CHƯƠNG II NGUỜI ĐỘI NÓN CÓ BĂNG TANG-
HÔM ấy là ngày ba tháng bảy. Sức nóng oi bức thật là chịu hết nổi. Ngày hôm đó là ngày đầy bực bội cho Veltchaninov. Ông phải chạy đôn, chạy đáo suốt buổi sáng, khi thì đi bộ, khi thì ngồi xe, và chiều hôm ấy, dù với bất cứ giá nào, ông phải gặp cho được một nhân vật có thể giúp ít nhiều cho ông. Đó là một nhà doanh nghiệp và là Ủy Viên trong Tham Chính Viện mà ông muốn bất ngờ gặp ở nhà riêng của ông này, nằm không xa Hắc Giang là bao. Đến sáu giờ, Veltchaninov vào một tiệm ăn (có một bộ mặt đáng ngờ dù là do người Pháp làm chủ) ở Đại Lộ Nevski, gần cầu Cảnh Sát. Ông ngồi vào chỗ của ông nơi chiếc bàn quen thuộc, và gọi bữa cơm chiều đáng giá một rouble ; rượu uống phải trả thêm, chỉ thỉnh thoảng ông mới gọi và xem đó là sự tính toán khôn ngoan, đối với tình trạng làm ăn khó khăn của ông. Tự lấy làm lạ vì sao có thể nuốt trôi những thức ăn tồi tệ như thế, ông vẫn ngấu nghiến cho đến miếng cuối cùng, và mỗi lần với một sự khoái khẩu như là đã nhịn đói đã ba bốn ngày rồi vậy. ‘‘Thật là bệnh hoạn , ông tự nhủ thầm như thế khi nhận ra sự ngon miệng của mình. Nhưng lần này, ngồi ở bàn ăn với nét mặt bực dọc, ông cáu kỉnh ném nón vào một góc, tựa cùi tay vào bàn và nghĩ vơ vẩn. Chỉ cần người khách ngồi bàn bên cạnh gây vài tiếng động, hay anh bồi bàn chưa kịp nghe ông ta sai bảo thì ông ta, người được tiếng là tử tế và nếu cần là người điềm nhiên và cao ngạo, chắc chắn sẽ gây sự như một chú hạ sĩ quèn và có thể làm om sòm là khác nữa. Nhà hàng dọn lên món ‘‘xúp’’ ; ông cầm muỗng định múc, nhưng bỗng nhiên ông ném muỗng xuống bàn và thiếu chút nữa là nhào ra khỏi ghế. Một ý kiến bất ngờ loé sáng trong đầu ông: ngay từ phút ấy, ông chợt nhận ra, có Trời mới biết vì sao ! Cái nguyên nhân của nỗi phiền muộn của mình, của cái nỗi phiền muộn lạ lùng, đặc biệt, đã dày vò, làm khổ làm sở ông trong nhiều ngày gần đây; cái nỗi phiền muộn, có Trời mới biết từ đâu đến ! Và không ngừng vây hãm ông ta, cũng có Trời mới biết tại sao! Bỗng chốc tất cả trở nên rõ ràng và giản dị như là năm đầu ngón tay vậy. ‘‘Cái nón, ông lẩm bẩm như được mặc khải. Chính cái nón tròn khốn nạn với chiếc băng tang xấu xí kia là nguyên nhân độc nhất của tất cả! Ông ta bắt đầu suy nghĩ, và càng suy nghĩ, ông càng trở nên trầm mặc và ‘‘biến cố’’ đó, đối với ông càng lúc càng kỳ lạ. ‘‘Nhưng... đó có thật là một biến cố không? Ông tìm đủ cách để bác bỏ, không còn tin tưởng gì ở mình nữa. Có điều gì giống với một biến cố không nào? Đây là những gì đã xảy ra : gần hai tuần trước đây (ông ta nhớ không đúng cho lắm, nhưng ông tin chắc là hai tuần), ông đã gặp lần đầu tiên ở gần góc đường Podiatcheskaia và Méstchannskaia một người đàn ông có mang băng tang trên chiếc nón. Người đó không khác gì những người khách qua đường khác, nghĩa là không có gì đặc biệt; ông ta vượt qua rất nhanh, nhưng lại ngoái nhìn Veltchaninov hơi kỹ khiến ông này phải chú ý ngay. Dù sao khuôn mặt người khách qua đường kia hình như quá quen thuộc với Veltchaninov; chắc chắn là trước kia, Veltchaninov đã gặp ông ta ở đâu đây. Vả lại, suốt cuộc đời, không phải là mình đã gặp cả hàng nghìn người sao! Không ai có thể nhớ nổi hàng nghìn khuôn mặt ấy! Đi quá một quãng xa, hình như ông đã quên cuộc gặp gỡ kia, dầu rằng cái ấn tượng đầu tiên còn nóng sốt. Suốt cả ngày, ấn tượng này còn mãi, dưới hình thức một sự bực dọc vô cớ, một nỗi bực bội rất đặc biệt. Bây giờ, hai tuần lễ sau, ông ta nhớ lại rất rõ ràng tất cả sự việc đó; ông ta cũng nhớ lại là lúc bấy giờ không hiểu vì đâu mình phát cáu, đến nỗi ông không làm sao tìm ra được mối liên hệ giữa sự cáu kỉnh của mình tối hôm đó với cuộc gặp gỡ lúc ban sáng. Nhưng rồi chính người khách qua đường kia đã tự mình vội vã giúp ông nhớ lại kỷ niệm : ngày hôm sau, ông ta lại gặp Veltchaninov ở Đại Lộ Nevski và một lần nữa, nhìn ông một cách kỳ lạ. Veltchaninov giận tràn hông, ông nhổ nước bọt nhưng lập tức lấy làm lạ về cử chỉ mới gặp lần đầu đã gây cho ta một nhờm chán khó lý luận, một ngấy chán không đối tượng. Nửa tiếng sau cuộc gặp gỡ đó, với dáng điệu trầm ngâm, ông ta lẩm bẩm : ‘‘Ừ ! Mình đã gặp lại hắn ta ở đâu đây rồi’’. Và tối ấy, một lần nữa, ông tỏ ra cáu kỉnh đến đáng ghét; ông còn nằm mơ thấy cả một cơn ác mộng nữa, nhưng ông không hề nghĩ là sự dao động tâm hồn một cách mới lạ và đặc thù đó là do cái ông đội- nón- tang gây nên, dù suốt cả buổi tối hôm ấy, Veltchaninov thường nghĩ đến ông kia luôn. Ông cũng cảm thấy bực dọc khi những ‘‘thứ cà chớn như thế’’ lại có thể ám lâu trong trí não mình. Còn việc quy cho ‘‘cái ông đó’’ trách nhiệm gây nên sự bực dọc thì chỉ mới nghĩ đến thôi, ông cũng đã cảm thấy khá nhục rồi. Hai ngày sau, họ lại gặp nhau một lần nữa trong một đám đông khi rời con tàu xuôi ngược trên dòng Néva. Trong lần thứ ba này, Veltchaninov thề có Trời đất là ‘‘ông để tang’’ kia nhận ra mình và cô gắng rẽ đám đông cuồn cuộn để sấn về phía mình. Và hình như, lão ta lại ‘‘còn dám’’ quơ tay ra dấu và có lẽ lão ta còn gọi ầm lên và réo cả tên mình nữa. Việc này thì Veltchaninov nhận định chưa rõ lắm, nhưng... ‘‘Thằng khốn nạn ấy là ai và tại sao nó không đến gặp thẳng mình, nếu quả thật là nó qnen mình và nó hết sức muốn đến gần mình?’’, ông đã giận dữ tự bảo như thế khi đã yên vị trong chiếc xe thổ mộ đi đến tu viện Smolny. Nửa tiếng sau, ông bàn cãi sôi nổi với vị luật sư riêng ; nhưng, chiều và tối ấy, một nỗi lo âu khắc khoải, quái dị, một lần nữa, dày vò tâm hồn ông. ‘‘Có phải bị bệnh xuất mật không nhỉ?’’, ông lo lắng tự nhủ khi nhìn vào gương bóng mình. Đó là cuộc gặp gỡ lần thứ ba. Suốt năm ngày sau, ông không gặp ‘‘một ai’’ , và ‘‘tên khốn nạn’’ cũng biệt vô âm tín. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, cái kỷ niệm về cái ông mang nón tang lại trở về trong trí, và không phải là không gây cho ông một sự ngạc nhiên. ‘‘Mình nôn nóng muốn gặp lại hắn ta đến thế ư? Hừ, hắn ta có lẽ cũng nôn nóng như mình. Hắn ta có lẽ có nhiều việc phải làm ở Pétersbourg. Và hắn ta để tang cho ai vậy nhỉ? Việc này không hợp với hắn chút nào cả... Hình như nếu mình nhìn gần và kỹ hắn ta, mình sẽ biết hắn là ai...’’ Có đôi điều như sắp thành hình trong kỷ ức ông, như là khi ta muốn nhớ một danh từ quen thuộc mà bỗng nhiên ta quên khuấy: mình biết rõ danh từ đó và mình biết là mình thông hiểu ‘‘nó’’ , mình biết nó nghĩa là gì, mình dò dẫm xung quanh ‘‘nó’’; nhưng, dù cố gắng đến mấy, mình vẫn không thể nào nhớ ra nổi danh từ ấy. ‘‘Đó là...đã lâu lắm rồi... Và ở tại đấy... Ở tại đấy có... Hừ! Cầu cho ma quỷ bắt tất cả đi ! Ông ta bỗng nhiên la lớn. Đáng gì phải mệt óc để tự bôi nhọ và tự lăng nhục vì tên khốn nạn đó nhỉ !’’ Ông ta lâm vào cơn giận dữ kinh khủng; nhưng đến tối, khi sực nhớ lại cơn giận dữ ‘‘quá kinh khủng’’ đó, ông lấy làm khó chịu: như là ông bị bắt quả tang việc gì; ông cảm thấy bối rối và ngạc nhiên. ‘‘Phải có một lý do nào khiến mình giận dữ như thế… mình đột nhiên giận dữ… khi nghĩ đến kỷ niệm kia…’’ Ông tiếp tục nghĩ ngợi nữa… Và ngày hôm sau, ông lại lâm vào một cơn giận còn dữ dội hơn nữa ; nhưng lần này, đối với ông, hình như sự giận dữ kia có lý do và ông giận, hoàn toàn là phải. ‘‘Thật là một sự trơ trẻn vô tiền khoáng hậu !’’. Rồi thì lần gặp gỡ thứ tư lại xảy ra ; Ông-mang-nón-tang, một lần nữa, lại xuất hiện như dưới đất chui lên. Veltchaninov, sau nhiều ngày tìm cách diện kiến và có khi theo đến tận nhà riêng, cuối cùng đã gặp được ở ngoài đường ông ỦY Viên trong Tham Chính Viện mà ông cần nhờ vả. Viên công chức cao cấp này, người sơ giao với Veltchaninov, đã tìm đủ mọi cách để tránh ông, không để bị ông bắt gặp bất chợt và lẩn mặt Veltchaninov một cách không giấu diếm. Rất sung sướng vì cuối cùng gặp được người mình nhờ cậy, Veltchaninov sóng bước bên cạnh ông ta. Nhìn thẳng vào mặt người bạn đồng hành, Veltchaninov gắng sức hết lái câu chuyện về một vấn đề định trước với mong muốn ông kia sẽ để lộ tâm can và nói hớ một vài câu quan trọng mà ông chờ nghe đã từ lâu; nhưng tên già tinh ma kia cũng có phương pháp riêng: ông ta chỉ cười nụ và im lặng. Và đúng trong lúc gay cấn đó, Veltchaninov bỗng nhiên nhận rõ ở lề đường bên kia cái ông đội nón có đính băng tang. Hắn ta dừng lại và nhìn chằm chặp hai người. Và rõ ràng là hắn ta theo dõi hai người và hình như hắn cũng đếch cần hai người có biết hay không. ‘‘Đồ dịch vật!’’, Veltchaninov giận dữ la lên: ông ta vừa chia tay viên công chức, và ông cho rằng mình thất bại là vì sự xuất hiện đột ngột của ‘‘tên hỗn xược’’ kia. ‘‘Đồ dịch vật! Phải chăng nó dò la mình. Rõ ràng là nó theo dõi mình ! Ai đã trả tiền cho nó làm việc này? Và... và... thề có Trời! Ông ta cười ngạo ! Thề có Trời, ta sẽ đánh nó mềm xương ! Đáng tiếc là mình không sẵn trong tay một chiếc ‘‘can’’! Mình sẽ mua một chiếc mới được ! Không thể bỏ qua như thế nầy! Hắn ta là ai nhỉ? Ta cần phải biết hắn là ai?’’ Cuối cùng, đúng ba ngày sau cuộc gặp gỡ nói trên (cuộc gặp gỡ lần thứ tư), chúng ta gặp lại Veltchaninov trong quán ăn quen của ông ta, với sự lo lắng ra mặt và cả đôi chút bối rối nữa như chúng ta đã nói ở những trang trên. Sau khi xem xét mọi trường hợp, mọi tình tiết, cuối cùng ông ta bắt buộc phải công nhận là nguyên nhân độc nhất của sự cáu kỉnh, của mọi phiền muộn rất ư là đặc biệt và của tất cả những xúc động từ hai tuần nay của ông, nguyên nhân đó, không có gì khác hơn là chính cái ông để tang kia, ‘‘mặc dù sự không -ra-gì-tột-độ của hắn ta’’. ‘‘ Công nhận mình là một người mắc bịnh ưu uất đi, Veltchaninov nghĩ như thế, và do đó mình sẵn sàng xem con chuột là quả núi, nhưng đỡ khổ cho mình biết bao, nếu mình biết rằng tất cả những chuyện đó có lẽ thuần do óc tưởng tượng mà ra? Nếu lại cho phép một thằng ba que vớ vẩn nào đó làm điên đảo cả nếp sống của một người thì …thì…’’ Thật thế, hôm nay (đó là lần gặp gỡ thứ năm) quả núi đã có tất cả hình dáng của một con chuột : cũng như những lần trước, ‘‘cái ông đó’’ thoáng nhanh qua, nhưng lần này hắn ta lại không nhìn Veltchaninov, lại giả vờ không biết Veltchaninov là ai, trái lại cúi gằm đầu xuống và hình như cố tránh để khỏi bị nhận diện. Veltchaninov quay lại và lớn tiếng gọi : ‘‘Ê ! Ông kia ! Ông có tang kia ! Bây giờ ông lại cố tránh hả ! Dừng lại, ông là ai vậy?’’ Câu hỏi cũng là những lời réo gọi thật là ngu xuẫn. Nhưng Veltchaninov chỉ nhận thức được sau khi đã lên tiếng. Cái ông bị gọi như thế đó ngoảnh lại, dừng bước trong giây lát, hơi bối rối, mỉm cười, định nói một vài câu, định phác một vài cử chỉ: chắc chắn là có một phút giây nào đó, đã vô cùng do dự, rồi thì, bỗng nhiên, ông ta quay trở lại và bỏ chạy không ngoái đầu nhìn lại. Rất ngạc nhiên, Veltchaninov nhìn vói theo. ‘‘Rất có thể là, ông ta thầm nghĩ, không phải hắn ta theo dõi mình mà chính mình theo dõi hắn ta, và tất cả sự việc chỉ có thế...’’ Sau khi ăn xong, ông thuê xe đến biệt thự của viên công chức cao cấp kia. Nhưng ông không gặp : người nhà ông kia đã trả lời là ‘‘từ sáng đến giờ, ông chủ vẫn chưa về và có lẽ ông ta sẽ về vào khoảng trước ba hay bốn giờ khuya vì ổng còn ở lại dưới phố để ăn mừng sinh nhật một người bạn’’. Veltchaninov cảm thấy chuyện này là một chuyện sỉ nhục nên, trong lúc đầu giận dữ, ông quyết định đi tìm vị khách quý của buổi sinh nhật kia ; ông ta lên đường tức thì, nhưng nhận thấy mình đã đi hơi quá lố, nên nửa đường, ông xuống xe và kéo bộ về tận nhà trọ ở gần Nhà Hát Lớn. Ông thấy cần tản bộ. Để làm dịu dây thần kinh đang căng thẳng, bằng đủ mọi cách, đêm nay ông phải ngủ yên, và để trị bệnh mất ngủ, ít ra ông phải tự làm cho mình mỏi mệt. Vì đường khá xa nên ông về nhà vào lúc mười giờ rưỡi và quả nhiên là ông mệt nhoài. Căn nhà ông thuê từ hồi tháng ba, căn nhà mà ông đã từng chê bai và nguyền rủa chí ư là chua cay, mà ông đã từng biện hộ với chính mình rằng ‘‘đó chỉ là nơi ăn nhờ ở đậu’’ và đó là vì ‘‘ cái vụ kiện tụng khỉ mốc kia’’ đã ‘‘tạm thời’’ giữ mình ở lại Pétersbourg, cái căn nhà đó không đến nỗi thiếu tiện nghi và tồi tệ như ông đã từng đoan chắc. Lối vào cổng chính, hơi âm u ở lầu hai, gồm hai gian phòng lớn, quang đãng và cao ráo, cách nhau bởi một gian phòng xép có phần nào tối tăm. Hai gian phòng đó, một nhìn ra đường và một trông ra sân; cái sân này lại nằm kế một căn phòng dùng làm phòng ngủ nhưng Veltchaninov lại dùng làm nơi chứa bừa bãi sách vỡ và giấy tờ ; ông ta ngủ trong gian phòng quay ra mặt đường và giường của ông là chiếc đi-văng. Bàn ghế tuy hơi cũ kỹ nhưng đúng kiểu và ông còn có những đồ vật đáng giá nữa ; những bảo vật còn sót lại của một quá khứ huy hoàng, những đồ xứ và đồ đồng, những tấm thảm chính hiệu của Boukhara và hai họa phẩm khá đáng giá. Nhưng tất cả đều bụi bặm, nằm vô trật tự và người ta khó mà tìm đúng chỗ của chúng từ khi cô Pélagie tươi trẻ, người giúp việc của ông, về thăm song thân ở Novgorod và để ông ở lại một mình. Sự kiện một người con gái đang xuân ở chung với một người đàn ông độc thân, một người lịch thiệp và còn muốn đòi chút lễ nghi, sự kiện đó thật là đáng lạ lùng và việc này đã làm Veltchaninov thẹn thùng, mặc dù ông rất vừa ý về công việc làm của Pélagie. Cô ta về ở với ông vào mùa xuân khi ông mới thuê căn nhà này; gia đình mà trước kia cô ta giúp việc đã đi ngoại quốc. Sự ngăn nắp đã đến cùng với cô ngay khi cô mới đến ở ; nhưng khi cô đi, Veltchaninov không còn muốn mướn một cô hay một bà nào khác nữa cả. Còn về phần người giúp việc đàn ông thì ông ta không mấy thích họ, và cũng không cần thiết mướn họ cho lắm trong một thời kỳ ngắn ngủi. Giờ đây, việc dọn dẹp nhà cửa, mỗi sáng ông giao cho Mavra, cô em của bà gác cổng, khi ông rời nhà và trao hẳn chìa khóa cho cô ta. Nhưng ông cũng biết cô nàng chẳng làm gì hết dù lãnh lương rất đều và còn có thể cầm nhầm tiền bạc nữa là khác. Nhưng, ông la vốn hững hờ với mọi sự, vả lại, ông cảm thấy sung sướng khi được hoàn toàn một mình. Tuy nhiên, việc gì cũng có giới hạn và thần kinh của ông, khi mật tiết ra nhiều, không chịu đựng nổi sự dơ dáy kia, và hình như ông luôn luôn cảm thấy một sự nhờm tởm sâu đậm khi trở về nhà. Nhưng lần này, vội vã thay quần áo, ném mình xuống giường, và, bực dọc, ông cố gắng không nghĩ ngợi đến điều gì cả và cố gắng ngủ ‘‘tức khắc’’ . Việc đáng lạ là khi vừa đặt đầu xuống gối, ông ngủ liền. Việc đó chưa từng xảy ra từ một tháng nay. Ông ngủ gần ba tiếng nhưng không thẳng giấc. Ông thấy những giấc mộng kỳ lạ như khi bị lên cơn sốt vậy. Ông thấy mình liên quan đến một vụ án mạng mà mình đã nhúng tay vào và cố giấu đi, nhưng đã bị rất nhiều người không biết từ đâu đến, không ngớt vào nhà ông và đồng thanh tố cáo ông. Đã có rất đông người trong nhà, nhưng họ vẫn tiếp tục đến, và cửa lại mở toang. Nhưng rồi tất cả đều chú mục vào một nhân vật kỳ lạ mà ông đã từng quen thân; nhân vật này đã chết và giờ đây vừa đột ngột bước vào. Điều khổ tâm là Veltchaninov không biết ông đó là ai: ông đã quên hẳn tên người đó và không thể nào nhớ lại nổi; ông chỉ biết là xưa kia ông đã từng thương mến người đó! Hình như người đó chính là nhân vật mà toàn thể đám đông đang chờ đợi để nghe một lời tuyên bố dứt khoát là kết tội hay tha bổng Veltchaninov, và tất cả đều có vẻ sốt ruột. Nhưng người đó ngồi bất động và không chịu nói gì cả. Sự ồn ào vẫn không giảm bớt, sự khích nộ lớn dần; và bị cơn giận lôi kéo, đột nhiên Veltchaninov đánh người đó vì ông ta đã im lặng một cách ngoan cố, và trong khi đánh đập, ông cảm thấy một niềm khoái lạc kỳ thú. Sự ghê tởm về hành động của mình cùng với sự đau khổ đã bóp nát con tim ông, nhưng chính việc đó đã tạo cho ông niềm khoái lạc kỳ thú nói trên. Hoàn toàn bị cơn giận chi phối, ông đập thêm lần thứ hai, rồi lần thứ ba, và say máu như bị một cơn điên thôi thúc, một cơn điên tràn đầy khoái lạc, ông ngừng đếm những cú đấm và đánh đập ông kia liên hồi. Ông ta muốn phá hủy, muốn thủ tiêu ‘‘cái đó’’, tất cả cái đó. Nhưng bỗng nhiên có vài việc mới lạ xảy ra: tất cả mọi người đều la lên, rồi họ hướng về phía cửa chính như chờ đợi một ai. Ngay lúc đó, vang lên ba tiếng chuông, ba tiếng chuông náo động như là người gọi cửa muốn giựt đứt luôn dây kéo chuông. Veltchaninov vùng thức dậy, sực tỉnh, nhảy ra khỏi giường và vội vã chạy ra cửa. Ông hoàn toàn tin chắc tiếng chuông kia không phải là một ảo giác và đích thực có một ai đấy gọi cửa. Khó mà tin rằng ảo giác lại có thể là một tiếng chuông rõ ràng cụ thể như thế được. Nhưng kinh ngạc biết bao! Ông nhận thấy tiếng chuông réo gọi kia chỉ là sự tiếp nối của giấc mộng. Ông mở cửa, bước đến đầu cầu thang và còn chịu khó nhìn cả xuống thang gác nữa, nhưng không có ai cả. Quả chuông vẫn treo lủng lẳng, bất động. Kinh ngạc nhưng mãn nguyện, ông quay về buồng ngủ. Khi đốt nến lên, ông sực nhớ là cửa chính chỉ khép hờ chứ chưa khóa mà cũng chả cài then. Thường thường, khi về nhà rồi, ông quên khóa cửa ban đêm, và ông cũng chẳng để ý đến chuyện này cho lắm. Pélagie đã nhiều phen phàn nàn với ông về vụ này. Ông quay ra căn phòng xép để đóng cửa, nhưng trước khi đóng, ông còn hé nhìn ra ngoài một lần nữa, rồi mới cài then, nhưng lại quên khóa. Đồng hồ treo trên tường gióng chuông báo hai giờ rưỡi đêm; ông đã ngủ được ba tiếng. Giấc mộng vừa rồi còn xúc động mạnh đến độ ông không thể nào ngủ lại ngay được ; ông quyết định bách bộ khoảng nửa tiếng quanh phòng, ‘‘thời gian để hút một điếu xì-gà’’. Ăn bận sơ sài, ông đến gần cửa sổ, giở tấm màn che dày ra, rồi vén đến bức mành mành. Trời đã bắt đầu hửng sáng. Những đêm hè quang đãng ở Pétersbourg luôn luôn khích động đến thần kinh hệ của ông và mấy lúc sau này còn làm cho bệnh mất ngủ của ông tăng thêm ; do đó, ông đã cho treo ở mấy cánh cửa sổ những bức màn dày để ngăn không cho ánh sáng lọt vào khi ông khép cửa. Khi tấm màn được vén lên, và quên là ngọn nến đang cháy sáng trên bàn, ông bắt đầu thả bước quanh phòng, tâm trí bị ám ảnh bởi một cảm giác nặng nề và khó chịu. Ấn tượng do giấc mộng vừa rồi gây nên vẫn chưa phai. Nghĩ đến việc mình có thể vung tay và đánh đập người đó, việc này làm cho ông thực tình khó chịu. ‘‘Nhưng ông đó không có và không bao giờ có trên cõi đời này kia mà ! Đó chỉ là một giấc mộng. Việc gì mà mình phải than van?’’ Và tất cả những nỗi lo âu, những nỗi ưu tư của ông như đều quy về điểm đó, ông nôn nóng nghĩ rằng quả nhiên là mình lâm bệnh: ‘‘Một bệnh nhân !’’ Ông luôn luôn lấy làm khó chịu. Khi phải thú nhận là mình trở nên già yếu và trong những lúc khổ sở, vì ác ý, ông thổi phòng lên những bệnh trạng của mình, để tự hành hạ mình. ‘‘Đó là tuổi già ! Mình đã già quá rồi, ông vừa dạo bước vừa lẩm bẩm ; mình mất trí nhớ, mình thấy ma, mình gặp những cơn ác mộng, mình nghe vọng những tiếng chuông. Trời đất quỷ thần ơi ! Theo kinh nghiệm, cứ mỗi lần mình thấy những cơn ác mộng dữ như thế thì thường thường đó là triệu chứng của cơn sốt... Chắc chắn là câu chuyện ‘‘ông để tang’’ cũng chỉ là một giấc mộng mà thôi. Hôm qua quả nhiên là mình nhận xét rất đúng : chính mình là người bám riết lão ta chứ đâu phải lão ta theo dõi mình. Mình đã tưởng tượng ra cả một câu chuyện hoang đường về lão ta rồi thì đâm ra sợ hãi, mình đã chui xuống gầm bàn ! Và tại sao mình lại xem ông ta là một thứ lưu manh, khốn nạn? Có thể ông ta là một người đàng hoàng. Bộ mặt của ông ấy khó coi thật, nhưng không có gì đáng gọi là xấu xí; ngoài ra ông cũng ăn mặc như tất cả mọi người. Nhưng có một cái gì khang khác ở trong tia mắt của ông ta... Đó! Mình lại bắt đầu ! Mình lại nghĩ đến lão ta nữa! Mà tia mắt của lão thì quan hệ ‘‘đếch’’ gì đến mình ! Mình không thể sông mà không nghĩ đến tên vô lại đó à !’’ Giữa mớ ý tưởng hỗn độn trong đầu óc, có có một ý tưởng đã làm tổn thương ông nặng nề : ông tin chắc là ông để tang đó, xưa kia đã biết rõ về ông, và giờ đây lại xem thường ông khi gặp nhau, cái ông đó lại cũng biết rõ một trong những sự bí ẩn quan trọng của quá khứ ông, và giờ đây lại trông thấy ông sa sút đến như thế. Ông đến gần cửa sổ mà không hay ; định mở cửa và hít vào phổi làn không khí ban đêm, và... và bỗng nhiên ông rùng mình… hình như có một vài sự gì kỳ quái và phi phàm đã xảy ra. Ông chưa kịp mở cánh cửa sổ, đã vội lẩn nhanh vào góc cửa và ẩn mình ở đó : ở phía bên kia lề đường vắng người, ngay trước mặt nhà, đột nhiên ông thấy cái ông đội nón có mang băng tang. Cái ông đó đứng trên lề, mặt hướng về phía cửa sổ ; chắc chắn là ông ấy không thấy ông và hình như ông ta vừa kỹ lưỡng quan sát ngôi nhà, vừa ra chiều suy nghĩ. Hình như ông ta hơi do dự và toan tính chuyện gì: ông ta giơ ngón tay lên, và lấy ngón tay gõ gõ vào trán. Cuối cùng ông tỏ vẻ dứt khoát, lén lút nhìn quanh mình, rồi thì nhón gót, thu mình lại, ông băng nhanh qua đường... Thì ra vậy : ông vào lối cổng chánh bằng chiếc cửa nhỏ bên hông (thường thường về mùa hè, cửa nầy được bỏ ngỏ cho đến ba giờ sáng). ‘‘Hắn ta đến nhà mình’’, Veltchaninov tự nhủ thầm như thế, và rón rén trên đầu ngón chân, ông chạy vội ra phòng xép và nép mình trước cửa chính ; tinh thần hoàn toàn căng thẳng trong sự chờ đợi, bàn tay run rẫy đặt trên cái then vừa được cài lại hồi nãy, ông lắng tai nghe tiếng chân chạm nhẹ trên thang gác. Tim đập mạnh đến độ sợ không thể nào nghe được người khách lạ đang nhón gót bước lên cầu thang. Ông ta không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng ông cảm thấy tất cả những gì đang xảy ra với một độ bén nhậy được tăng lên gấp bội. Như là mộng lẫn lộn với thực. Veltchaninov vốn can đảm, ngay cả khi không có ai chứng kiến, đôi khi ông cũng xem thường hiểm nguy đến độ liều lĩnh chỉ để thỏa mản độc nhất ý thích riêng tư mà thôi. Nhưng giờ đây lại khác; là người mang bệnh ưu uất, lối rày lại hay lo lắng và mau nước mắt nên ông hoàn toàn thay đổi : ông không còn là ông trước kia nữa. Một chuỗi cười nôn nóng và im lặng lay chuyển lồng ngực ông. Xuyên qua cánh cửa đóng kín, ông đoán ra từng cử động của người khách lạ. ‘‘ À ! Nó đang đi lên đó! Nó đã đến rồi đây, nó cúi mình xuống nghe ngóng trong cầu thang, nó vừa thở vừa lén lút bước tới... À! Nó đã nắm nắm cửa, nó kéo, nó thử ! Nó hy vọng là cửa không đóng ! Nó biết là đôi khi mình quên khóa cửa mà ! Nó lại kéo cửa lần nữa ! Nó nghĩ là then cài sẽ gãy? Thật là đáng tiếc nếu bỏ về tay không? Thật ra, mọi việc đều đã xảy ra như ông miêu tả : có một người nào đó đứng sau cánh cửa, nhẹ nhàng thử ổ khóa, không một tiếng động, và kéo cánh cửa. ‘‘Hiển nhiên là hắn ta có một mục đích nào đây’’. Nhưng Veltchaninov đã có sẵn giải pháp? ông phấn khởi chờ đợi cơ hội thuận tiện, ông chuẩn bị chu đáo, ông thu người đợi chờ : một ước muốn khó lay chuyển là đột nhiên mình tháo cái then cài, mở toang tức thì cánh cửa và chạm mặt ‘‘ông kẹ’’ kia với câu hỏi : ‘‘Làm gì ở đây vậy, kính thưa Ngài?’’ Đó là những gì sẽ xảy ra: chọn đúng lúc, ông mở then cài, tông cửa ra và thiếu chút nữa là đụng nhằm cái ông đội nón quấn băng tang.