Chương 3 Phút nghỉ ngơi đầu tiên trong biệt thự
Nằm trên giường nệm trắng, anh bàng hoàng tưởng như mình đang mơ. Nhưng không, anh trấn tĩnh nhớ lại, mình đã bị bắt thật rồi, chúng đã đưa vào đây, trong ngôi biệt thự này, đang đánh đòn tâm lý dụ dỗ mua chuộc, những gì nữa. Mình phải chuẩn bị cho tinh thần thật tỉnh táo để ứng phó...!
Anh mới bị bắt hồi chiều hôm qua thôi, ngày 10-2 sau một trận chiến đâu chống trả quyết liệt giữa mình anh và một bầy lính Mỹ thả từ hàng chục chiếc trực thăng xuống...
Anh bị một chiếc trực thăng phát hiện trên đường giao liên từ Sài Gòn lên chiến khu, đoạn đường trên cánh đồng An Phú, khi trong người đang có tài liệu. Phải giấu tài liệu bằng bất kỳ giá nào, không thể để tài liệu rơi vào tay địch.
Khi chiếc trực thăng hạ thấp trên đầu, hai thằng ngồi ngay cửa, một Mỹ, một chiêu hồi, nó gọi loa kêu đầu hàng, đang chuẩn bị ròng thang xuống, bắt sống anh. Chuyện trực thăng bắt người trên đường thường xẩy ra. Nhanh như cắt, anh vẩy súng bắn liền năm phát, hạ ngay hai tên ngồi cửa trực thăng. Chiếc trực thăng bay lên cao và phụt khói, bay được một đoạn rồi bốc cháy. Anh vừa lăn vừa chạy lao về phía ruộng khoai và địa đạo gần đấy kịp thời giấu được tài liệu, rồi vội băng qua phía có công sự cách chỗ giấu tài liệu cỡ ba bốn chục mét. Anh biết là chắc chắn chúng sẽ đến ngay bây giờ.
Chỉ hai phút sau đã có hàng bầy trực thăng sà tới đổ quân xuống bao vây, toàn lính Mỹ. Còn bao nhiêu đạn là Thương hạ bấy nhiêu lính Mỹ. Lăn thật nhanh ra phía xác mấy tên lính Mỹ nằm gần đó, anh vơ lấy súng bắn trả quyết liệt. Một hàng Mỹ ngã xuống. Tiếc quá, mình không kịp vơ lựu đạn của mấy thằng nằm đó, giá như có lựu đạn lúc này thì tốt biết mấy! Một viên đạn xuyên qua đùi anh, máu chảy ướt đẫm, nhưng đang hăng máu chiến đấu nên không thấy đau.
Hết đạn rồi! Hai mươi mấy xác tên lính Mỹ nằm quanh đó! Tài liệu giấu được rồi, anh em đồng chí mình sẽ lần đúng ký hiệu tìm ra! Gần chục năm kinh nghiệm trong ngành giao liên tình báo, cuộc đời chiến đấu cho cách mạng, cho Đảng đến đây, ta chấp nhận hy sinh được rồi! Còn một viên đạn cuối cùng, phải để bắn thằng lính kia chết, mình hy sinh luôn, quyết không để chúng bắt sống!
Lời nhắc nhở của đồng chí Mười Nho, đồng chí Sáu A, trong buổi lễ kết nạp anh vào Đảng ngày nào như đang vọng lại: "Người đảng viên cộng sản chấp nhận hy sinh vì Đảng, nhưng người đảng viên cộng sản không được quyền tự sát!"
Cái gan tày trời của anh như đang nhắc nhở: Tao sẽ không tự sát. Thì cứ thử xem, chúng mày làm gì được tao! Còn sống là tao còn chiến đấu!
Thằng Mỹ cao to đang di chuyển tới gần, 7m, 5m, 4m, anh bình tĩnh tính toán: bắn đổ thằng này thật gần, mình kịp với lấy súng của nó chiến đấu tiếp!
– Thôi còn viên đạn này cho mày nốt!
Nó té xuống! Anh tính trườn lên lấy súng, nhưng không kịp nữa, một trái ngạt nổ ngay cạnh công sự.
Mất máu nhiều vì vết thương, vì kiệt sức, vì hơi ngạt, anh ngất đi.
Lúc ấy là 5 giờ 30 chiều, mặt trời đang xuống đến chân trời phía Tây. Nguyễn Văn Thương bị bắt. Đó là chuyến công tác giao liên cuối cùng ngày 10 -2 -1969.
Cách đây ba ngày, anh vừa nhận được lệnh về R để đi học trường Nguyễn Ái Quốc ngoài Bắc. Trên còn cho phép anh về gặp vợ con trước khi đi xa. Hai Em, vợ anh mừng mừng tủi tủi, thằng con trai ba tuổi dễ thương quá, nó giống cha như đúc mà đã mấy lần gặp ba được lâu. Nó sống với bà ngoại nên ba má nó tha hồ mặc sức đi công tác bao lâu; Hai Em cũng là giao liên tình báo bên hệ địch vận. Cuộc đời cách mạng là thế! Cả đời cha mẹ anh, đời anh cũng thế. Liệu đến đời thằng Liêm con trai anh lớn lên có được sống trong hòa bình không?
Anh dặn vợ: chuyến này chắc anh đi lâu đây. Em ở nhà chăm lo cho con thay anh. Bằng mọi cách, lớn lên phải cho nó đến trường học...
Ngày 9-2 anh vừa về tới trạm giao liên tình báo ở vùng giải phóng, đã thấy có bức điện để sẵn, yêu cầu đồng chí Thương trở lại, đi một chuyến công tác quan trọng không thể thiếu được.
Đồng chí trạm trưởng còn truyền đạt thêm nội dung:
– Mấy anh nói đây là tài liệu rất quan trọng yêu cầu anh Hai về cơ sở Bình Phước ngay đêm nay, chuyển tài liệu lên R và đi học luôn cho kịp, vì nếu chậm, phải 3 tháng nữa mới có chuyến xe ra Bắc.
Ngưng một lát cậu ta mới ngập ngừng nói:
– Anh Hai này, anh Sáu Trí có nói tùy Hai Thương, anh có quyền từ chối nhưng đây là tài liệu rất quan trọng, ngoài Hai Thương ra, anh Sáu không yên tâm trao nhiệm vụ này cho đồng chí mới thay thế anh!
– Đồng chí chuẩn bị cho tôi chiếc honđa, tôi về ngay bây giờ!
Suốt đêm ấy anh vượt qua bao cánh rừng cao su về tới cơ sở giáp Sài Gòn. Hai giờ chiều nhận xong hai tài liệu: một tài liệu mà nhiệm vụ của cụm tình báo A36 phải chuyển gấp và một tài liệu của anh Hai Trung (sau là Thiếu tướng Hai Trung Phạm Xuân Ẩn) chuyển lên chiến khu.
Chuyên công tác cuối cùng, và cũng là chuyến anh bị bắt, 5 giờ 30 chiều ngày 10 - 2 - 1969 trên đường quay về đến cánh đồng An Phú Tây, trong buổi chiều trời trong xanh lồng lộng cây cỏ, mặt đất một màu xanh đẹp rực rỡ như chưa thấy buổi chiều nào xanh đẹp như thế.
Giờ này chắc tài liệu cũng đã được các đồng chí tìm ra theo quy định cất giấu trên đường giao liên và chuyển tới nơi cần đến của nó. Đó là điều anh mừng nhất: tài liệu quan trọng không bị rơi vào tay địch.
* * *
Bắt được tù binh, khi phải trả bằng cái giá quá đắt, xác hai mươi mấy lính Mỹ nằm quanh đấy, bọn Mỹ xúm vào hò hét, đá thẳng cẳng, trả thù.
Một vật nặng đập mạnh vào sườn, thân người Thương bật ngửa. Một vật rắn dần mạnh xuống ngực, nhói đau, anh nghe nóng cổ họng trong miệng, rồi môi, máu trào ra hai bên mép. Một luồng nước mạnh phà lên mặt, trên thân người, rồi anh nhìn rõ những tên lính Mỹ vây quanh:
– Nó tỉnh rồi.
– Hỏi nó đi mày.
Thương nghe rõ tiếng lơ lớ của tên Mỹ nói tiếng Việt, tên sỹ quan ngụy lên giọng hách dịch:
– Chính mày bắn trực thăng phải không? Việt cộng đâu hết ráo, chỉ có mình mày thôi sao?
Thương mở lớn cặp mắt nhìn từng tên Mỹ rồi tên ngụy, anh cố gắng chụm môi lại phun lên, nhổ ngụm máu từ lồng ngực hay từ bao tử trào ra sau những cú đá vào sườn, cái đạp vào ngực bằng giầy đinh, nhưng sức yếu quá phun không tới mặt hắn. Thương không muốn nói và cũng chẳng thèm nói với bọn chúng làm gì. Những chiếc giày lại bay vào thân anh, anh bị dội mạnh vòng bay đi, rồi lâng lâng.
Thằng phiên dịch hỏi:
– Mày tên gì?
– Không biết.
Một thằng Mỹ cầm cây sắt săm hầm thọc vào vết thương ở đùi anh, hỏi tiếp:
– Tên gì?
Không trả lời!
Nó thọc cây săm xuyên qua đùi anh. Thương cắn chặt hai hàm răng, không kêu. Anh đã chuẩn bị tinh thần cho mình, không nói gì cả, chịu đựng hết...
Mất sức và đau đớn, anh ngất đi. Khi lơ mơ tỉnh, anh xác định xắp xếp lại, chắc chắn mình đã bị bắt rồi, nhưng mình phải sống để đấu tranh, không thể để chúng hại mình nhanh như thế được. Kinh nghiệm của các đồng chí ta cho biết: khi rơi vào tay địch, ta cứ tạo một lý lịch giả đế đối phó. Quanh anh trong những ngày tháng công tác, có thiếu gì những thanh niên trốn lính, ra vùng xôi đậu, gặp gì làm nầy, theo nấy. Tốt nhất ta cứ khai là thanh niên trốn lính.
Thằng Mỹ lại hỏi:
– Mày tên gì?
– Nguyễn Trường Hân.
– Làm gì?
– Tôi thấy Mỹ càn, liền chạy trốn, bị các ông vây, có súng nên tôi bắn trả. Tôi là thanh niên trốn lính, không biết chữ, quê ở Bình Dương, chạy vào vùng du kích, vào đây họ bắt làm gì thì làm nấy. Khi cần họ bắt đào giao thông hào, đi tải đạn, vũ khí, đôi khi cũng chiến đấu chống càn. Sống ở vùng này ai mà không phải làm thế.
– Vậy sao nãy giờ mày không nói.
– Các ông đánh quá. Tôi sợ, dám nói gì đây.
Chúng hốt anh lên trực thăng, đưa tù binh về sân bay Lai Khê. Chúng không trói anh. Với một người đã bị đạn xuyên qua bắp chân và bị trận đòn nhừ tử thì còn gì sức chạy nổi hay chống trả.
Tại sân bay Lai Khê, một tên chiêu hồi đến nhận mặt. Vừa nhìn thấy anh, thằng này mừng sáng con mắt, nó reo lên nói với quan thầy:
– A! Thằng này tôi biết. Nó là Hai Thương, Nguyễn Văn Thương hay còn là Tư Hiếu, nó ở quân đội, nó là công an, rồi sang tình báo. Nó phụ trách một màng lưới phụ nữ đi liên lạc... Nó là tình báo!
Được phen, thằng này tuôn ra hàng loạt về anh để tâng công.
Mắt thằng Mỹ tròn ra, gật gật đầu.
Thằng chiêu hồi bỏ gọng kính xuống, hắn lại gần Thương, miệng cười nham nhở:
– Chào anh Tư! Anh mạnh giỏi chứ?
Nguyễn Văn Thương trừng mắt nhìn kẻ vừa hỏi.
– Anh Tư không nhận ra em sao? Chiến Cá đây mà.
Thương còn lạ gì thằng này, trước hắn là giao liên ở bộ phận Thương, chính anh tuyển nó từ mấy năm trước. Anh chỉ giao cho hắn đường liên lạc từ A đến B. Sau khi hắn bị bắt, ta thay đổi ngay địa điểm. Tất cả vốn liếng hiểu biết của Chiến Cá khai hết với địch nhưng không gây thiệt hại gì cho ta. Chín Cá chiêu hồi được dùng làm chỉ điểm, nhận mặt và trổ tài dụ dỗ. Hắn ta lại gần nhăn nhở:
– Anh Tư! Đơn vị vẫn ở chỗ cũ chứ! Anh em còn mạnh cả không?
Thương trừng mắt nhìn tên phản bội hèn nhát. Anh đã nhìn thấy cây ma-tờ-rắc cạnh đây, dùng hết sức bật dậy, vơ cây sắt, quật ngang mặt Chiến Cá, miệng quát:
– Câm miệng đi, thằng phản bội!
Nó ôm mặt máu la lên. Bọn lính xô lại đè Thương xuống còng tay, miệng quát:
– A! Thằng này giỏi, mày bấy nhừ mà còn quật gẫy răng người ta, ghê thật.
Thương tiếc là mình không đủ sức ra đòn cho thằng này toi mạng tại chỗ, im miệng luôn.
Thằng đại úy ngụy hất hàm hỏi:
– Anh Chiến Cá, thằng này tên gì, ở đơn vị nào?
– Trình đại úy, nó chính là Nguyễn Văn Thương, tức Tư Hiếu, tổ trưởng giao liên tình báo nội thành từ Sài Gòn lên chiến khu.
Hắn nắm tóc Thương giật mạnh:
– Đúng vậy không mày?
– Không biết!
– Đ. m! đã gọi đúng tên họ cúng cơm, chức vụ, mày còn không biết sao?
Thằng đại úy ngụy châm điếu thuốc hút hai hơi liền, nó châm luôn điếu thuốc vào đùi anh hỏi:
– Có đau không anh Tư?
– Không đau!
Tên này giật mạnh lưỡi lê của thằng lính đứng bên, cắm lưỡi lê vào vết thương hên bắp đùi anh, cười nham nhở.
– Thế này có đau không anh Tư?
Thương hăng máu nói to
– Không!
Tên ác ôn ấn mạnh lưỡi lê xuyên qua bắp chân anh. Thương cắn chặt răng. Bọn người có mặt ở đấy đều ghê rợn nhìn cảnh tượng bằng con mắt sợ hãi, khâm phục. Tên đại úy lại rít lên như đang say máu:
– Tên mày là gì?
– Nguyễn Trường Hân.
– Hân... lại Hân...! Chứ không phải là Thương hả? Hắn rút mạnh lưỡi lê và thẳng tay giáng vào cánh tay anh nghe "rắc". Có lẽ bị gẫy xương.
Anh ngất lịm đi khá lâu. Khi lơ mơ tỉnh lại, vết thương đau tê dại đang chảy máu, anh nghĩ tới cách đối phó. Lúc này, có lẽ mình đánh địch bằng cặp mắt căm hờn, bằng ý chí bất khuất. Anh quyết làm cho địch phải sợ khi đôi đầu với người Cộng sản, cũng như chúng phải run sợ khi đối đầu với mũi súng xung phong của người chiến sỹ ngoài mặt trận. Thương thở nhẹ nhõm, khi đã quyết tâm, anh thấy lòng thanh thản, tâm hồn thơi thới, chẳng còn gì phải băn khoăn, hãy chờ xem bay làm gì nổi tao.
Hình như chúng điện đi đâu đó, nên thằng đại úy ra lệnh không được đánh tù binh nữa, băng bó vết thương cẩn thận lại cho anh ta.
Cỡ tiếng đồng hồ sau, một tên Mỹ mặc đồ dân sự bước vào, thân hình hắn to lớn dềnh dàng. Hắn cúi đầu nhìn Thương với cặp mắt xanh soi mói. Hàm râu nâu đậm che cả nửa phần mặt dưới, làm nổi lên chiếc mũi cao cong khoặm như mỏ diều hâu. Hắn nhếch môi cười và cất giọng lơ lớ tiếng Việt:
– Ồ! Anh đã tỉnh rồi! Tốt lắm! Chúng tôi sẽ chữa trị lành hẳn vết thương cho anh. Xin lỗi, chúng tôi không kịp can thiệp, để mấy người ở đây không hiểu biết gì, họ đối xử quá tệ với anh.
Như để quan sát kỹ lại người nằm bất động với vết thương bị hành hạ, tên Mỹ chậm rãi nói:
– Tôi sẽ đưa anh về Sài Gòn điều trị, ở đấy không có ai đánh người như ở đây, anh sẽ được đối xử tốt, mong anh cứ yên tâm.
Hắn nói to cho mọi người cùng nghe:
– Người Mỹ bắt được tù binh, hãy để người Mỹ hỏi, người Việt không được can thiệp!
Ngay lúc ấy có y tá băng bó, trích một mũi thuốc cho anh rồi cáng lên xe. Xe chạy cỡ 10 phút, lại cáng xuống một trại lều dã chiến rộng, có đèn điện, có máy lạnh, salon, máy hát đầy đủ. Mấy người được sai vào lau chùi mặt mũi, thay bộ quần áo đã rách nát và đầy máu me đất cát cho anh. Đặt nằm xuống giường có đệm trắng, lại trích thuốc, khi chúng cho anh uống hết một ly côca mát lạnh và húp một chén xúp, Thương thấy trong người tỉnh hẳn vì khát, vì mất máu, vì mệt.
Theo anh nghĩ: bị bắt làm tù binh thì việc chữa vết thương cho tù binh là chuyện tất nhiên rồi, không có gì phải đề phòng; cũng như trước đây anh đã từng băng bó cho tù binh Mỹ, đưa vào Quân y viện chạy chữa đó sao!
Vết thương đang chảy máu ướt đẫm cả băng, chúng cho trích thuốc và băng bó lại. Cỡ 15 phút sau có mấy cô gái như kiểu phụ nữ Cộng hòa tâm lý chiến vào trong trại, ngay chỗ anh nằm, họ cười đùa thản nhiên và ca hát. Một cô hát bài "Tung cánh chim tìm về tổ ấm... tha thiết bao ngày về đằm thắm" du dương, nức nở. Các cô thay nhau hát cả tiếng đồng hồ. Thương không hơi đâu mà để ý tới ba cái tào lao, bởi trong đầu anh còn bao nhiêu chuyện cần phải nghĩ. Sau có một con nhỏ khá đẹp lại gần đưa cho anh xem một tấm hình phụ nữ ăn mặc hở hang khêu gợi. Cười cợt nhăn nhở một lúc, cô gái liếc mắt cười hỏi anh:
– Có đẹp không anh?
– Ồi! Ảnh này thiếu gì, đầy đường!
Ả hết hứng, cáu tiết đứng dậy, đi ra cửa, còn quăng lại một câu:
– Thằng Việt cộng này ngu như heo!
Còn lại mấy tiếng đồng hồ đêm hôm ấy, Thương không thể chợp mắt được, dù kiệt sức vì mất máu, vì đau nhức, mệt nhừ. Anh nghĩ nhiều về cách đối phó với những tình huống nào sẽ xẩy ra, và một điều thoáng qua: chắc các đồng chí, các cơ sở thấy anh bị bắt, hẳn không khỏi lo lắng. Đành rằng anh là người được tin tưởng trước nay, nhưng vì nguyên tắc, việc cảnh giác đề phòng: sơ tán cơ sở, chuyển địa điểm, tín hiệu... vẫn phải làm. Một người trong tổ chức khi bị bắt, các cơ sở phải lập tức chuyển địa điểm, sơ tán lực lượng. Vì kẻ địch sẽ không thiếu gì các biện pháp tinh vi để khai thác đối phương khi chúng đã nắm trong tay. Anh nhếch mép cười nhẹ: Các đồng chí ơi! Hai Thương này không khai gì hết! Không dễ gì bán rẻ lương tâm và lòng trung thành đâu. Có chết Thương vẫn không phản lại tổ chức đâu! Khỏi lo đi!
Sáng hôm sau, ngày 11-2-1969, một trung tá Mỹ và nhỏ y tá vào. Chờ y tá thay băng xong, trung tá Mỹ nói:
– Chút nữa tôi đưa ông về Sài Gòn. Ở đấy sẽ đón tiếp ông đàng hoàng tử tế, ở đây không được tốt lắm!
Tay chỉ vào phần cơm, hắn nói:
– Đây là tiêu chuẩn ăn của tù binh, chúc ông ăn ngon miệng.
Trên khay có đủ thứ bánh mỳ, bơ sữa xúc xích, dăm bông, nước uống... một xuất ăn của sỹ quan. Mình ăn đi để lấy sức chiến đấu! Anh tự nhủ như vậy, và yên tâm vì từ lúc bị bắt chiều qua đến giờ mình xử lý tốt cả, không có gì phải ân hận phân vân, hãy giữ vững tinh thần nghe Thương!