← Quay lại trang sách

Chương 6 Một ngày dã ngoại

Chị Mai bước vào phòng nói to:

– Hôm nay chủ nhật, các đồng chí chuẩn bị lấy xe lăn đi thăm quan vườn nhãn nhé!

Anh em reo lên hưởng ứng. Tuyết vội vàng đi chuẩn bị nước uống, thuốc men và một số thứ cần thiết, cô hộ lý vui tính này thích nhất là được chăm sóc thương binh, trên những chuyến di chuyển. Cô nói thản nhiên:

– Ở nhà thì việc chăm lo các anh các chú là quá thường lệ rồi, nhưng có thay đổi tinh huống và diễn biến phức tạp thì mới thấy vận động hết công suất của em. Thanh niên mười bẩy bẻ gẫy sừng trâu như em, càng làm nhiều việc, người càng khỏe, càng thấy vui!

Những con người hết lòng vì nhiệm vụ, hăng hái vì công việc được giao như Tuyết, hình như cả một thế hệ thanh niên đoàn viên ở khu điều dưỡng thương binh này như thế. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã giáo dục đào tạo ra những con người như thế; cũng như cuộc cách mạng ờ miền Nam đã sản sinh ra những con người chiến đấu dũng cảm, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh như Nguyễn Văn Thương. Chỉ có những con cháu của Bác Hồ được sinh ra trong thời đại này mới được như vậy, thật đáng tự hào thay!

Chánh giới thiệu thêm với Thương:

–  Chị Mai làm quản lý ở trại này, chị rất tốt, rất dịu dàng và vui tính, hết lòng với anh em thương binh. Năm trước được tin chị bị rút về công tác ở Hà Nội, anh em khóc, đòi bằng được đồng chí Sơn, đại uý chủ nhiệm trại, giữ chị lại. Thế là "Nàng tiên hiền dịu" vẫn còn ở đây, vẫn là ngọn lửa sưởi ầm tâm hồn những người xa xứ như chúng em.

Tiết trời hơi lạnh, nắng ấm trải dài trên mặt cỏ non, hạt sương sớm còn vương trên cành lá, Trời xanh với những đám mây trắng hồng bồng bềnh, phong cảnh đẹp rực rỡ huy hoàng của bức tranh thiên nhiên miền sơn cước "Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt" khiến cho lòng ai cũng háo hức như những bông hoa khoe sắc, như ngọn cỏ non trong ánh bình minh, như tiếng chim hót ca trong buổi sớm mai yên tĩnh. Đất nước ta giầu đẹp quá, giá như không có chiến tranh, chúng ta chỉ việc cùng với thiên nhiên tươi đẹp này chung sống, sẽ còn hạnh phúc biết bao!

Văng vẳng đâu đây tiếng loa phát thanh vang vọng bài ca, sao lời của bài hát lại hay, lại hợp với khung cảnh và lòng người như thế: "Núi sống ơi! Nắng lên tươi đẹp bốn mùa. Màu lá xanh tươi, ngàn hoa hé môi mỉm cười. Nước non ta tuổi xuân đã nở khắp trời. Tổ quốc thân yêu, non nước chung ngàn lời ca...!"

Tới ngã ba, sau một đoạn dài đường bằng phẳng, ai cũng muốn tự điều khiển xe của mình đến con đường nhỏ vươn lên dốc một quả đồi thoai thoải trồng toàn cau, mặt đường cát mịn. Thương cũng mạnh tay cho xe lên dốc cùng Chánh. Phía sau, Tuyết la oái oái:

– Anh Chánh ơi! Đừng để chú Hai lên dốc, mất sức lắm, đợi em đẩy lên cho!

– Để chú tập cho hai tay mạnh lên chứ cô Tuyết, chú không mệt đâu!

Nói vậy rồi vẫn thấy Tuyết đi tới sát xe lăn của chú Thương sẵn sàng hỗ trợ.

Chánh hạ thấp giọng nói chuyện với riêng Thương:

– Những buổi đi chơi trước, em thường lên đồi cau này ngồi. Từ nhỏ, em vẫn thích leo trèo cao. Cái đêm mà xẩy ra trận đánh ác liệt ấy (Mậu Thân 1968 ) em bị pháo gẫy cả hai chân. Theo dự tính, em sẽ chạy thật nhanh lên nóc nhà toà Thị chính tỉnh Bình Long cắm cờ. Nhưng mới chạy được gần tới nơi thì bị thương rồi. Em cố ôm cờ bò lên, mới được mấy mét nữa thì kiệt sức ngất đi!

Chánh ngừng lại, Thương nghe rõ tiếng thở dài. Hai người cùng lăn mạnh bánh cho xe lên dốc. Ánh mặt trời rực rỡ, hàng cau vươn cao thẳng tắp đều chằn chặn in trên nền trời xanh thẳm, lá cau vẫy vẫy, hoa cau rắc rắc phủ đầy lối đi, phấn hương thơm ngào ngạt như đón chào những người con từ miền Nam xa xôi đang đến đây thưởng thức cảnh thiên nhiên tươi đẹp giữa miền đồi Trung du của Tổ quốc.

Trên đồi cau, mọi người tản mạn thưởng thức cảnh vật và thả tâm hồn vào những nỗi suy tư. Chánh tâm sự:

– Anh Thương ạ, quê em ở Bình Dương, cũng có những vườn cau như thế này, nhưng nhiều cây trái lắm. Có những thứ ở đây không có như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm... Ba em đã hy sinh sau khi tập kết về được 4 năm. Ở nhà em còn hai em với má. Em bị thương lần này má em không biết, cả Loan nữa, Loan không thể ngờ...!

– Loan là người yêu của em, chúng em yêu nhau đã hai năm, ba em và ba Loan là bạn. Hai ông là bộ đội từ thời chín năm. Ba em hy sinh ở trận Chu Lai, còn ba Loan nghe đâu ở Công Trường 9. Khi em ra chiến khu thì Loan cũng đi theo. Hai đứa cùng vào bộ đội một ngày. Em vào đơn vị Đặc công, Loan vào thông tin, về đơn vị của ba Loan phục vụ ở đó.

Chánh ngừng lại giây lát rồi đột ngột hỏi:

– Anh Thương này, em hỏi thật, anh đừng giấu em nghe! Khi bị địch cưa chân rồi, anh có nghĩ chị Hai sẽ đau khổ như thế nào khi biết anh thành người tàn tật không?

Thương thông cảm và hiểu tâm trạng của Chánh, dù người thương binh trẻ này có cố giấu đi những gì muốn bộc lộ tâm sự nhất nhưng vẫn không sao giấu nổi vì nó là tất cả suy tư trăn trở dằn vặt tư tưởng nhiều nhất. Đôi khi họ không buồn lo vì mất hai chân mà lo vì người thân, người vợ, người yêu mình đau khổ và nghĩ gì! Thương thấu hiểu và anh biết xắp xếp ý tứ, tâm lý để trả lời, để giải thích cho người đồng chí trẻ của mình yên tâm, để truyền sang cho Chánh niềm lạc quan tin tưởng vào mình và tình cảm của những người thân yêu dành cho mình, để cho cậu ta xua đi được màn u ám quanh quất bao trùm niềm tin bấy lâu nay.

– Chánh này, mình không hề lần nào có suy nghĩ như Chánh, ngược lại, mình cho rằng vợ mình sẽ tự hào biết bao khi được biết mình đã chịu đựng giỏi như thế nào, kiên cường như thế nào khi thà để mất hai chân mà giữ được bí mật cho tổ chức, giữ vững khí tiết trước kẻ thù. Sau này gặp lại nhau, tâm sự với Hai Em, mình thấy Hai Em vợ mình nghĩ đúng như mình đã nghĩ! về Loan của cậu: mình tin rằng, Loan sẽ sung sướng tự hào biết bao khi người yêu mình bị thương lúc tiến công lên cắm cờ giải phóng ở dinh tỉnh trưởng.

Thấy Chánh im lặng suy tư, Thương hỏi:

– Đổi lại đi, nếu Chánh ở trường hợp của Loan thì Chánh sẽ nghĩ như thế nào?

Phút nói chuyện tâm sự thật ngắn ngủi mà sao như một luồng hơi ấm xua đi màn sương giá lạnh bấy lâu nay. Chánh thấy màu xanh thiên nhiên sáng nay sao tươi sáng hẳn lên. Chánh thấy tinh thần khỏe hẳn ra, anh lại tiếp tục mơ thấy những giấc mơ đẹp bên người yêu.

Thương nói thêm trong ánh mắt tự hào:

– Này, nói về lòng chung thủy, trung hậu đảm đang của người phụ nữ Việt Nam ta thì hơn hẳn phụ nữ trên thế giới ở điểm đó. Và còn hơn hẳn cánh nam chúng ta nữa đấy!

Tiếng cô Tuyết lảnh lảnh vừa hát vừa chuẩn bị nước uống với mùi sắn nướng thơm phức: "Quê em miền Trung du, đồng xanh lúa xanh rờn, giặc càn lên đốt phá, anh về quê cũ, đi diệt thù giữ quê, lòng dân đón anh về!"

Ba tháng sau đó, Chánh đã nhận được thư của Loan với lời hờn giận trách cứ yêu thương. Trách anh không cho hay tin, trách anh sao ích kỉ, coi thường mọi người vì nỗi lo lắng không đâu: "Em yêu anh bằng mối chân tình chung thủy, tự hào vì người yêu mình là một thanh niên biết hy sinh cho nước cho dân, yêu vì anh đã đóng góp xương máu cho cách mạng... em yêu anh gấp trăm ngàn lần lúc anh còn nguyên vẹn đôi chân... Em mong ngày được đón anh về..."

Cậu đọc bức thư đó hàng trăm lần trong niềm sung sướng. Thương chỉ cười vui: - Có đúng như lời anh Hai nói không em!

Còn cô y tá Tuyết cũng đã mấy lần thổn thức với Thương:

– Chú Hai ơi! Ngay từ những ngày đầu, anh Sương và anh Chánh về trại, cháu vừa kính trọng vừa thương. Mỗi lần nhớ lại những lời kể của anh Sương: mồ côi cha mẹ, đi ở đợ, lớn lên đi làm mướn rồi vào bộ đội. Chiến đấu dũng cảm. Anh bị thương ở Bến Cát Lai Khê Bình Dương, mất cả hai chân. Rồi anh mặc cảm, tự nhận mình là tàn tật vô dụng, chán nản buồn phiền. Hai ba tháng đầu cháu tìm mọi cách động viên an ủi, khuyến khích. Mãi sau anh ấy cũng chỉ nguôi đi phần nào. Ngày chú Hai về, anh ấy khá lên nhiều, thay đổi cách nghĩ. Anh vui và lạc quan hơn. Tình cảm của anh với cháu đã khá hơn, nhưng vẫn còn e ngại mặc cảm lắm. Chú Hai khuyên nhủ anh Sương giùm cháu, cháu thương yêu anh Sương thực lòng mà! Cháu đã báo cáo với tổ chức, tổ chức hoan nghênh tán thành quyết định của cháu rồi!

– Thế rồi ngày tháng trôi đi, chúng cháu yêu nhau...!

– Chú Hai biết tấm lòng của con! Thằng Sương nó cũng cảm động và yêu con lắm đấy, nó nhút nhát nên còn mặc cảm, con cứ gần gũi động viên, con cứ thể hiện tình cảm chân thật của mình ra, chú Hai tin rằng, hai đứa sẽ sống bên nhau hạnh phúc!

Lúa đông xuân rồi vụ hè thu, công sức của con người và màu mỡ của đất đã đơm bông kết trái. Lúa gạo hoa màu tiếp bước cho những đoàn quân vào Nam chiến đấu, cơm ngon canh ngọt của bàn tay người nuôi dưỡng chăm chút cho thương binh ngày càng khỏe mạnh. Hạt gạo cắn làm tư nuôi quân khắp các chiến trường Bắc, Trung, Nam, Lào, củ khoai củ mỳ vẫn ngon vẫn khỏe. Tiếng hát tiếng cười của các cô thanh nữ, của các em thiếu niên vẫn hồn nhiên trong sáng.

Thương được sống giữa lòng nhân dân miền Bắc, giữa lòng những người dân Hà Bắc và ngay ở nơi đây, vùng Trại an dưỡng này, thấu hiểu hoàn cảnh và yêu thương quý trọng thương binh hơn cả là lòng dân nơi đây. Có nhiều mẹ, sẵn sàng chấp nhận cho con gái mình lấy thương binh làm chồng. Rất nhiều cô gái xuân trẻ xinh đẹp vùng Kinh Bắc, nặng lòng yêu thương những người con đã hiến máu xương cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dù họ có cụt chân, cụt tay, mù mắt, điếc tai... dù thương tật có nặng đến đâu, nhưng được chia sẻ phần thiệt thòi mất mát ấy với các anh thương binh là họ đã thấy sung sướng và tự hào. Họ đã dâng hiến cuộc đời mình, chung sống với người thương binh mà họ yêu thương quý trọng. Những hành động ấy cũng là đóng góp, cũng là hy sinh cho cách mạng. Nhân dân miền Bắc ai cũng như ai, thắt lưng buộc bụng, chịu đói chịu rách, hết lòng cho cuộc kháng chiến cứu nước, dành độc lập tự do cho dân tộc. Những hy sinh mất mát của chúng ta thật không uổng, thật xứng đáng ngang tầm với thời đại anh hùng mà chúng ta đang sống.

Được sống một năm trong lòng miền Bắc, trong tình thương yêu bao la của nhân dân, Thương thấy tự hào vì mình đã sống xứng đáng với tình cảm mọi người dành cho mình. Quãng đời còn lại phải làm gì đây để giúp ích cho đời, Thương tâm niệm lời dạy của Bác Hồ (khi còn sống Bác về thăm trại thương binh Hà Bắc, Bác đã nói) - "Các cháu tàn nhưng không phế!"