← Quay lại trang sách

Chương 4 “Biệt thự

Mã Xuân Hy ra lệnh:

– Thôi không đánh nữa, tao cho mày vào sà lim sắt biệt giam, ăn cơm lạt. Mày liệu chịu được bao lâu đây!

Hắn nhếch mép:

– Với cái thân hình này, qua 15 ngày mày còn sống được trong đó, tao xin lột lon thiếu tá ghe con!

Gọi là sà lim sắt cũng chưa đúng, nó là cái thùng collét sắt mỗi chiều hai thước, đặt ngoài trời nắng, trong thùng nóng như lò nung. Thùng sắt bắt nóng hầm hập. Nhưng nóng còn không sợ bằng khát. Người có tý nước nào bốc ra mồ hôi hết. Ngày chúng chỉ vứt cho vài vốc cơm lạt và một lon nước. Thiếu nước bao giờ cũng cực, ở trong thùng sắt nóng càng cực ghê gớm. Không được tắm rửa đã đành, thiếu nước uống, khát khô cả người trong thùng nóng mới thật kinh khủng. Mây ngày đầu không biết cách dành nước, khát quá, uống một hơi, nên cả ngày khát cháy cổ, không còn cả nước bọt mà nuốt nữa, người khô đét. Sau đó, anh có cách uống từ từ hớp một, ngậm thật lâu cho nước ngấm vào miệng. Nhất là hớp cuối cùng, ngậm mãi, rút ngắn được thời gian chịu khát.

Chưa hết, ngay cạnh thùng sắt, chúng đặt cái máy nổ, thỉnh thoảng máy nổ chạy thì nhức tung óc, trong hơi nóng ngột ngạt càng như nứt toang đầu. Bên ngoài chúng vẽ mấy vòng tròn, cho lính chơi trò trọi đá. Đứa nào trọi trúng vòng tròn được thưởng bao thuốc lá. Cả bọn thi nhau trọi vừa được thưởng, vừa tra tấn tên tù ở trong. Một trò chơi chết người.

Thương ngồi ở trong, những tiếng đá trọi vào thành sắt váng óc nhức nhói. Có lần Thương đang ngồi dựa, đột nhiên nghe tiếng choang ngay gáy, choáng óc cỡ mươi phút. Thương không dám dựa vào thùng sắt. Anh bò ra giữa thùng nằm nhắm chặt mắt chịu đựng. Ngày nào cũng vài lần trọi đá, sợ nhất là giữa trưa nắng nóng vừa máy nổ, vừa trọi đá.

Tới ngày thứ bẩy, có thằng lính mở cửa ra hỏi:

– Mày có chịu khai không? Liệu mày còn chịu được mấy ngày nữa? Có nhiều thằng vào đây tám ngày là ngoẻo rồi nghe mày!

Thương trả lời tỉnh queo:

– Thì tao vẫn sống đây thôi!

Ngày lại ngày qua, chúng chểnh mảng bớt việc quấy rối Thương. Ban đêm, anh ngủ được. Cơm lạt vài miếng một ngày, không một hạt muối, cọng rau, không đến nỗi chết ngay nhưng đang suy kiệt trầm trọng. Những khó chịu về nhu cầu tối thiểu của con người bị trà đạp, Thương thu xếp tạm ổn. Lê lết bằng hai tay, cái mông. Không đủ nước uống, không mặc quần áo cũng chả sao, mà lại còn khổ thêm nữa là những cái mình thải ra. Dù ăn và uống ít như vậy nhưng lâu lâu vẫn có thải ra. Nước tiểu thì uống luôn, nhưng...! Anh tìm được một caí lỗ thủng nhỏ cỡ hai phân, lạm cách nào để đưa phân ra ngoài? Nếu không được, phải tích nó lại,không khí trong thùng sắt hẹp này sẽ rất khó chịu. Giá như có được một cái que nhỏ bằng que diêm cũng được để đùn phân ra? Không còn cách nào khác, anh đành dùng ngón tay trỏ của bàn tay trái làm cái việc này.

Thật kỳ lạ thay, hai vết cưa ở hai bên đùi Thương lại không bị nhiễm trùng. Chúng khâu vít qua loa da đùi, kín xương, vậy mà nó thành sẹo, khô lại; nếu không, trong hoàn cảnh như thế này sao còn có thể tồn tại. Người

Việt Nam mình, trong gian khổ khó khăn, quen, sức đề kháng như đã tỷ lệ thuận với vi trùng, càng gầy gò ốm o, sức đề kháng càng siêu nhiên, thật đến không ngờ. Có lẽ vi khuẩn không có gì để ăn trên phần da xương còn lại của anh nên nó không phát triển được, nó chê, thế nên anh không bị nhiễm trùng, vết sẹo cũng khô theo thân thể anh. Gặp phải mây lính Mỹ quen sống đầy đủ sạch sẽ, vô trùng, gặp vết trầy da cũng không kháng nổi, nhiễm trùng toi mạng luôn.

Vào khoảng mươi ngày sau, một đêm, Thương nghe có tiếng gõ nhè nhẹ:

– Đồng chí Hân!

– Ai?

– Tôi! Châu đâu. Xin lỗi đồng chí về lời khai hèn mạt của tôi. Anh em đang đấu tranh quyết liệt về vụ của đồng chí, chúng nó sẽ phải thua đồng chí thôi... Anh có cần gì không?

– Đồng chí cho tôi một cái que nhỏ, báo cáo hộ là tôi vẫn sống, tinh thần tôi vẫn tốt!

Chưa hết ngày thứ 15, trung tá Mã Xuân Hy kiếm cớ có công vụ, hắn phóng về Đà Lạt nghỉ xả hơi. Hắn lánh đi để đỡ mất mặt. Nhưng tội ác giết người đã thành nếp, thành chai trong con người không còn chút tính người, tội ác của hắn hầu như không có điểm dừng, hắn buông một câu trước khi đi:

– Cứ để thằng cụt trong đó...!

Anh em tù biết Thương bị giam trong thùng sắt, vận động đấu tranh nhưng không ăn thua. Mấy anh đưa cơm tù có lần giấu mây hạt muôi vào cơm, sau bị lộ, các anh tìm cách khác, tưới nước muối vào cơm mỗi khi mang cơm cho Thương. Một chén cơm, một lon nước để cầm hơi sống trong một ngày. Khốn nỗi, nóng quá, cái lượng nước bốc hơi nhiều hơn nước được uống nên khát nước không thể chịu nổi. Anh phải nhắn anh em tù mang cơm:

– Mai nói mấy anh cho nước muối vào cơm ít ít thôi, khát nước lắm!

Lâu lâu, anh em lại tìm cách vận động hay cách này cách khác cung cấp được một thức gì đó cho Thương. Như nhúng nước vào khăn vắt ở cổ, lúc mang cơm cho người tù trong thùng sắt, họ vắt khăn ra được ít nước cho anh uống. Anh vẫn sống dai dẳng bất ngờ. Có lẽ đối với Nguyễn Văn Thương, chết là điều không xẩy ra, anh không thể chết!

Mọi di chuyển, sinh hoạt loay hoay bằng đôi tay, trời nóng, tiếng máy nổ, tiếng đá trọi, đói khát, uống cả nước tiểu, vẫn khát... Thương vẫn sống, không thể hiểu nổi sức sống của con người anh bền bỉ như thế nào? Tra tấn suốt 15 ngày, tưởng sức anh đã kiệt. Với thân thể không còn nguyên vẹn như thế, kiệt lực như thế! Vì sao anh lại có thể vẫn tồn tại.

Không phải là 15 ngày giam trong thùng sắt như thằng trung tá Mã Xuân Hy nói mà đã tới ba tháng...! Ba tháng trời nay, chúng để anh chết dần trong thùng sắt, vậy mà anh vẫn chưa chết. Bọn địch càng không thể hiểu nổi vì sao một thằng tù cụt cả hai chân vì bị cưa, vì sao ba tháng trời trong thùng sắt mà nó vẫn chưa chết! Kỷ lục ba tháng trong thùng sắt là chưa từng có trong lịch sử trại giam Hố Nai này, Nguyễn Văn Thương, sức sống dẻo dai đạt kỷ lục phi thường!

Ba tháng trời nhốt Thương trong thùng sắt như thế! Hôm ấy là ngày Phật đản! Các phật tử mang của bố thí tới nhà tù, phân phát cho tù binh mỗi người một bịch quà. Bọn cai và lính cũng có phần. Anh em đã tìm mọi cách đấu tranh cho người đồng chí mình. Lợi dụng tình thế, vận động, tác động tới các ni cô:

– Ni cô ơi! Trong thùng sắt kia kìa, chúng giam một người đã lâu lắm, người đó cụt cả hai chân, người đó gần chết rồi, ni cô nhủ lòng từ bi, hãy nói hộ đôi lời, hãy đấu tranh với chúa trại cho thả người tù binh đó ra...!

Mây ni cô lên phòng Mã Xuân Hy nói: nhân ngày Phận đản, mở lòng từ bi, cứu sống mạng người, các ông nhân từ một chút... Cũng đến lúc nó thấy không thể kéo dài hơn việc giam tên tù cụt chân trong thùng sắt đã quá ba tháng, một kỷ lục chưa từng có trong nhà lao. Nhưng hắn vẫn cố cãi:

– Làm gì có ai trong đó.

– Có người, hồi nãy tôi phát phần có nhiều người nói lấy cho người trong thùng sắt mà!

– Bà nói sai, sáng ngày mai bà đến đây, bẩy giờ sáng mai, tôi mở ra cho coi nếu có tên tù nào trong đó tôi xin lột lon trung tá này cho bà!

Đêm hôm ấy, nắp thùng sắt mở, hai tên lính coi tù nói to:

– Tên tù ngoan cố trời thần này còn sống không?

– Còn.

– Phật tổ phù hộ, nhờ mấy ni cô phật tử tới cho quà nói giùm, nên ổng tha cho mày ra đó! Mày ngoan cố quá trời!

– Đi ra đi mày!

– Chân đâu mà đi!

Hai thằng lính cười:

– Cha nội này tiếu thật. Nào con cõng cha ra!

– Trời đất! Hôi thấy mẹ! Nhẹ như con khỉ còi đẹt vậy! Lông lá tóc tai như cú vọ! Hôi như chuột cống!

– Thì tao đã làm chuột suốt ba tháng nay thôi! Khô hết da thịt rồi, ba tháng chứ đâu phải chỉ có 15 ngày như Mã Xuân Hy nói!

– Thằng này xóc hả, ổng thua mày rồi đó. Nhưng mà hãy câm miệng lại để được sống nghe con!

– Tao tính lên gặp hắn tính sổ đây! Xem hắn có lột lon trung tá không!

– Thôi đi cha, thân còn nhiêu đó mà phách dữ ta! Nào ra!

– Ờ! Ở thì ở, ra thì ra, tao đâu có ngán!

Trên lưng tên lính trại tù, Thương vẫn còn nói chuyện tỉnh táo thản nhiên như đang đi dạo mát bình thường, thật là một điều kỳ diệu trong cuộc sống con người mà ta thấy ở Nguyễn Văn Thương. Chất lạc quan ấy cũng là một nguồn sống nuôi anh qua những lần cam go sống chết (anh nhớ rõ, đó là ngày Phật đản năm 1970).

Chúng lại đưa Thương ngay vào phòng biệt giam cấm cố, không cho tiếp xúc vì đây là "tên tù ngoan cố, chai lỳ, nguy hiểm".

Hai mươi tháng giam cầm ở Hố Nai, thì mười tám tháng Thương bị giam cấm cố, trong đó có ba tháng trong thủng sắt, 15 tháng trong xà lim biệt giam cấm cố, vì những hoạt động chống đối, những đấu tranh trong nhà tù.

Ở trong tù, thời gian tuy cũng được chuyển dịch ngày 24 giờ, nhưng ở trong tù không bình thường như thế. Người xưa nói " Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại", mà "tại tù" của anh lại là tù cấm cố, cấm cố mười tám tháng trời nay. Không được thấy ánh sáng mặt trời, không được tiếp xúc, không được một sinh hoạt tối thiểu hàng ngày của con người là tắm rửa... Thương đã đếm từng ngày trôi đi, nhưng ở đây không có ngày mà chỉ có đêm tối. Bóng tối của 547 đêm nhân với 24 giờ theo vòng quay của trái đất...! Có thể chúng đã tưởng tượng ra cảnh người tù giam cấm cố sẽ sống như thế nào trong sà lim, nhưng chúng không thể tưởng tượng nổi sức sống của một con người có nghị lực phi thường như thế nào!

Anh đã sống với nội tâm của mình. Có lẽ cả đời, anh chưa bao giờ dành thời gian cho riêng mình được nhiều như thế. Thương đã sống trong tiềm thức với những người đã chết và những người còn sống. Với người cha của mình bị tra tấn quằn quại trong ngục tù Tây Ninh; với người mẹ của anh một trí thức, một bác sỹ, tham gia cách mạng, mẹ anh đã chết dần trong nhà lao Côn Đảo nơi chuồng cọp khét tiếng giết người. Rồi Chí, Kiện... những người bạn chiến đấu của anh đã nằm xuống lúc tuổi đời mới hai mươi. Anh đã sống lại với các mẹ, các chị, bà con vùng Lộc Thuận, Củ Chi, Bến Cát trong những năm tháng nuôi anh bằng củ khoai, củ mỳ, củ nần. Những người đã ngã xuống trong trận càn ác liệt nhất, trận càn Sê-đa-phôn vùng Nam Bến Cát. Chính tay anh chôn lấp vội vàng những anh em, đồng chí đồng bào bị bom đạn Mỹ sát hại, thấy người dân vô tội nằm từng đống, từng đống.

Anh đã hứa trọn đời hiến dâng cho cách mạng. Đến bây giờ anh vẫn tự hào mình chưa làm điều gì phải ân hận. Trong lao tù cấm cố, anh sống rất phong phú với quá khứ của mình. Anh nhớ lại từng bài học, từng lời dậy dỗ của ba, của các chú, nhớ lại cả những kỷ niệm ngày còn nhỏ đi học ở Trường Tiểu học Đạo đức Học đường trên Toà Thánh Tây Ninh... Thương cảm thấy mình lớn lên, trưởng thành nhiều, ngay cả trong lao tù này. Đối diện với quân thù, anh thấy mình ngày càng dầy dạn, vững vàng kinh nghiệm, cứng rắn lên.

Anh cố quên đi những hình ảnh kẻ thù tra tấn, đầy đọa thân xác anh. Nhìn thấy đôi chân bây giờ đã cụt hết, có lúc anh rớm nước mắt thì thào: "Mình đã kiệt sức quá rồi, không biết mình có chịu được nữa không, liệu mình còn sống được nữa không! Mình còn sống được đến ngày hòa bình không! Hòa bình, anh mong mỏi ngày hòa bình hơn tất cả những người đang mong mỏi "Nhưng riêng tinh thần thì không hề suy kiệt, anh vẫn thấy bình thường. Thương đã cười thật tươi khi thấy có những đồng chí nhìn anh rồi quay đi để giấu hàng nước mắt trào ra không thể cầm lại được!