ngạc.

- Amon chứng giám, - ông nói, - Pharaon quả thật điên rồi.

- Cháu không nghĩ ngài điên, - tôi ấp úng nói, bởi vì lòng tôi đã ngả về chàng trai trẻ ốm yếu mà tôi đã bảo vệ, người cư xử nhã nhặn với tôi. - Cháu nghĩ rằng ngài có suy nghĩ riêng về một vị thần mới. Khi những suy nghĩ của Thái tử ngày càng chín với ngài, có lẽ chúng ta sẽ thấy phép màu xảy ra ở đất Kemet.

- Mong Amon che chở chúng ta khỏi điều đó, - Ptahor nói với vẻ kinh ngạc. - Tốt hơn hãy rót rượu cho ta, vì cổ họng ta khô như bụi trên đường cái.

Tên hầu dẫn người cầm máu từ khu trại ngựa về. Gã chưa hết ngạc nhiên và kể đàn ngựa của Pharaon uống nước từ những cái bồn dát đồng và vách ngăn chuồng của chúng được tô điểm bằng những bức tranh và vô số viên đá màu.

- Nhưng tôi không nhìn thấy bò đực, - gã nói, vẻ thất vọng. - Tôi e rằng Pharaon không có con bò đực nào cả. Thay vào đó, tôi thấy nhiều giấc mơ rất kỳ lạ khi nằm ngủ. Tôi thấy Sinuhe dắt ngựa trắng đến đền làm lễ hiến tế và mẹ tôi bằng xương bằng thịt bận rộn với việc bếp núc ở miền tây.

- Giấc mơ đó thật dễ hiểu, - Ptahor nói. - Ngươi là con ngựa trắng và mẹ ngươi nấu cho ngươi một bữa tiệc mừng ngươi trở về trong căn lều nơi địa ngục, bởi vì nếu ta không nhầm thì cả ba chúng ta đều sắp chết rồi.

Nhưng người cầm máu miên man với ý nghĩ của mình.

- Tôi nghĩ rằng ở miền tây có những con bò đực to và đẹp, - gã nói. - Vì khi mẹ tôi trò chuyện với tôi và nhắc tôi không làm bẩn áo choàng của mình, tôi như nghe thấy tiếng bò ọ trầm và sâu ở ngay gần mình. Tôi tỉnh dậy với âm thanh đó, thấy bụng mình sôi và nhận ra mình vừa đái dầm. Đó là vì rượu. Tôi không quen uống rượu mà thích bia hơn.

Gã còn huyên thuyên nhiều điều ngu ngốc khác cho tới khi chúng tôi được đưa đến công đường, nơi người giữ ấn triện già ngồi trên ghế quan tòa, trước mặt là bốn mươi cuộn da ghi các bộ luật. Quân túc vệ có vũ khí vây quanh chúng tôi nên chúng tôi không thể chạy trốn. Người giữ ấn triện đọc cho chúng tôi điều luật ghi trên tấm da và nói rằng chúng tôi phải chết vì Pharaon đã không tỉnh lại sau khi bị khoan sọ. Tôi nhìn Ptahor, nhưng ông ấy chỉ mỉm cười khi tay đao phủ cầm thanh kiếm bước lên.

- Hãy bắt đầu với người cầm máu, - ông ấy nói. - Hắn ta vội hơn chúng tôi, vì mẹ hắn đang nấu món cháo đậu ở miền tây.

Người cầm máu thân mật từ biệt chúng tôi, làm các dấu thánh thần Amon và ngoan ngoãn quỳ gối xuống sàn trước những tấm da. Đao phủ vung kiếm lên và vung nó thành vòng cung trên đầu nạn nhân thật nhanh, làm phát ra tiếng vút dài, rồi y dừng phắt cú chém lại, để lưỡi kiếm chỉ chạm nhẹ vào cổ của người cầm máu. Nhưng gã vẫn đổ gục xuống sàn và chúng tôi nghĩ gã ngất đi vì sợ bởi trên cổ gã chẳng hề có tí vết xước nào. Khi đến lượt mình, tôi quỳ xuống không chút sợ hãi, tay đao phủ bật cười và khẽ chạm nhẹ thanh kiếm vào cổ tôi, chẳng buồn dọa tôi sợ nữa. Ptahor nghĩ rằng ông ta quá thấp nên không cần phải quỳ và đao phủ cũng vung kiếm gần cổ ông. Chúng tôi đã chết như thế, bản án đã được thực thi và chúng tôi được đặt tên mới khắc trên những chiếc vòng vàng nặng nhất. Chiếc vòng của Ptahor quả thật được khắc “Ngài, người giống Khỉ Đầu Chó” và vòng của tôi được khắc “Ngài, Người Cô Đơn”. Sau đó, người ta cân vàng làm quà phẫu thuật cho Ptahor. Người ta cân vàng cho cả tôi. Chúng tôi được mặc quần áo mới và lần đầu tiên tôi mặc một chiếc váy gấp múi bằng vải lanh hoàng gia, cổ áo nặng bạc và đá quý. Nhưng khi đám người hầu cố gắng đỡ gã cầm máu đang nằm trên đất lên thì gã không tỉnh lại mà đã chết cứng như đá. Việc này chính mắt tôi nhìn thấy nên tôi có thể khẳng định đó là sự thật. Song tại sao người cầm máu chết thì tôi không thể hiểu được, trừ khi gã chết vì tin mình sẽ chết? Cho dù thật sự ngốc nghếch nhưng gã có khả năng cầm máu và người như thế không thể giống những người khác.

Giữa đại tang của Pharaon, tin về cái chết kỳ lạ của người cầm máu lan xa và những ai nghe thấy đều không thể nhịn được cười. Họ vỗ tay lên đầu gối và cười ha hả vì điều xảy ra quá điên rồ.

Tôi cũng chính thức bị coi là đã chết nên từ đó trở đi, tôi không thể chỉ ký tên Sinuhe vào các bản viết mà phải ghi thêm dòng chữ “Ngài, Người Cô Đơn”. Trong hoàng cung, tôi không được biết đến với cái tên nào khác.

❖ 3 ❖

Tôi trở về Nhà Sống với quần áo mới trên người và chiếc vòng vàng trên cổ tay, các giảng sư cúi mình và để hai tay ngang đầu gối trước mặt tôi. Nhưng tôi vẫn còn là một y sinh và tôi phải viết lại kỹ lưỡng, chi tiết về cuộc phẫu thuật sọ cùng với việc Pharaon băng hà và ghi tên mình bên dưới để xác nhận. Tôi dành rất nhiều thời gian cho việc này và kết thúc câu chuyện của mình bằng việc mô tả linh hồn của Pharaon như chim bay thẳng từ mũi ngài đến mặt trời. Nhiều người gặng hỏi tôi có phải Pharaon đã tỉnh lại vào những giây phút cuối, thở dài và nói “Amon ban phước lành” hay không, như nhiều nhân chứng khác khẳng định. Ban đầu tôi gắng nhớ lại cho thật chính xác, nhưng cuối cùng tôi nghĩ tốt nhất nên xác nhận điều này và thấy rất vui khi câu chuyện của mình ngày nào cũng được đọc nơi sân trước cho dân chúng nghe trong cả bảy mươi ngày - thời gian ngọc thể của Pharaon được chuẩn bị để trường tồn trong Nhà Chết. Trong suốt thời gian quốc tang này, những nơi vui chơi và các quán rượu bia trong thành phố Thebes đều phải đóng cửa, nên muốn mua rượu bia và nghe nhạc phải đi vào những nơi đó qua cửa sau.

Sau bảy mươi ngày, tôi được báo là tôi đã trở thành một danh y và bắt đầu được phép hành nghề ở bất cứ nơi nào trong thành phố. Còn nếu tôi muốn tiếp tục học chuyên sâu vào một chuyên ngành nào đó, chẳng hạn như nha khoa hay sản khoa, hoặc trở thành một danh y xoa bóp, nhà phẫu thuật hay một danh y thuộc bất cứ ngành nào trong mười bốn lĩnh vực được giảng dạy trong Nhà Sống dưới sự hướng dẫn của những danh y giỏi nhất của từng chuyên khoa, tôi chỉ cần nói nguyện vọng của mình. Đây là một đặc ân cho thấy Amon hậu đãi bề tôi của thần tốt như thế nào.

Tôi còn trẻ và kiến thức trong Nhà Sống không còn hấp dẫn với tôi nữa. Tôi bị cuốn hút bởi sự náo nhiệt của Thebes; tôi muốn trở nên giàu có và nổi tiếng; và tôi cũng muốn tận dụng thời gian này khi ai ai cũng vẫn còn biết đến cái tên Sinuhe, Ngài, Người Cô Đơn. Tôi đã có vàng và đã mua một ngôi nhà nhỏ ở nơi giáp với khu thượng lưu, mua sắm đồ nội thất theo túi tiền của mình và một nô