Chương bảy
Otto xuất hiện tại nhà Arthur khoảng một tuần sau đó, râu tóc lởm chởm và đói khát. Họ thả cậu ta hôm trước. Khi tới căn hộ tối hôm ấy, tôi thấy cậu ta và Arthur ngồi ở phòng ăn, vừa chén một bữa tối thịnh soạn.
“Thế họ đã cho ông ăn gì vào Chủ nhật?” Cậu ta đang hỏi Arthur khi tôi bước vào. “Chúng tôi có món súp đậu thả một cái xúc xích. Cũng không tệ lắm.”
“Để tôi xem đã,” Arthur nhớ lại. “Tôi sợ là chẳng thể nhớ được gì. Dù gì thì tôi cũng chả thiết ăn lắm… A, William thân mến, cậu đây rồi! Cậu ngồi đi. Thật là, nếu cậu không ngại ngồi cùng hai cựu tù nhân. Otto và tôi đang trao đổi đôi chút.”
Một ngày trước hôm Arthur và tôi tới Alexanderplatz, Otto và Anni đã cãi nhau. Otto muốn đưa mười lăm phen-ních cho người đi quyên quỹ đình công cho I.A.H. Anni không tán thành việc này, “trên nguyên tắc”.
“Tại sao đám cánh tả bẩn thỉu kia lại được nhận tiền của tôi?” Cô ấy nói. “Tôi đã phải làm việc vất vả để kiếm tiền.” Đại từ sở hữu kia thách thức vị thế và quyền lợi của Otto; cậu ta rộng lượng bỏ qua. Nhưng tính từ kia đã thực sự khiến cậu ta sốc. Cậu đã tát cô, “không mạnh lắm,” cậu ta trấn an chúng tôi, nhưng đủ lực để khiến cô làm một cú nhào lộn trên giường và hạ cánh đập đầu vào tường; cú va chạm này đã làm một bức ảnh Stalin được lồng khung rơi xuống đất vỡ tan kính. Anni bắt đầu nguyền rủa cậu ta và khóc lóc. “Nó sẽ dạy cô không được mở miệng nói về những thứ cô không hiểu,” Otto đã quát lại cô như thế, không khoan nhượng. Đảng phái luôn là đề tài nhạy cảm giữa hai người bọn họ. “Tôi phát ốm vì anh rồi,” Anni khóc, “và cả cái đám Mặt trận Đỏ say máu của anh nữa. Cút ra khỏi đây!” Cô đã ném khung ảnh vào người cậu ta nhưng bị trượt.
Nghĩ lại toàn bộ việc này một cách thấu đáo, tại quán rượu gần đó, Otto đã đi tới kết luận rằng mình là bên bị hại. Đau đớn và giận dữ, cậu ta bắt đầu nốc Korn*. Cậu nốc rất nhiều. Đến tận 9 giờ tối cậu vẫn đang nốc thì cậu bé tên Erich bán bánh bích quy mà cậu quen bước vào. Erich, cầm giỏ, đi vòng vòng quanh các tiệm cà phê và nhà hàng trong cả quận, chuyển tin và nghe ngóng. Cậu ta nói với Otto rằng cậu đã nhìn thấy Anni trong quán rượu của Đảng Quốc xã trên phố Kreuzberg, với Werner Baldow.
Werner là kẻ thù cũ của Otto, về cả chính trị lẫn chuyện riêng tư. Một năm trước, tên này đã rời bỏ chi bộ Đảng Cộng sản của Otto và gia nhập đội quân Đảng Quốc xã địa phương. Gã lúc nào cũng ngọt ngào với Anni. Otto, lúc này khá say, đã làm một việc mà ngay cả lúc tỉnh cậu ta cũng sẽ không bao giờ dám làm; cậu ta nhảy dựng lên và lao thẳng tới quán rượu của Đảng Quốc xã kia một mình. Hai cảnh sát tình cờ đi qua chỗ đó một vài phút sau khi cậu ta vào quán có lẽ đã cứu cậu khỏi cảnh bị tan xương. Cậu ta bị quăng ra ngoài lần thứ hai và vẫn muốn xông vào tiếp. Cảnh sát đã phải rất khó nhọc để lôi cậu ta đi; cậu ta cắn xé rồi đấm đá suốt trên đường tới đồn. Đương nhiên đám Đảng Quốc xã cảm thấy bị tổn hại thanh danh. Sự cố này được đưa lên báo của họ ngày hôm sau, đề “một vụ tấn công hèn hạ và vô nghĩa nhằm vào một quán rượu Quốc xã của mười tên Cộng sản được vũ trang, chín tên đã trốn thoát.” Otto kẹp mẩu báo ấy trong cuốn sổ bỏ túi và tự hào khoe với chúng tôi. Cậu ta đã không tiếp cận được Werner. Werner đã thoái lui cùng Anni vào hậu phòng ngay khi cậu ta tới.
“Hắn có thể giữ cô ả, con khốn bẩn thỉu,” Otto nói thêm giận dữ. “Tôi sẽ không thèm chứa chấp ả ta cho dù ả có quỳ gối xin tôi đi chăng nữa.”
“Rồi, rồi,” Arthur bắt đầu lầm bầm vô thức, “chúng ta đang sống trong thời kì đảo điên…”
Ông đột nhiên đứng phắt dậy. Có gì đó không ổn. Mắt ông đảo quanh lo lắng trên khay để đĩa, giống như tay diễn viên không có lời nhắc thoại. Không có bình trà trên bàn.
Không lâu sau đó, Arthur gọi điện cho tôi nói rằng Otto và Anni đã làm lành.
“Tôi cảm thấy chắc chắn cậu sẽ vui khi nghe tin này. Có thể nói là cũng có chút công lao của tôi trong đấy. Vâng… Những nhà hòa giải được ban phúc lành… Thực ra, ngay lúc này tôi đang đặc biệt muốn tác động tới một cuộc hòa giải, một buổi kỉ niệm nho nhỏ vào thứ Tư tới… Cậu không biết à? Đúng thế, tôi sắp tròn năm mươi ba. Cảm ơn cậu, chàng trai thân mến. Cảm ơn. Tôi phải thú nhận là bản thân thấy khó có thể quen được với ý nghĩ mình giờ đã là chiếc lá vàng… Giờ thì, tôi mời cậu tới một bữa tiệc tối đạm bạc được không? Cũng sẽ có đại diện chị em nữa. Ngoài cặp đôi vừa tái hợp kia, sẽ có Madame Olga và hai người quen khác của tôi, còn bí hiểm và duyên dáng hơn nữa kìa. Tôi sẽ cho dọn thảm ở phòng khách đi, để mấy người trẻ tuổi có thể nhảy. Thế có được không?”
“Thực sự rất được.”
Vào tối thứ Tư tôi phải dạy một lớp đột xuất nên đến nhà Arthur muộn hơn dự định. Tôi thấy Hermann đang đợi dưới tầng ở cửa ra vào để mở cửa cho tôi.
“Tôi rất xin lỗi,” tôi nói. “Hi vọng là anh không phải đứng đây lâu?”
“Không sao,” Hermann đáp cụt lủn. Anh ta mở cửa và dẫn tôi lên gác. Quả là một sinh vật u ám, tôi nói. Anh ta còn chẳng thể tươi tỉnh vì một bữa sinh nhật.
Tôi thấy Arthur đang ở phòng khách. Ông đang tựa người trên ghế xô-pha, vận một chiếc áo sơ mi, đôi bàn tay nắm lại đặt trong lòng.
“Cậu đây rồi, William.”
“Arthur, tôi vô cùng xin lỗi. Tôi đã cố gắng nhanh hết mức có thể. Tôi tưởng mình còn không thể đến được. Bà cô già mà tôi vẫn kể với ông đột nhiên tới và cứ khăng khăng học hai tiếng. Bà ấy đơn thuần chỉ muốn kể chuyện con gái bà ấy dạo này hư đốn thế nào. Tôi nghĩ là bà ấy sẽ nói không ngừng… Sao thế, có chuyện gì vậy? Trông ông không khỏe.”
Arthur buồn bã gãi cằm.
“Tôi buồn lắm, chàng trai thân mến.”
“Nhưng vì sao? về chuyện gì?… Các vị khách khác đâu rồi? Họ chưa tới sao?”
“Họ tới rồi. Nhưng tôi đã nói họ về.”
“Rồi, ông ốm ư?”
“Không, William ơi. Không ốm. Tôi sợ là mình đang già. Tôi luôn ghét cảnh cãi cọ và giờ thì tôi thấy không chịu nổi nữa.”
“Ai cãi cọ chứ?”
Arthur chậm rãi nhấc mình khỏi ghế. Tôi đột nhiên thoáng thấy hình ảnh của ông trong hai mươi năm tới; run rẩy và khá thảm hại.
“Chuyện dài lắm, William. Chúng ta kiếm chút gì ăn trước nhỉ? Tôi sợ là tôi chỉ đãi được cậu món trứng bác và bia thôi; nếu thực còn bia.”
“Không có cũng không sao cả. Tôi mang quà cho ông đây.”
“Chàng trai của tôi, cậu làm tôi xúc động quá. Cậu không phải thế đâu, cậu biết mà. Thực sự không nên thế. Cậu có chắc là mình xoay xở được không?”
“Ồ, có chứ, đơn giản thôi. Dạo này tôi đang tiết kiệm được kha khá.”
Arthur lắc đầu buồn bã. “Tôi lúc nào cũng coi khả năng tiết kiệm được tiền là phép màu.”
Bước chân của chúng tôi vang vọng khắp căn hộ khi chúng tôi bước qua các tấm ván trần trước đó được trải thảm.
“Tất cả đã được chuẩn bị xong xuôi cho buổi tiệc, vậy mà bóng ma lại tới ám,” Arthur húng hắng lo lắng, xát hai tay vào nhau.
“A, nhưng Quỷ hiện hình, dấu hiệu lặng câm. Ngón tay ra dấu dụ tôi từ bỏ. Bằng hữu, chuyện trò, và rượu. Những bài ca, và tia sáng vui tươi!*”
“Khá là hợp đấy, tôi nghĩ. Tôi hi vọng là ông biết William Watson? Tôi luôn coi ông ấy là người vĩ đại nhất trong những nhà thơ hiện đại.”
Phòng ăn được chăng dây hoa giấy chuẩn bị cho bữa tiệc; đèn lồng Trung Quốc còn đang để trên bàn. Nhìn thấy những thứ này, Arthur lắc đầu.
“Chúng ta gỡ mấy thứ này xuống thôi nhỉ, William? Chúng sẽ khiến cậu rất buồn đúng không?”
“Tôi không nghĩ ra lý do vì sao chúng lại khiến tôi buồn,” tôi nói. “Ngược lại mới đúng. Sau rốt, dù chuyện gì xảy ra thì hôm nay vẫn là sinh nhật của ông mà.”
“Chậc, chậc. Có lẽ cậu đúng. Cậu lúc nào cũng thật triết lý. Cú đánh của số phận quả thực tàn nhẫn.”
Hermann u ám mang món trứng vào. Anh ta báo lại, có phần thỏa mãn cay nghiệt, rằng không có bơ.
“Không có bơ,” Arthur nhắc lại. “Không có bơ. Tư cách chủ nhà nhục nhã đến thế là cùng… Khi nhìn thấy tôi bây giờ, ai mà nghĩ được tôi đã từng mua vui cho cả đám thành viên hoàng tộc dưới mái nhà mình? Tối nay, tôi đã định bày biện hẳn một bữa tiệc thịnh soạn trước mắt cậu. Tôi sẽ không làm cậu chảy nước miếng bằng cách đọc lại thực đơn.”
“Tôi thấy món trứng rất ngon mà. Tôi chỉ buồn là ông phải cáo lỗi với khách thôi.”
“Tôi cũng thế, William ơi. Tôi cũng thế. Thật không may là không thể mời họ ở lại được. Tôi không nên mạo hiểm đối mặt với sự phật ý của Anni. Cô ấy đương nhiên là kì vọng một đại tiệc… Và gì thì gì, Hermann nói với tôi rằng trong nhà không còn đủ trứng.”
“Arthur, nói cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra.”
Ông mỉm cười trước vẻ mất kiên nhẫn của tôi, tận hưởng sự kì bí, như mọi lần. Cân nhắc, ông siết chặt cái cằm rúm ró trong các ngón tay.
“William ạ, cái câu chuyện có phần bẩn thỉu mà tôi sắp kể cho cậu là về tấm thảm phòng khách.”
“Mà ông gỡ ra để chuẩn bị cho việc nhảy?”
Arthur lắc đầu.
“Nó bị gỡ đi không phải cho việc nhảy, tôi rất tiếc phải nói vậy. Đó thuần túy chỉ là một cách nói bóng gió thôi. Tôi không có ý làm bản tính cảm thông của cậu phải khốn khổ.”
“Ý ông là ông đã bán nó?”
“Không phải bán, William. Cậu biết tôi rõ hơn thế mà. Tôi sẽ không bao giờ bán nếu tôi có thể cầm cố.”
“Tôi xin lỗi. Đó là một tấm thảm đẹp.”
“Quả là thế… Và đáng giá hơn rất nhiều so với hai trăm mác tôi nhận được. Nhưng thời buổi này không thể kì vọng quá nhiều… Chí ít, nó cũng sẽ trang trải được buổi ăn mừng nhỏ mà tôi đã lên kế hoạch. Thật không may,” lúc này Arthur liếc nhìn về phía cửa, “con mắt đại bàng, hay tôi nên nói là con mắt kền kền của Schmidt sáng lên khi nhìn thấy khoảng trống mà tấm thảm bỏ lại, và sự nhạy bén đáng sợ của gã đã gần như ngay lập tức gạt phăng lời giải thích rất đỗi có lý của tôi về sự biến mất của tấm thảm. Gã rất tàn nhẫn với tôi. Rất cứng rắn… Nói ngắn gọn lại là, cuối cuộc chất vấn khó chịu nhất giữa chúng tôi, tôi bị bỏ lại với tổng cộng bốn mác, bảy mươi lăm phen-ních. Hai mươi lăm phen-ních bất hạnh cuối cùng là do gã nghĩ lại. Gã muốn lấy thêm để mua vé xe buýt về nhà.”
“Gã thực sự lấy tiền của ông?”
“Đúng thế, đó là tiền của tôi, đúng không?” Arthur hăm hở nói, chớp lấy chút động viên vụn vặt. “Đó chính là những gì tôi nói với gã. Nhưng gã chỉ gào lên giận dữ.”
“Tôi chưa bao giờ nghe thấy chuyện tương tự. Tôi không hiểu vì sao ông không đuổi việc gã.”
“William à, tôi sẽ nói với cậu. Lý do rất đơn giản. Tôi nợ gã lương chín tháng rồi.”
“Vâng, tôi cũng đoán việc tương tự. Nhưng dù thế nào, đó không phải là lý do ông chấp nhận để bản thân bị la mắng. Tôi sẽ không đời nào chịu thế.”
“À, chàng trai thân mến của tôi, cậu lúc nào cũng thật cứng rắn. Tôi chỉ ước giá như tôi có cậu ở đó bảo vệ tôi. Tôi cảm thấy chắc chắn cậu sẽ có thể xử lý gã. Mặc dù tôi phải nói là,” Arthur ngần ngại nói thêm, “Schmidt cũng có thể rất rắn nếu gã muốn.”
“Nhưng Arthur, ông thực sự có ý định tiêu hai trăm mác cho một bữa tối bảy người ư? Tôi chưa bao giờ nghe thấy chuyện nào không tưởng như vậy.”
“Còn có chút quà nữa,” Arthur dè dặt nói. “Một thứ gì đó cho mỗi người các cậu.”
“Dĩ nhiên như thế quả là đáng quý… Nhưng xa hoa quá… Ông đang khó khăn đến độ chỉ có trứng để ăn, vậy mà khi ông có chút tiền, ông lại đốt ngay tắp lự.”
“Cậu đừng bắt đầu giảng đạo cho tôi đi mà, William, không là tôi sẽ khóc mất. Tôi thường hay yếu lòng. Cuộc đời thực sự sẽ buồn tẻ lắm nếu chúng ta không thi thoảng tự thưởng cho bản thân.”
“Được rồi,” tôi bật cười. “Tôi sẽ không thuyết giảng nữa. Ở vị trí của ông, có lẽ tôi cũng làm giống thế.”
Sau bữa tối, khi chúng tôi quay về phòng khách trống trải với rượu cognac, tôi hỏi Arthur rằng ông gần đây có gặp Bayer không. Sự thay đổi trên gương mặt ông khi tôi nhắc tới cái tên ấy khiến tôi sửng sốt. Khuôn miệng của ông trĩu xuống khổ sở. Tránh ánh nhìn của tôi, ông nhíu mày và đột ngột lắc đầu.
“Tôi không thường tới đó nữa, và cũng chẳng giúp được gì nhiều.”
“Vì sao?”
Tôi hiếm khi thấy ông như thế. Thực sự, ông có vẻ khó chịu với tôi vì đã hỏi câu hỏi ấy. Ông im lặng hồi lâu. Rồi mở miệng, hờn dỗi kiểu trẻ con: “Tôi không đến đó vì tôi không thích thôi. Vì đến đó làm tôi khó chịu. Sự lộn xộn trong cái văn phòng ấy thật kinh khủng. Nó khiến tôi trầm cảm. Một con người lý trí như tôi thấy bị tổn thương khi phải chứng kiến toàn bộ sự thiếu ngăn nắp ấy… Cậu có biết là hôm nọ Bayer lạc mất một tài liệu rất quan trọng, và cậu đoán là nó được tìm thấy ở đâu nào? Trong sọt rác. Thực sự thì… nghĩ tới việc lương của mấy người đó được trả từ những khoản dành dụm một nắng hai sương của giới công nhân. Nó khiến người ta sôi máu… Và dĩ nhiên, nơi đó đầy rẫy mật thám. Bayer thậm chí còn biết cả tên bọn chúng… Vậy mà anh ta đã làm gì? Chả gì cả. Hoàn toàn không làm gì cả. Anh ta thậm chí có khi còn chẳng quan tâm. Điều đó khiến tôi tức điên; cái kiểu làm việc vô tư ấy. Ôi chao, ở Nga, họ cứ thế bị bắt đứng dựa tường và ăn đạn đấy.”
Tôi nhe răng cười. Arthur khi làm một nhà cách mạng dân quân lại phong độ tới mức khó tin.
“Ông đã từng ngưỡng mộ anh ta rất nhiều.”
“Ồ, anh ta là một người có năng lực, theo cách của anh ta. Không có gì phải bàn về chuyện đó.” Arthur kín đáo gãi cằm. Răng ông nhe ra, cằn nhằn như con sư tử già. “Tôi rất thất vọng về Bayer,” ông nói thêm.
“Thật sao?”
“Vâng.” Chút cảnh giác cuối cùng rõ ràng đang ghìm ông lại. Nhưng không. Cám dỗ quá mãnh liệt: “William này, nếu tôi nói cho cậu điều này thì cậu phải thề độc là sẽ không nói ra nhé.”
“Tôi hứa.”
“Tốt lắm. Khi tôi đánh liều gia nhập phe cánh tả, hay đúng hơn là, hứa sẽ giúp đỡ tổ chức (có ai lại không thấy thế cơ chứ, tôi ở vào vị trí có thể hỗ trợ họ nhiều lãnh vực mà tới giờ họ vẫn không tiếp cận được)…”
“Tôi chắc chắn là thế.”
“Một cách tự nhiên, tôi yêu cầu (tôi nên nói thế nào nhỉ?) - hãy nói là - tiền trao cháo múc.” Arthur ngưng lời và lo lắng liếc nhìn tôi. “Tôi hi vọng là, William, điều đó không khiến cậu sốc chứ?”
“Không một chút nào.”
“Tôi rất mừng đấy. Tôi cũng biết là cậu sẽ suy xét chuyện này một cách đúng đắn… Suy cho cùng thì người ta là công dân toàn cầu. Cờ quạt, biểu ngữ, khẩu hiệu là quá đủ cho đám đông đi theo, nhưng những thủ lĩnh thì biết một chiến dịch chính trị không thể thực hiện mà không có tiền. Tôi đã nói việc này với Bayer khi tôi đang cân nhắc có nên liều hay không, và tôi phải nói là, anh ta rất tỉnh táo. Anh ta đã nhận ra rằng, dạng như tôi, nợ nần chồng chất năm ngàn bảng…”
“Lạy Chúa tôi, nhiều như vậy sao?”
“Đúng thế, tôi rất tiếc. Dĩ nhiên, không phải tất cả các khoản nợ đều gấp gáp… Tôi đang nói tới đâu rồi ý nhỉ? À. Chúa Chổm như tôi thì khó mà có thể ở vào vị trí phụng sự được gì nhiều cho Sự nghiệp. Cậu cũng tự biết đấy, tôi luôn phải chịu bôi tro trát trấu.”
“Và Bayer đã đồng ý trả một vài khoản ư?”
“Cậu luôn thẳng thừng, William ạ. Đúng thế, tôi có thể nói là anh ta úp mở, gần như lộ liễu, rằng Moscow sẽ không bạc nghĩa nếu tôi thành công nhiệm vụ đầu tiên. Tôi đã làm thế. Bayer là người đầu tiên thừa nhận việc đó. Và chuyện gì đã xảy ra? Chả có gì cả. Dĩ nhiên, tôi biết không phải hoàn toàn là lỗi của anh ta. Lương của chính anh ta, lương cho mấy người đánh máy và nhân viên bàn giấy ở văn phòng còn trễ vài tháng nữa là. Nhưng vẫn khó chịu ấy. Và tôi không thể ngăn nổi cái suy nghĩ rằng anh ta không hề coi trọng lời của tôi. Anh ta thậm chí có vẻ còn coi nó buồn cười khi tôi đến gặp anh ta và than phiền là tôi chẳng có đủ tiền đi chợ… Cậu có biết là tôi vẫn còn bị nợ khoản chi cho chuyến đi tới Paris không? Tôi đã phải tự móc tiền túi của mình ra để trả, mà cứ nghiễm nhiên tưởng là được đài thọ, tôi đi hạng nhất đấy.”
“Tội nghiệp Arthur!” Tôi cố nhưng không nhịn được cười. “Thế giờ ông định làm gì? Có bất cứ hi vọng nào cho khoản tiền này không?”
“Tôi nghĩ là không,” Arthur u ám nói.
“Này, tôi sẽ cho ông vay một ít. Tôi có mười mác.”
“Không, cảm ơn cậu, William. Tôi cảm kích trước tâm ý của cậu nhưng tôi không thể vay cậu được. Tôi thấy nó sẽ làm hỏng đi tình bằng hữu đẹp đẽ của chúng ta. Không, tôi nên đợi thêm hai ngày nữa; sau đó tôi sẽ tính tiếp. Và nếu những bước tính ấy không thành công thì tôi sẽ biết phải làm gì.”
“Ông rất bí ẩn.” Trong tích tắc, trong đầu tôi thậm chí thoáng qua ý nghĩ Arthur có thể định tự tử. Nhưng chính ý tưởng ông tự sát lại nực cười tới mức nó khiến tôi mỉm cười. “Tôi hi vọng là mọi việc sẽ tốt đẹp,” tôi nói thêm khi chúng tôi chia tay.
“Tôi cũng thế, William thân mến. Tôi cũng hy vọng thế.” Arthur cẩn trọng liếc xuống cầu thang. “Hãy chuyển lời hỏi thăm của tôi tới nữ thần Schroeder.”
“Ông thực sự phải tới thăm chúng tôi sớm nhé. Đã lâu quá rồi ông không qua chơi. Bà ấy đang khó ở vì không thấy ông đấy.”
“Vô cùng hân hạnh, khi tất thảy những vấn đề này được giải quyết xong. Cũng chả biết có giải quyết được không nữa.” Arthur thở dài thườn thượt. “Chúc ngủ ngon, chàng trai thân mến. Chúa phù hộ cho cậu.”