Chương 12 Thiên đường để chết
1 || Du mục
Rất có thể bạn sẽ chẳng tán đồng, nhưng dù sao, tôi vẫn cứ tin rằng đôi khi những biến cố lớn, những sự kiện đáng nhớ trong đời lại có khởi nguồn hoặc đến với chúng ta một cách hết sức ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên, tôi đến với nghề báo. Ngẫu nhiên, tôi gắn công việc và thời gian của mình với những chuyến đi… Những lúc một mình với chiếc xe gắn máy cà tàng rong ruổi qua từng miền đất lạ của rẻo đất cong cong hình chữ S, tôi thường cảm thấy lòng dội lên một cảm giác lâng lâng khó tả.
Lâu dần thành quen, công việc đã vô tình biến tôi thành một tín đồ của chủ nghĩa xê dịch, luôn phải đi và muốn đi. Thú vị là ở chỗ, những lúc rong ruổi đường xa, tôi lại có cơ hội để gặp lại tuổi thơ trong những cơn mơ mòng hiệp khách, chủ yếu hình thành từ những trang sách ngấu nghiến đọc trộm và đam mê khám phá.
Cũng ngẫu nhiên như thế, năm 1997, cái địa danh “bãi vàng Phước Sơn” đã tình cờ lọt vào tai tôi và nằm lại đó như một bí ẩn nhiều sức hút. Năm ấy, mưa lũ không lớn lắm. Nhưng ở một xứ sở mà cơ sở hạ tầng còn yếu kém như đất nước thân yêu của chúng ta thì không cần lớn, thiên tai cũng dư sức gây đại họa. Riêng tại Quảng Nam, với trận lụt “không lớn lắm” năm ấy, toàn tỉnh đã có “97 người chết và mất tích”. Thật ra, “chết” với “mất tích” cần phải được hiểu chẳng qua cũng chỉ là một! Trước cơn rùng mình, nổi gai ốc của tôi, Thiếu tá Nguyễn Đức Thành, Phó phòng PX15 Công an tỉnh đã cay đắng bổ sung:
– Đó là chưa kể những người đã bỏ mạng tại bãi vàng Phước Sơn đấy. Dân đào vàng toàn người tứ xứ, sợ luật pháp nên không ai trình, ai báo. Dù cố gắng mấy, ngành công an cũng không thể thống kê chính xác được. Chỉ riêng bãi Nguyễn Văn Ngọc đã có 21 người chết. Tỉnh phải đem máy xúc lên đào suốt cả tuần mới lấy được xác các nạn nhân!
Biên độ chệch chuẩn quá lớn giữa các con số của báo cáo quan liêu và thực tiễn sống động đã khiến thói quen phân tích cố hữu của gã nhà báo là tôi mường tượng ra một đời sống khốc liệt, khốn khổ và đang bị lãng quên ở vùng vàng. Đối với nghề cầm bút, đó là một đề tài có sức hấp dẫn ghê gớm.
Cho đến lúc đó, thông tin mà tôi có đựơc về “miền đất hứa của những kẻ liều” vẫn không có gì nhiều hơn đôi dòng vắn tắt: Phước Sơn là một huyện miền núi phía Tây Quảng Nam, giáp Lào và tỉnh Kon Tum. Cả huyện có 18.000 dân. Thời chống Mỹ, đó là căn cứ của Cách mạng, nhiều trận đánh ác liệt tốn nhiều xương máu đôi bên đã nổ ra, hình thành nên những địa danh huyền thoại đã đi vào văn chương, sách vở: cao điểm E, Sân bay Hiệp Đức, ngầm Phước Mỹ, cầu Đắc Xà Ê… v.v. Nếu chỉ với từng đó thôi, Phước Sơn cũng đã đủ cuốn hút tôi với bao nhiêu nỗi tò mò. Nhưng hơn thế nữa, cho dù khuôn mặt đen đúa, không đáng được gọi là thư sinh, cũng không thuộc vào tuýp người cao quí luôn tin chắc rằng mình có một tâm hồn lãng mạn thì từ hơn 10 năm trước, tôi cũng đã trót phải lòng mấy câu thơ của Trinh Đường:
Sông Phước Mỹ đổ xuống nguồn Vu Gia
Anh biết đổ vào đâu quanh năm nước lũ
Xã Phước Mỹ giáp Gia Lai - Kon Tum
Anh giáp với ai trong mang mang hoàn vũ
Quá xã Phước Thành đến huyện Trà My
Quá lòng anh đến đâu xa xứ
Núi Xuân Mãi vươn lên thì gặp trời
Anh vươn lên e cháy đầu nắng lửa
Phước Sơn có vàng có quế có trầm hương
Anh chỉ có một bài thơ viết dở…
(Bài thơ nhờ độc giả huyện Phước Sơn đặt đề)
Hai mươi bảy tuổi, đã qua lâu rồi cái thời sách vở, trong tôi không còn mơ mộng những chuyện phiêu lưu hão huyền, nhưng niềm đam mê kỳ lạ về những vùng đất xa xôi, những điều lạ lẫm thì vẫn còn nguyên vẹn. Ngay lập tức, cái địa danh Phước Sơn xa lạ kia trở thành nơi mà tôi tự nhủ lòng rằng phải đi, phải đến và phải thấy.
Hùng, một tài xế có “tay lái lụa” ở Công an Quảng Nam bảo tôi:
– Nếu muốn, sắp xếp thời gian lên đây tôi chở ông đi. Vùng đó, tôi rành như lòng bàn tay. Còn tính đi xe máy thì quên đi. Khổ không qua nổi đâu. Tôi cam đoan bãi vàng Phước Sơn không hề giống bất cứ nơi nào mà ông từng biết.
Tôi không trả lời Hùng. Ở cơ quan hoặc đôi lúc ngồi giữa bạn bè thân, loại người như tôi vẫn thường được những người xung quanh xem là điên. Tôi cũng chẳng thấy cần phải thanh minh, bởi thằng điên nào cũng có cái lý riêng của nó. Bạn bè, đồng nghiệp và những người thân của tôi, tất thảy đều tử tế, đáng kính và cẩn thận. Họ không tài nào hiểu nổi cái lý giản đơn là những khó khăn, vất vả, thậm chí nguy hiểm nữa, mới chính là ma túy của những kẻ ưa xê dịch. Thiếu nó, cuộc sống của những kẻ mang máu ngẫu hứng, “rồ dại” như tôi xem ra chỉ đáng bỏ đi.
Thế nhưng, cũng phải hai năm sau đó, tôi mới có cơ hội biến dự định của mình thành hiện thực. Lại hoàn toàn là quyết định ngẫu nhiên bởi thật ra, trong kế hoạch ban đầu, nơi tôi sẽ đến không phải là bãi vàng Phước Sơn mà là bãi đá saphire Trường Xuân ở Đắc Nông, Đắk Lắk, cách thị trấn Gia Nghĩa 29km.
Ngày 14.5.1999, mưa tầm tã, tôi vượt một lèo 250 km từ Sài Gòn lên đến Gia Nghĩa. Thuyết phục, năn nỉ mãi các anh công an huyện Gia Nghĩa vẫn dứt khoát không dẫn đường, cũng không cho phép tôi bén mảng vào bãi đá quí. Lý do đơn giản: nguy hiểm. Bãi đá saphire Trường Xuân từng được mệnh danh là một “Texas City ở Việt Nam”. Trong bãi tập trung hầu như không thiếu thứ gì các loại tệ nạn xã hội. Cư dân của bãi đá này (khoảng hơn 1.000 người) chỉ gồm hai loại: những tên đầu trộm đuôi cướp trốn lệnh truy nã và những con nghiện oặt xà lai, thiếu sức sống nhưng thừa máu liều… Không còn cách nào khác, tôi quyết định gửi đồ đạc lại công an huyện và bắt xe ôm một mình thâm nhập vào bãi đá. Để tăng cảm giác tự tin, tôi nhét vào trước bụng một khẩu rulô có 5 viên đạn hơi cay và hơi ngạt, thứ công cụ hỗ trợ “làm dáng là chính” được cơ quan cho phép mang theo (có giấy phép) trong những chuyến công tác đường dài.
Không người dẫn đường, không quen biết ai, cũng chưa định… gặp tai nạn, tôi không thể mạo hiểm đột thẳng vào khu vực lán trại của dân đào đãi đá dựng lên xung quanh hai bờ suối Đăk Tol nằm kẹt giữa những ngọn đồi. Để nâng tầm quan sát, tôi quyết định rúc lên rừng le mọc kín quanh ngọn đồi phía Tây Bắc con suối. Chỉ cần có một chút xíu kinh nghiệm đường rừng, bạn đọc cũng đã có thể hình dung ra tôi đã phạm những hai sai lầm một lúc. Thứ nhất: chỉ có những kẻ thiếu hiểu biết mới công không đi rừng vào mùa mưa. Thứ hai, lớp lá mục của rừng le chính là “thiên đường” của các loài vắt, con nào con nấy to nần nẫn như ngón tay cái. Tiếng bước chân đạp lên cành khô, lá mục của tôi đã khiến lũ vắt đang “ngủ say” thức giấc. Chúng “nhổm” lên và búng đi nghe rào rào…
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hay gọi là “có duyên nghề nghiệp” thì cũng thế. Thiếu kinh nghiệm thậm chí có gọi là dốt nát đi chăng nữa cũng chưa chắc đã là quá tệ. Khi bò lên hết đỉnh đồi có rừng le, tầm mắt đủ quan sát mọi động tĩnh của vũng bãi đá, tôi chợt phát hiện ra có 4, 5 người mặc quần áo như dân lao động cũng đang lui cui chui rúc trong rừng le như tôi. Lúc này, tôi mới chợt nhớ ra: ở trước dãy nhà nát là lán trại của Xí nghiệp đá quí Đắk Lắk dựng gần bãi khai thác, tôi có trông thấy một chiếc xe Uoát mang biển số trắng 29L…, có lẽ chiếc xe đó là của những người đang lui cui phía cuối đồi le. Theo suy đoán, tôi nghĩ rằng họ đang tìm cách phát rừng, tìm đất để làm rẫy cà phê. Vào thời điểm đó, phá rừng làm rẫy càphê là phong trào đang rầm rộ ở Đắk Lắk. Nhưng, mất gần trọn buổi chiều bí mật quan sát, tôi vẫn không hề thấy họ hạ một khúc cây, đốt một vạt rừng nào. Bị kích thích bởi sự ngạc nhiên, tôi quyết định mò đến tận nơi. Nếu họ cũng như tôi, đến bãi đá saphire mà không phải để đào đãi thì chắc là không có gì đe dọa, tôi nghĩ thế.
Nhưng, còn cách tốp người nọ cỡ 100m, tôi đã bị chặn lại bởi một tiếng quát:
– Đứng lại! Ông đi đâu?
Giật bắn mình, tôi thò tay vào báng súng và từ từ quay đầu lại. Và trợn mắt ngạc nhiên. Hùng, gã lái xe của công an Quảng Nam đang đứng đó há hốc mồm, y như tôi vậy (!).
– Ông đi đâu đây?
– Vậy anh đi đâu đây?
Thì ra, những người mà tôi ngỡ đi phá rừng trồng cà phê kia, không ai khác, chính là các cán bộ của Phòng Cảnh sát Điều tra Công an Quảng Nam. Họ đang mai phục để truy bắt những tên tội phạm nguy hiểm do tên Nguyễn Văn Thanh, tức Thanh “sứt” cầm đầu. Chúng đã gây hàng chục vụ cướp của hiếp dâm ở bãi vàng Phước Sơn, sau đó tắt rừng vọt sang Kon Tum rồi mò lên bãi saphire Trường Xuân trốn tránh. Vô tình, máu mạo hiểm đã đẩy tôi lọt vào giữa một cuộc truy kích. Cơ hội ngàn vàng, xin thề là có đuổi tôi cũng không đi! Bất đắc dĩ, Trung tá Huỳnh Đức Cường, Phó phòng Cảnh sát Điều tra Công an Quảng Nam, người chỉ huy cuộc truy kích đành phải chấp nhận cho tôi nhập bọn, đơn giản vì không thể để tôi rời ra, dễ lộ khiến đối tượng đánh hơi chạy mất.
Trong hai ngày sau đó, tôi đã theo chân các anh Cường, Trung, Dũng, Nhậm, Hùng… tiến hành đột kích xuống khu Bờ Suối hai lần, bắt giữ bảy kẻ tình nghi. Trong số đó, có bốn tên: Bắc phò, Tiên nghiện, Lanh và Thanh Hàng trắng là những tên cướp đào thoát từ bãi vàng, hiện đang bị truy nã. Riêng Thanh sứt, tên cầm đầu đã may mắn thoát vòng vây, với một khẩu K54 đầy đạn. Oái ăm ở chỗ, trên đường chạy, Thanh “sứt” đã vọt xuống phía dãy lán của xí nghiệp và cuống cuồng chui vào chiếc… U oát của những người Công an truy đuổi để… ăn trộm quần áo cải trang trước khi chạy mất. Tên Thanh “hàng trắng” cũng lao qua đầu những người truy kích tính lủi vào rừng le. Nhưng không kịp, chỉ thoáng nửa giây, khẩu súng trong tay Trung tá Huỳnh Đức Cường đã kịp vẩy theo. Viên đạn duy nhất thoát nòng găm vào bàng quang đã xô tên tội phạm ngã úp mặt xuống suối, đành phải tra tay vào còng và được đem đi cấp cứu.
Trong hai chuyến đột kích ấy, tôi, vì không phải cảnh sát điều tra, không có chuyên môn, nghiệp vụ nên được phân công “lao động giản đơn”, chỉ phải làm duy nhất một công việc nhẹ nhàng, đó là rút khẩu ru lô của mình ra và đứng canh không cho những tên cướp đã bị còng tay từng hai tên một chạy trốn. Dù vậy, cũng có thể xem như tôi đã “đồng cam cộng khổ”, cho nên cánh điều tra mặc nhiên coi tôi như một “phe ta”, chịu chơi và thân thiết. Dự định vào bãi vàng của tôi được Trung tá Cường và các trinh sát ủng hộ ngay. Cường hẹn:
– Đúng một tuần nữa gặp nhau ở bãi vàng. Chuyên án này (chuyên án CD99) mà xong, ông tha hồ tư liệu mà khai thác.
3 giờ chiều ngày 16.5.1999, tài xế Hùng phóng chiếc Uoát chở tên Thanh về Bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh rồi trở lại ngay. 2 giờ sáng, anh đã có mặt trở lại ở công an huyện Đắc Nông để sáng hôm sau đưa các cán bộ điều tra và những tên bị bắt theo quốc lộ 14, rẽ quốc lộ 26 rồi xuôi quốc lộ 1A về Quảng Nam. Tôi không đi theo họ mà tiếp tục ở lại Đắc Nông thêm một ngày để hoàn tất nốt phần việc của mình. Ngày hôm sau, chiếc xe máy của tôi đã dừng lại ở thị xã Plây Cu. Tôi quyết định nghỉ lại ở phố núi một đêm, kiểm tra xe cộ trước khi “một mình một ngựa” ngược đường 14 để thâm nhập vùng vàng.
Trước khi công trình đường Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn được khởi công, từ Quảng Nam đi lên Kon Tum xem như hoàn toàn không có đường. Để đến thị trấn Khâm Đức - thủ phủ của vùng vàng, dân đào vàng thường xuất phát từ TP. Đà Nẵng hoặc thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam), đi ngược lên. Đoạn này xa hơn - khoảng 200 km - nhưng còn có thể gọi là đường, còn có người qua lại, phòng khi bất trắc. Đoạn từ thị trấn Plei Cần (Ngọc Hồi, Kon Tum) xuống tuy chỉ dài 130 km nhưng hoàn toàn xuyên trong rừng già, lại bị chắn ngang liên tục bởi vô số những ngọn núi có cao độ không dưới 1.400m, hai bên đường hầu như không có dân cư.
Người khai sinh ra con đường độc đạo này không ai khác, chính là Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa thì đúng rồi, nhưng khổ nỗi ông ta lại là vị Tổng thống có năng lực cai trị của một quan thanh tra tản mạn. Xuất thân từ tầng lớp quan lại quan liêu, khi trở thành Tổng thống của cả một “quốc gia dân chủ”, ông Diệm vẫn mang nặng lối tư duy duy ý chí mà thiếu trầm trọng những năng lực chuyên môn. Để “cải thiện dân sinh”, năm 1957, Diệm đã hô hào dựng lên ở miền Nam hàng loạt khu trù mật, hàng loạt tỉnh tân lập. Năm sau, 1958, trong tham vọng “nối Cao nguyên với Duyên hải miền Trung”, ông ra lệnh cho xây dựng một tuyến đường độc đạo xuyên từ Tây sang Đông Trường Sơn, nối Kon Tum với Quảng Nam, bất chấp con đường đó phải xuyên qua vô số rặng núi đá hiểm trở của vùng Tây Trường Sơn trước khi đâm chéo sang hướng Đông Bắc - cũng hiểm trở không kém - đổ vào địa phận tỉnh Quảng Nam. Vào thời bình, với mục đích phát triển kinh tế, điều kiện thi công thuận lợi, rất có thể đây là một ý tưởng tốt và khả thi. Khổ nỗi, ông Diệm lại là một Tổng thống của thời chiến, chỉ quen cai trị bằng mệnh lệnh nhưng thiếu đầu óc bao quát và khả năng tư duy trừu tượng nên ông bất chấp. Theo lệnh của ông, cuối năm 1958, một đại đội công binh và hai đại đội Bảo an bảo vệ công trường đã được cắt ra, giao cho đại úy Trần Văn Kha chỉ huy kéo lên Kon Tum để xây dựng con đường này. Dù đã hết sức cố gắng đi kèm với hàng loạt phúc trình về điều kiện an ninh không bảo đảm, Trần Văn Kha vẫn không tài nào hoàn tất nổi nhiệm vụ được giao. Công tác thi công gần 200km đường qua một địa bàn toàn rừng rậm, núi cao và hầu như không có dân cư, làng mạc đã khiến cho hai đội Bảo an không thể bảo vệ nổi con đường trước những cuộc tập kích bất ngờ và liên tục của quân cách mạng. Ngày 21.10.1960, hàng loạt đồn bót, cứ điểm gồm Dakpet, Daksout, Dakse ở Kon Tum bị “Việt cộng tấn công ồ ạt và tràn ngập”, Ngô Đình Diệm phải gửi gấp ba tiểu đoàn dù của Nguyễn Chánh Thi lên cứu viện. Một tuần sau, ngày 28.10.1960, đại đội bảo an và đại đội công binh thi công cùng một loạt đồn bót bảo vệ công trường khác thuộc địa phận Quảng Nam lại bị tấn công, gây thiệt hại nặng nề: quân lực bị tiêu hao, phương tiện cơ giới bị phá hủy, đồn bót bị phá vỡ. Trước đó đúng hai tháng, sân bay Hiệp Đức và căn cứ bố phòng tại cao điểm (thị trấn Khâm Đức) cũng bị tấn công dữ dội, một máy bay bị bắn cháy, cao điểm E bị quân cách mạng chiếm giữ sáu tiếng đồng hồ liền, toàn bộ hệ thống bố phòng bị phá hủy, toàn bộ vũ khí bị tịch thu, trước khi quân tiếp viện kịp tiếp ứng và tái chiếm.
Làm chưa xong đoạn này, đoạn khác đã bị tấn công phá hoại, Trần Văn Kha không còn cách nào khác, đành viết báo cáo xin từ nhiệm. Đến năm 1962, công trình đường 14 “nối dài” của ông Diệm đành phải bỏ dở khi chưa thể hoàn thành.
15 năm chiến tranh sau đó, đoạn đường 14 này đích thực là một bãi chiến trường, ta và địch giành nhau từng mét một. Đó là cửa ngõ duy nhất tiến vào vùng Bắc Tây Nguyên, là hành lang cho những đoàn xe tăng, pháo binh quân giải phóng tiến đánh hàng loạt căn cứ Plei Me, Plei Cần, sân bay Phượng Hoàng, Đắk Tô, Tân Cảnh… từ đó thọc xuống Kon Tum và Gia Lai. Sau chiến dịch Hạ Lào năm 1971, mặt đường đã bị bom pháo cả hai bên giã nát. Gần 1/4 thế kỷ sau sau ngày giải phóng, đoạn đường độc đạo này hầu như bị lãng quên, không hề được tu sửa, không có ai qua lại, bởi quá nguy hiểm. Bằng máu phiêu lưu cá nhân, sau bốn thập kỷ, tôi đã có dịp dẫm chân lên con đường phiêu lưu chính trị của ông Ngô Đình Diệm!
Với những người giàu kinh nghiệm thì đây là con đường chỉ dành cho hai hạng người: những tên cướp từ bãi vàng tắt đường trốn sang Kon Tum hoặc những anh công an đang truy tìm bọn cướp. Khi quyết định chọn ngả “không thể vượt qua” được này, xuyên từ Tây sang Đông dãy Trường Sơn, để thâm nhập bãi vàng, tôi đã tự biến mình thành loại thứ ba, loại người thiếu kinh nghiệm trầm trọng. Đi là để biết, tôi không muốn chọn cho mình con đường dễ!
⚝ 2 ⚝ Xuyên Tây Trường Sơn8 giờ sáng ngày 18.5.1999, từ thị xã Plei Ku còn đúng 24 giờ đồng hồ nữa sẽ chính thức trở thành thành phố, tôi bắt đầu xuất phát. Ngoài chiếc xe Dream lùn làm phương tiện, tôi chỉ có duy nhất một “bạn đồng hành”: một tấm bản đồ đường sá (Nam) Việt Nam do hãng dầu nhớt ESSO ấn hành năm 1968.
Bản đồ có vẽ nghĩa là có đường. Có đường thì phải có người đi. Người ta đi được thì tôi đi được… Cái tam đoạn luận trình độ tiểu học ấy là niềm tin duy nhất để tôi dấn thân vào cuộc hành trình. Cứ nghĩ đến việc được đạp lên những đoạn đường thời chiến, lửa hăng hái đã cháy lên trong tôi ngùn ngụt. Đường vắng, nắng nhẹ, sau hai tiếng rưỡi, tôi đã vượt qua Kon Tum rồi Đắc Tô, Tân Cảnh, sân bay Phượng Hoàng… và có mặt ở thị trấn Plei Cần, cách Plei Cu đúng 150 km. Trước mặt tấm biển chỉ đường đã mờ nhưng vẫn còn đọc được, đề: Ngã ba biên giới - 18km. Đá chân chống xe, tôi níu áo một người đàn ông đang lùa bò qua đường hỏi một câu rất… oách:
– Bác ơi, sang Lào đi ngã nào?
Hỏi chỉ để mà hỏi, kỳ thực tôi không hề có ý định… vượt biên bằng xe máy.
Bên tay phải, con đường xuyên Tây Trường Sơn cũng đã hiện ra. Mặt đường không khác gì một dòng suối cạn, phủ đầy đá củ đậu, bị nước mưa bào mòn thành vô số hố rãnh khiến xe máy cứ chồm chồm nhảy từng bước vài mét một. Sau gần 20 km, khi tay lái đã mỏi nhừ, tôi gặp trục trặc đầu tiên: xì bánh sau. Nắng như đổ lửa. Hai bên đường là những bản làng dân tộc thưa thớt và heo hút, không hề có chỗ vá, lại không mang theo đồ nghề, tôi đành lặc lè dắt bộ lên dốc xuống đèo. Điều an ủi duy nhất là cảnh ven đường tuyệt đẹp. Ngay dưới chân tôi là sông Krông Pôcô, một dòng sông hẹp nhưng sâu và trong vắt, chảy cặp bên đường. Giá mà được vứt xe nhảy ùm xuống đó để gột sạch lớp bụi đường và làm dịu cái nắng cao nguyên đang thiêu đốt thì hay biết mấy. Nhưng không thể. Bờ sông là vách đá dựng đứng, sâu cách mặt đường từ 30 - 50 m.
Được hơn cây số, vị cứu tinh xuất hiện. Sau khi hoàn tất một miếng vá với giá 25.000 đồng, gã xe ôm vùng sơn cước tỏ ra áy náy bảo tôi:
– Không có đồ xơ-cua, đi đường rừng nguy hiểm lắm. Nếu anh cần, tôi tính giá hữu nghị: 100 ngàn cả hai thứ. Cái bơm tôi mới xài hai năm. Cái ruột (xe) cũng còn tốt chán, mới vá có… sáu lỗ.
Dĩ nhiên, các loại ruột mới vá có sáu lỗ mà vẫn còn tốt chán không phải là thứ nằm trong ý thích, cho nên tôi chỉ nhã nhặn cảm ơn và chuồn gấp để bảo vệ sự tồn tại cho 100 ngàn.
Hơn một giờ chiều, dừng ăn trưa tại Đak Glei - thị trấn cuối cùng của tỉnh Kon Tum - tôi gặp thêm người tử tế thứ hai. Hưởng, như lời tự giới thiệu, tay bưởng thứ thiệt vừa từ bãi vàng thôn 8, xã Phước Thành mò ra, nhìn tôi bằng ánh mắt thương hại của một kẻ từng trải:
– Quên chuyện vượt đèo Lò Xo bằng xe của ông đi. Thử tưởng tượng: Ông sẽ phải vượt 65km đường rừng với vô số đèo dốc và không hề gặp một bóng người. Chỉ một thân một mình, lỡ ra… Cứ nghỉ lại đây một đêm. Nếu muốn vào bãi, mai gửi xe lại, tôi đưa ông vào. Đi một mình như ông đừng hy vọng đến nơi, họa có khùng!
Không nên gọi người chưa quen là “khùng” bởi rất có thể bạn sẽ gặp một tay… khùng thật, lúc đó thì nguy lắm! Tuổi trẻ cao ngạo và dốt nát, tôi ném cho gã một cái nhìn khinh mạn:
– Tôi không có thói quen bỏ cuộc chỉ vì một lời khuyên xa lạ!
Với tôi, mối đe dọa trong trí tưởng tượng bao giờ cũng đáng sợ hơn nhiều so với những đe dọa gặp trong thực tế. Hưởng không tự ái, chỉ trả lại cho tôi nguyên vẹn cái nhếch mép:
– Được, ông cứ đi đi. Cam đoan chiều nay ta lại có dịp cùng ăn tối tại quán này! Nên nhớ, những kẻ ông gặp trên đường, không phải thằng nào cũng tử tế như tôi đâu.
Lại tiếp tục lên đường. Trời đang nắng đột nhiên tối sầm rồi mưa quất chéo mặt. Chỉ vài cây số, con đường đã mất hút giữa rừng già; dốc, cua chóng mặt và không một bóng người. Toàn đá, đá và đá. Được đôi đoạn đường đất thì lại trơn kinh khủng. Khẩu hơi cay giắt trước bụng, cả người lọt thỏm trong chiếc áo mưa rộng thùng thình của Báo ANTG, tôi gần như chồm người đè lên guidon để giữ tay lái, mặc kệ cho bánh xe sau cứ tuột quăng quật ra hai bên. Khoảng một giờ sau, khi vòng tránh một bãi lầy khổng lồ tôi mới thở phào: con đường có vẻ như rộng ra, dễ đi hơn. Quá tốt, tôi cứ cắm mặt cho xe vượt dốc. Cho đến khi một đống hoang tàn phủ rêu bỗng nhảy ra trước mặt, tôi mới ngớ ra: lạc đường. Nơi tôi đang đứng là… ngục Kon Tum. Lại lộn xuống dốc. Hóa ra, bãi lầy kinh khủng kia là ngã ba, đi thẳng là Quốc lộ 14 về Khâm Đức, còn rẽ phải là tỉnh lộ dẫn lên ngục Kon Tum!
Mất hơn 15 phút mới vượt hết bãi lầy bất trắc, tôi lại tiếp tục lóc cóc tiến sâu vào rừng già. Cách 10 m đã không nhìn thấy con đường. Rừng già giao tán phủ kín lối đi. Thỉnh thoảng bánh xe lại khựng lại vì vấp một cục đá to, hất tôi ngã nhào xuống mặt đường.
Trời vẫn mưa. Mưa Tây Trường Sơn không lớn lắm nhưng dai dẳng. Sau hơn chục lần té lên té xuống, tôi mới lần lên được đến đỉnh đèo Lò Xo. Mới bốn giờ chiều nhưng rừng đã sụp tối. Tịnh không bóng người, chỉ mây núi ken đặc luồn qua chân, phả vào mặt lành lạnh. Khuỷu tay, đầu gối đều trầy trụa và sưng vù, bùn ngập từ chân lên đến đầu khiến tôi cảm thấy cô đơn và chán nản ghê gớm. Nhưng tôi không thể quay lại. Sự lì lợm và cố chấp của tuổi trẻ sẽ khiến tôi điên mất, nếu quay lại để phải nhận nụ cười độ lượng và thương hại của gã đào vàng ở thị trấn Đak Glei. Lúc đó, tôi chỉ có một ao ước hết sức nhỏ nhoi là mình đang có mặt tại Sài Gòn, được mặc một bộ đồ khô ráo, rúc mình vào một quán càphê ấm áp nào đó với một ly đen không đường và mấy điệu tango dìu dặt…
Những thách thức vẫn chưa giãn ra. Mưa xói, đoạn đường bằng duy nhất trên đỉnh dốc bị núi lở chắn ngang bằng một bãi bùn khổng lồ. Vặn hết ga, tôi cho xe liều mạng vút qua. Hực một tiếng, người lao vọt qua guidon xe, tôi bị ném phịch xuống giữa bãi bùn. Bánh trước bị lút sâu trong bùn nên xe vẫn không ngả, bánh sau vẫn quay tít.
Nhấc bánh xe trước ấn xuống bùn để xe khỏi ngã, sau đó lại nhấc bánh xe sau… Thêm gần nửa giờ vật lộn bằng phương pháp “sâu đo” ấy tôi mới vượt qua được bãi lầy dài chừng hơn 100m. Đến lúc đó tôi mới cảm hết nỗi cô đơn, tuyệt vọng và nhỏ nhoi của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. Lại lên xe, nhưng đề, đạp cả buổi máy vẫn không nổ. Nổi khùng, tôi đá lung tung vào mây và hét toáng lên những câu tối nghĩa. Không ai trả lời. Chỉ có tiếng núi âm âm vọng lại. Vài con bìm bịp - cũng cô đơn như tôi - giật mình bay vút lên!
Có khóc chắc cũng chẳng ai nghe, tôi bất lực ngồi bệt mông xuống lòng đường nhão nhoét. Vì lẽ gì tôi lại phải ném mình vào bãi bùn trên đỉnh núi này? Can đảm thì chắc là không, vì lúc này lòng tôi chỉ chất đầy cảm giác lo lắng, chán nản. Vậy thì đam mê, liều lĩnh? Tôi không biết, chỉ chắc chắn một điều, tôi sẽ không có mặt ở đây, nếu không trót mang cái chức danh nhà báo. Công việc tạo ra mục đích, và với chức danh trót nhận, tôi tin là mình có thể đi đến tận cùng thế giới.
Nói như thế, rất có thể bạn sẽ cho rằng tôi thiếu khiêm tốn. Quả thật, ngoài một trái tim kiêu ngạo, tôi chẳng còn gì khác. Với những gì đã và sẽ gặp, tôi luôn tin chắc rằng khiêm tốn thật ra chỉ là đức của những kẻ thiếu tự tin! Có thể còn có một lý do khác nữa: Tôi đi vì một ánh mắt. Tại sao gã Đon Kihôtê điên rồ của xứ Mantra thì luôn có hình bóng một nàng Dulcinea để mang theo trong những chuyến lang thang mà tôi thì không nhỉ? Có điều, nàng Dulcinea của tôi chắc chắn không ở làng Toboso, cũng chẳng phải là “người muối thịt lợn” ngon nhất xứ. Nàng Dulcinea của tôi là một cô sinh viên đại học. Lần đầu tiên chìa bàn tay nhỏ nhắn và nóng ấm cho tôi nắm lấy, em mới 19 tuổi. Ngày tôi đi, em vẫn 19 tuổi. Năm tháng rồi sẽ trôi đi, nhưng tôi biết, nàng Dulcinea của tôi sẽ vĩnh viễn cứ 19 tuổi. Nhìn vào đôi mắt trong veo của em, tôi biết mình vẫn chưa đủ phong trần để đến bên em thay hoa làm quà tặng. Thế là tôi cứ đi, đi và đi… Khi ngồi bệt trên đỉnh Lò Xo, tôi chợt nghĩ về em, rất lâu, với một chút hối tiếc: tôi đã không hề nói với em một câu nào về chuyến hành trình sắp tới. Biết sao được. Tôi không muốn vì tôi, mắt em phải nhuốm màu lo lắng.
Có một điều phi lý: trong bản đồ của hãng ESSO, đỉnh Lò Xo cao 1448m. Nhưng sau này, ở một bản đồ khác mới xuất bản mà tôi tìm được ở thị xã Tam Kỳ, cao độ này lại tăng vọt, những 1.600m.
Đúng lúc rơi tõm vào tuyệt vọng, lòng tôi bỗng sáng lên: Trước mặt là một bãi… phân trâu đang bốc hơi nghi ngút trong mưa. Sự sống!… Nước mắt tôi trào ra, lòng tôi dội lên một cảm giác hạnh phúc và thân thiết. Ở đâu đó trong sách vở, có lẽ chẳng ai lại ngốc nghếch để lòng mình thổn thức vì một bãi phân trâu. Cũng phải thôi, các nhà văn đáng kính, họ có thừa trí tưởng tượng để viết, cần gì phải trèo lên đỉnh núi nên làm sao bắt họ cũng phải có cảm giác như tôi?
Và tôi đã đoán không lầm. Cách đỉnh Lò Xo chỉ hơn trăm thước có một bản người dân tộc Giẻ Triêng với hơn một chục nóc nhà heo hắt. Từ trong những túp lều thấp lè tè và tối nhờ nhờ, những người đàn ông đàn bà tóc bù xù, ngồi xổm gối chạm mang tai ngó tôi áo tơi sùm sụp lóc cóc lao xe qua bằng cái nhìn lạ lẫm, dừng lại hỏi gì họ cũng lắc đầu.
Tiếp tục cuộc hành trình, tôi cứ lầm lũi cho xe xuyên rừng, leo dốc. Trên đầu tôi, đường dây 500 KV sừng sững vắt qua điệp trùng rừng núi. Ở bản người Giẻ Triêng duy nhất ấy, không ai biết đường dây kia là gì cả. Người già không biết, người lớn cũng không. Chỉ có trí tưởng tượng của mấy đứa con nít lòi rốn là tỏ ra có hiểu biết! Chúng gọi đó là những… sợi dây buộc trời!
Khi tôi đổ dốc đèo Lò Xo thì buổi chiều sắp qua hết. Trời ngừng mưa và nắng bỗng ửng lên đợt cuối cùng. Những cánh rừng sũng nước thoắt trở nên vàng rộm, ngập tràn tiếng vượn hú trượt dài theo những tia nắng xiên khoai đang rưng rưng chực tắt. Cầu Đắk Chè hiện ra, đã vỡ mất hơn một nửa. Mặt cầu không hiểu sao lại nhuộm rực một màu vàng non như hoa cải. Khi bánh xe tôi lao qua, thảm hoa cải vàng đột ngột tung lên. Sau cú giật mình, tôi ngừng xe ngây người, lần đầu tiên được chiêm ngưỡng một vũ điệu rộn ràng với hàng vạn cánh bướm đang tung bay giữa lòng khe cạn.
Để vượt qua những chân dốc kinh hồn và khúc khuỷu, không còn cách nào hơn, tôi đành cho xe bò toàn số 1 và đạp phanh liên tục. Kết quả: kim đồng hồ xăng tụt rất nhanh, chắc chắn không đủ xăng để đi nốt đoạn đường còn lại. Để tiết kiệm xăng, tôi nảy ra sáng kiến: chỉ nổ máy khi leo dốc, còn lúc xuống sẽ tắt máy, và đạp phanh cho xe tự trôi. Trả giá ngay tức khắc: cả người lẫn xe lộn nhào ngay trong cú trượt dốc đầu tiên. Rừng núi Trường Sơn không dung những trò diễu cợt. Tôi nằm lăn giữa dốc, tự nhủ lòng: cùng lắm đành chấp nhận sẽ ngủ qua đêm giữa rừng. Lại lồm cồm bò dậy, lại đi. Khi trời tối hẳn thì giọt xăng cuối cùng bị đốt hết, tôi đành dắt bộ. Rừng tối như hũ nút. Hàng chục cú vấp vào đá khiến những ngón chân tôi tê dại, đau buốt óc. Vứt xe vào ta-luy dương, khóa cẩn thận, tôi quyết định đi bộ để tìm xăng. Nhưng, vừa vượt qua khúc cua, một thung lũng lưa thưa ánh điện đã hiện ra cách chỗ tôi đứng chỉ chừng 5, 6 km. Đoán chắc đó là thị trấn Khâm Đức, tôi bèn quay lại dắt xe đi tiếp. Sau đúng một giờ đồng hồ, cả người lẫn xe mới vượt thêm được đúng 1 km. Dưới chân cầu Đắc Xà Ê, những người dân đầu tiên tôi gặp ở vùng vàng tò mò nhìn gã khách lạ dắt xe vào điểm bán xăng như nhìn một kẻ đến từ hành tinh lạ. Còn tôi, quá mệt mỏi, cả người đau nhừ, đành phớt lờ tất cả, tiếp tục lên xe lết tới thủ phủ vùng vàng, cách đó chừng 4 km.
Tôi đến Khâm Đức lúc gần tám giờ đêm. Tính ra tôi đã vượt qua đoạn đường từ Đak Glei đến Khâm Đức dài 65km mất những hơn 5 giờ hồng hồ.
“Đúng là tốc độ tên lửa”, nhận xét của Thiếu tá Đào Quang - Phó Công an huyện về chuyến hành trình khiến tôi tin chắc ở Phước Sơn, tốc độ tên lửa chậm hơn nhiều so với các nơi khác, chỉ khoảng độ 13km/h!
⚝ 3 ⚝ Đường đến thiên đàngThị trấn Khâm Đức chỉ có 7.000 dân nhưng lại có tới hơn 100 hàng quán đủ loại, chủ yếu phục vụ các thượng đế vừa mò ra từ bãi vàng. Với một ít hiểu biết sơ khai do công an huyện cung cấp, tôi nhét vào túi một cục tiền và bắt đầu lân la hàng quán bắt chuyện với một số chủ bãi mới mò ra, chìa hẳn thẻ nhà báo cho họ xem và bắt đầu chơi bài “xì tố”. Tại quán nhậu kiêm nhà trọ của bác sĩ X., chủ bãi Nguyễn Văn Ngọc là người đầu tiên tôi tiếp xúc.
– Nghe nói bãi anh xài thuốc nổ dữ lắm, từng sập hầm chết hơn hai mươi người một lúc, đúng không?
Câu hỏi của tôi khiến Ngọc - đang chờ ngày ra tòa - giật nảy người:
– Ăn nhằm gì anh ơi, bãi tụi Vinh “tóc dài”, Dũng Lai, Quốc con… còn chơi bạo hơn nhiều…
Cứ thế, Ngọc kể cho tôi vanh vách những thông tin về các vụ phạm pháp của các hầm, bãi khác. Với những thông tin này, tôi lại tiếp tục chặn những chủ bãi kia và… tố tiếp. Dù không ưa gì tôi, các ông chủ của vùng vàng cũng đành nuốt giận bởi không thể tấn công, trừng phạt nhằm bịt miệng tôi khi họ đang ở ngoài thị trấn. Vậy là họ lại cố thanh minh bằng cách lôi tội kẻ khác ra kể cho tôi nghe kèm theo lời nhắn:
– Không tin bữa nào anh dzô trỏng coi, tụi em chỉ lo làm ăn, hiền khô à.
Dĩ nhiên là tôi chấp nhận lời mời của họ một cách vui vẻ. Đã ngồi chung bàn ở thị trấn thì vào bãi tôi là khách, họ không thể uy hiếp, đe dọa gì tôi được.
Sau hai ngày, đã thu thập được hơn chục lời mời vào bãi làm khách, tôi quyết định bắt đầu cuộc chơi. Mọi con đường vào các bãi đào đều giống nhau: phải đi xe ôm, theo đường mòn vào đến điểm tập kết, sau đó đi bộ cắt núi vào bãi, gần nhất chừng một, hai giờ, xa nhất khoảng ba ngày đường, nếu thạo nghề leo núi.
Đội quân xe ôm ở bãi vàng rất đông đảo - lên đến hàng trăm người - nhưng chỉ độc một loại xe Minsk của Liên Xô cũ. Tất cả chỉ để phục vụ khách ra vào bãi. Thị trấn bé như lỗ mũi, đi xe ôm chỉ tổ mất công leo lên leo xuống.
Gọi là đường cho oai, kỳ thực tất cả chỉ là những lối mòn được bạt sơ sài ôm quanh vách núi. “Thiết kế” và “xây dựng” những con đường này chính là đồng bào dân tộc Mơ Nông ở địa phương, mục đích để có cớ thu tiền của những kẻ đào vàng hơn là để phục vụ việc đi lại. Do vậy, những con đường thường dốc đứng một cách vô lý, rất dễ khiến cả người lẫn xe bật ngửa ra phía sau. Đã vậy, mặt đường lại hoặc trơn trợt, hoặc nhão nhoét. Nhiều đoạn, xe và người ngập trong “món cốc-tai của Trời”, bùn lút đến đầu gối. Để vượt qua những đoạn đường như thế, tất cả xe ôm đều phải gia cố bánh sau. Hai sợi dây xích nối bằng sên cam xe máy dài đúng bằng chu vi lốp xe, được nối ngang bằng những đoạn sên cam khác tạo thành một cái “rọ” xích ôm lấy bánh xe sau, hai đầu nối với nhau bằng hai đoạn ốc tăm xe đạp. Chỉ với những chiếc rọ này, bánh xe mới có thể bám vào mặt đường để leo dốc, vượt lầy mà không rơi xuống vực, không bị trượt. Ở những đoạn lầy lội, xe sau cứ ngắm thẳng vết bánh xe trước bò qua. Nhiều đoạn, vết bánh xe bị rọ xích cày thành rãnh, sâu tới 30cm. Người ngồi sau phải co hai chân lên mới không bị gạt văng mắt cá. Vào mùa mưa, xe ôm bánh xích cũng chỉ chạy được từng đoạn. Qua những đoạn quá lầy hoặc quá dốc, khách được hét xuống lội bùn hoặc đẩy xe mà không hề được trừ bớt tiền. Đã vậy, các “thượng đế” cũng chẳng được đối xử nhẹ nhàng gì cho lắm. Chưa leo lên xe, tôi đã bị Quảng, 31 tuổi, gã xe ôm mà tôi thuê đe dọa:
– Ngồi sát vào, ôm cho chặt. Coi chừng bung rọ lốp, xích văng đứt chân ráng chịu!
Tiếp đó là:
– Ngồi yên, nói xuống phải xuống, nói lên là lên, nếu không, té ráng chịu…!
Để trả cho hàng loạt sự “ráng chịu” ấy gã lái xe bảo tôi gọn lỏn:
– Năm trăm ngàn.
Tôi trợn mắt:
– Anh có điên không đấy, chỉ có ba mươi tư cây số?
Lần này thì gã xe ôm tỏ ra lễ độ:
– Dạ, không điên. Xe ôm bãi vàng luôn nói đúng giá!
Rồi tỏ ra không cảm, gã tặng cho tôi một lời giải thích miễn phí:
– Ở đây người ta không tính cây số, chỉ tính ngày đường.
Sau đoạn đường này, tôi tin chắc rằng không ở đâu giá xe ôm đắt như ở Phước Sơn, nhưng các bác tài xứ này cũng xứng đáng là các cua rơ giỏi nhất. Nếu được gọi vào đội tuyển quốc gia môn đua xe đạp đội hình, tôi cam đoan mùa SEAGAME tới, Việt Nam cứ gọi là đem rổ mà đựng huy chương vàng!
Hãi nhất là đoạn men dọc suối Đắk Mỹ, xe và người cứ len lỏi quanh những đoạn đường hẹp như chiếc thắt lưng, đầy những vòng cua cùi chỏ, những con dốc như lao bổ xuống địa ngục. Một bên đường liên tục thò ra những gốc cây nhọn hoắt, chỉ sơ ý một chút là có thể bị cắm ngay vào người. Tránh cũng không được, vì chỉ chệch chừng vài gang tay là lăn ngay xuống vực. Mặt đường nhão nhoét, thỉnh thoảng lại có một đoạn được chống lầy bằng những đoạn cây dài chừng 1,2 m lót ngang. Xe đi nép một bên, sức nặng khiến đầu kia của khúc cây chốc ngóc lên, có lúc văng hẳn lên trời. Vậy nhưng, Quảng vẫn đảo tay lia lịa như múa mà không hề run. Đã vậy, gã còn luôn miệng nói đủ thứ chuyện trên trời dưới biển. Nhưng tôi không trợn mắt nữa. Cho tôi một nửa con số 500.000 đồng kia mỗi ngày chắc là tôi còn huyên thuyên dữ tợn hơn nhiều. Cứ làm xiếc và huyên thuyên như thế, Quảng lần lượt đưa tôi vượt hết dốc cổng trời Phước Đức, lầy Phước Chánh, ngầm Phước Kim và cầu treo Đắk Mỹ được ghép bằng cả trăm chiếc thùng phuy.
Lúc qua dốc Bảy Cua ở xã Phước Chánh, đột nhiên Quảng đánh tay lái cho bánh trước cạ vào vách núi. Gã giải thích:
– Côn không nhả, phải cắt ambrayage thôi.
Nói là làm, gã giở đồ nghề ra… Chưa hết, lúc đang từ từ đổ dốc, gã bỗng cho xe đổ đèo nhanh như tên bắn không một lần nhấp phanh. Ngồi sau xe, tôi sợ vã mồ hôi, không dám nhìn chiếc xe vừa lao vừa đảo như làm xiếc trên miệng vực. Xuống hết dốc, gã cho xe lao hẳn xuống lòng suối toàn đá trâu đằm phủ rêu trơn trợt, nước ngập đến thắt lưng. Đồ đạc, máy ảnh, pin, đèn mà tôi mang theo, tất thảy đều bị ngâm vào nước. Xe khựng lại đổ nghiêng và tắt máy. Tôi vọt ngay lên bờ, vứt túi đồ xuống mặt đất, vớ ngay một cục đá và lao đến trước mặt Quảng quát:
– Đồ điên! Định giết bố mày đấy à? Sao không đạp phanh chạy từ từ?
Bác tài tỉnh bơ giải thích:
– Đứt phanh! Anh bảo làm sao tôi chạy chậm được?
Ngán ngẩm và lạnh toát sống lưng, tôi quăng cục đá, thả bịch mông xuống phiến đá bên bờ suối. Quảng lúi húi giở đồ nghề. Trong lúc Quảng sửa xe, tôi tranh thủ đảo mắt quan sát khắp vùng. Bên kia suối, có một tay “mục đồng” với ngọn roi trong tay đang lùa cả một đàn gần 30 con heo, mỗi con cỡ một tạ lội qua suối. Chỉ một mình anh ta, nhưng cả bầy heo vẫn ngoan ngoãn vượt suối rồi chen nhau chạy lon ton dọc con đường mòn. Núi rừng mênh mông nhưng đàn heo vẫn tỏ ra hết sức kỷ luật, không còn nào lủi vào bụi hay rẽ sang đường khác. Quảng bù lỗ cú “đứt phanh” khi nãy bằng lời giải thích:
– Trước khi lùa heo đi, mấy chả lấy lửa đốt hết mi mắt chúng. Tạt ngang ngửa, đụng phải lá cây là xót nên bầy heo cứ thế đi thẳng, không chạy lung tung đâu cả. Nếu không thì còn mệt.
Ra là thế. Đúng là đi một ngày đàng học một sàng khôn. Nhưng tôi biết, đến lượt mình tôi sẽ không làm được thế. Kinh nghiệm sống của con người phần nhiều đồng nghĩa với sự nhẫn tâm, tôi theo không nổi. Có điều, vì được Quảng giải thích, tôi chợt đâm ra có thiện cảm với tên cà chớn.
Khi bầy heo vừa đi khuất, bác tài lại cho xe nổ máy. Vượt thêm chừng hai ngọn đồi, gã lại đột ngột cho xe ngoẹo đầu, dừng lại ngay lưng chừng dốc. Vẫn tỉnh rụi, Quảng thông báo:
– Nghe “cạch” một tiếng là tôi đã nghi. Hóa ra cần đạp số… rớt mất tiêu rồi.
Sau 15 phút quay lại tìm vẫn không thấy, gã lại trả lời ánh mắt dò hỏi đầy bực bội của tôi bằng cách ngoắt một xe ôm khác. Tôi tưởng sắp bị giở trò sang xe, té ra không phải. Dân lái xe ôm xứ này uy tín hơn nhiều. Gã hỏi mượn “đồng nghiệp” một chiếc kìm con, kẹp chết vào cốt thay cho cần số và bó chặt lại bằng một đoạn dây thép nhỏ. Cứ thế, lại leo đèo, đổ dốc, quá trưa, chiếc Minsk không côn, không phanh với chiếc cần số có một không hai ấy đã đưa tôi đến trước Trụ sở ủy ban xã Phước Thành.
Lấy tiền trả, tôi có cảm giác rất yên tâm vì cái giá “trên trời” kia là rất “phải chăng”, rất tương xứng với “con đường đau khổ” mà mình vừa trải. Chỉ hơi lo: Liên Xô tan vỡ, xe Minsk không còn được nhập, dân Phước Sơn sẽ đi xe gì để vào bãi vàng? Rất có thể họ xe mua xe… tăng. Dân bãi vàng thiếu gì tiền. Những nòng pháo các loại thì họ không cần thật, nhưng với con đường đầy dốc, đầy bùn này, vòng bánh xích xe tăng chắc là rất hữu dụng!
Nhưng gian nan của đường vào bãi, đó chỉ mới là khúc dạo đầu. Để vào được các bãi Một Nước, Một Khô, Muối, Thôn Hai, Vinh Tóc dài, Đồi Mafia… dân đào vàng còn phải đi bộ qua vô số sườn núi lởm chởm và cao ngất khác. Toàn những con dốc “kinh người”. Mỗi lúc bò lên - có khi bằng cả bốn tay chân - đầu người phía dưới cứ ủi thẳng vào… mông người phía trên. Một lần ai đó bước chệch chân, một tảng đá lở ra, lăn lông lốc theo đường mòn, đe dọa đập thẳng vào đầu, vào mặt người đi sau. Muốn tránh cũng không có chỗ. Người đi sau chỉ có duy nhất một chỗ để đặt chân, đó chính là dấu chân của người đi trước, đã ăn lõm vào vách đất, kẽ đá thành những hố sâu hoắm. Leo chừng 5 phút đã bở hơi tai, nhưng con dốc ngắn nhất, muốn vượt qua cũng mất không dưới 30 phút. Xuống dốc càng khổ hơn vì không biết bám vào đâu. Trong giày sũng nước, ngón chân cứ tõe ra, dọ dẫm lựa thế đặt từng mũi xuống. Chỉ sau một ngày leo núi, xuống dốc, ngón chân Giao Chỉ đã hành tôi khốn khổ. Vì liên tục bị ấn vào mũi giày khi xuống dốc trơn như thoa mỡ, mười đầu ngón chân tôi bị co quắp và tê dại, hai ngón chân cái tụ máu bầm đen, đau buốt óc. Sau chuyến đi này, tôi bị thối mất hai móng chân cái, các kẽ ngón còn lại đều nứt toác và tróc lở, phải bôi thuốc sáu tháng trời mới ra móng mới và lành hẳn.
Nguy hiểm nhất là đường vào bãi thôn 4, xã Phước Kim, đoạn sau Dốc Gió. Từ trên đỉnh núi đi tắt xuống bãi, chúng tôi phải áp ngực vào vách núi dựng đứng và đi nghiêng. Bàn chân đặt từng bước vào các gờ đá, tay giang rộng để giữ thăng bằng và bám chặt vào các mỏm đá nhô ra từ vách hoặc các túm rễ cây dài 4 - 5 mét rủ từ trên cao xuống lòng thòng. Phải mất hơn 20 phút mới vượt qua nổi một vách núi chỉ dài chừng 150m, chỉ cần sẩy tay là rớt xuống tan xương. Đi hết đoạn đường, nhìn lại tôi bỗng rùng mình. Ở trên vách đá cao chừng cả trăm mét, những người “cõng chuyến” với bao hàng đè trĩu trên lưng vẫn đang đu người bám vách lần xuống. Tôi chỉ là một kẻ phiêu lưu tìm cảm giác. Còn họ, đó là cuộc vật lộn mưu sinh, là hành trình tìm đến miền đất hứa đầy những bụi vàng. Hóa ra, đường đến thiên đàng gập ghềnh, cheo leo và bất trắc muôn vạn lần hơn so với trí tưởng tượng. Vậy nhưng, con đường đó vẫn chật cứng những người… Thậm chí, vì vàng người ta còn cõng cả những khối thiết bị máy móc nặng những 70 - 80kg và theo đúng những con đường bất trắc ấy để đặt chúng vào giữa bãi vàng.
Kể cũng đúng thôi, để đến được thiên đàng, làm gì có con đường nào rộng rãi và bằng phẳng!
• • •
Vì đường sá cơ cực và nguy hiểm cho nên giá cả ở các bãi đắt khủng khiếp,- vậy nhưng vẫn có người mua. Trong bãi hầu như không thiếu thứ gì, từ bia rượu, nước ngọt cho đến lọ dầu gội, mỹ phẩm. Dân bãi vàng tiêu tiền như rác, xài trước trả sau. Dù vậy, dân buôn bán, người cõng chuyển vào bãi vẫn chẳng ai trở nên giàu có. Dự, một người cõng chuyến ở bãi Muối đã tính cho tôi nghe. Cõng được 40 kg từ thị trấn Khâm Đức vào bãi mất những ba ngày đường. Vừa đi vừa về, ăn uống tiết kiệm lắm cũng mất 150.000đồng. Trong khi đó nhiều lắm cũng chỉ lãi được 400.000 đồng, lại phải tốn hơn 100.000 đồng nữa để vượt qua được các “trạm gác nhân dân” dựng lên nhan nhản dọc các thôn, bản trên đường. Tính ra, mỗi ngày chỉ lãi được 50.000 đồng. Một cái giá quá bọt bèo so với giá cả vùng vàng để đánh đu giữa sự sống và cái chết. Mà chưa chắc đã thu được tiền: dân bãi vàng có người trúng quả, người thua lỗ, mua thiếu là chuyện bình thường. Đó là chưa kể gặp kẻ cướp - trong bãi vàng Phước Sơn, loại người này nhan nhản - tay chân lành lặn kể đã là may mắn lắm.
Ngay cả dân chạy xe ôm, không phải khi nào cũng thu được tiền! Một lần vào khoảng giữa năm 1998, anh lái xe tên H. Được gọi chở hai “thợ mỏ” từ Phước Thành ra Khâm Đức. Dù được xốc nách, một người trong số họ cũng khó khăn lắm mới ngồi được lên xe. “Bệnh!”, người ngồi sau thông báo gọn lỏn và ôm chặt lấy bác tài, trong khi suốt đoạn đường đầy đèo dốc, người ngồi giữa cứ liên tục gật, lắc, vẹo qua vẹo lại bất chấp như vậy sẽ rất nguy hiểm, và không hề nói nửa câu. Đến thị trấn, H. Hỏi tiền xe. Chỉ con bệnh đã được đặt ngồi bệt giữa lòng đường, người kia bảo “nó trả”. H. Tiến lại, nắm tay “chủ chi” lắc lắc. Bàn tay lạnh ngắt. Mũ trên đầu anh ta rớt xuống, để lộ khuôn mặt trắng bợt, mắt trợn trừng. Rú lên một tiếng, H. Lao lên xe vọt thẳng không dám ngoái đầu, quên luôn cả đòi tiền. Hóa ra, người ngồi giữa chỉ là một… xác chết, ít ra cũng hồn lìa khỏi xác đã hai ngày.
Giá cả leo thang đã đẩy cuộc sống của đồng bào dân tộc Mơ Nông các xã có bãi vàng vào chỗ khốn cùng. Nghề “gia truyền” phát núi trỉa hạt không đủ thu nhập để duy trì cuộc sống, họ tự đứng ra lập barie ở mỗi thôn, chia nhau canh gác thu tiền khách qua lại. Đi bộ cõng chuyến: 5 ngàn/người; xe ôm có khách: 10 ngàn/chuyến. Mỗi tháng cứ bốn, năm nóc nhà được cắt gác một ngày, coi như lấy đó làm nguồn thu nhập chính để mưu sinh. Để dễ đòi tiền, các bô và mâm (bố, mẹ) cứ ngồi trạm gác với chai rượu và bộ mặt say khướt. Không móc tiền, barie không được nhấc lên. Xe ôm cứ liều vượt qua, các bô, mâm sẵn sàng lăn ngay ra đất, lấy thân chặn trước bánh xe, kêu khóc ầm ĩ. Chỉ khi nào lấy được tiền, họ mới chịu đứng dậy.
Ngoài mãi lộ, người Mơ Nông còn tìm thu nhập bằng cách bán đất, bán nguồn nước. Các bãi vàng vừa lập, khi bắt đầu đến vỉa, lập tức sẽ có một bố người Mơ Nông vác chà gạc tìm đến bảo:
– Đất của ông nội tao để lại!
Vậy là chủ hầm đành xì tiền ra: ba triệu, năm triệu hoặc bao nhiêu tùy thỏa thuận. Kỷ lục về số tiền đất trả cho các “ông nội”, thuộc về Bùi Vinh (bãi Vinh tóc dài), khai vỉa đầu năm 1997. Để có thể khai thác, anh ta đã phải trả cho các “ông nội” một lúc 200 triệu đồng.
Xay đá, đãi vàng, các chủ hầm phải tìm các nguồn nước chảy ra từ các sườn núi có độ cao tương đối, bắt ống cao su dẫn về bãi của mình. Thường những đường ống này dài từ một đến ba km. Ông bắt xong, đột nhiên ngưng chảy. Một thanh niên người dân tộc nào đó đã chặt nó làm hai khúc, lý do vẫn là “suối của ông nội tao để lại”. Lại phải tự giác chi ra từ hai đến năm triệu cho mỗi ống dẫn nước. Nguồn thu này, có thể nói là khổng lồ, vì chỉ riêng bãi thôn 2, xã Phước Thành, số máy đang hoạt động cũng đã khoảng gần một trăm, mỗi máy nhất thiết phải có một ống nước. Của thiên trả địa, không một chủ hầm nào nghĩ tới chuyện từ chối trả “lệ phí” khai thác đất và nước của các “ông nội tao” để lại cả.
Ngày tôi đến, đồng bào dân tộc ở các xã Phước Đức, Phước Chánh, Phước Hiệp, Phước Kim, Phước Thành đã gần như bỏ hẳn nương rẫy, chỉ suốt ngày ngồi nhà tu rượu, chờ đến dịp thu tiền “chết” của dân vào bãi. Để hợp thức hóa việc thu tiền, thỉnh thoảng họ cũng hè nhau phát thêm một vài đoạn đường vào bãi, hoặc chặt cây lót một số đoạn đường lầy cho người xe ra vào. Thời gian còn lại, cả làng say khướt. Người già say, thanh niên say, cả trẻ con cũng say nốt… Bởi không say, họ không đủ dũng khí để hoạnh họe đòi tiền. Xem ra, cái lọc lõi con buôn đem lên từ miền xuôi đang được đáp lễ cẩn thận bằng chất hoang dã rừng rú của dân miền ngược. Vàng vẫn ẩn sâu lòng đất, nhưng văn hóa, phong tục tập quán và những gì tốt đẹp của con người thì đang bị tàn phá và tận diệt dữ dội. Tất cả đang bày ra trước mắt tại Phước Sơn. Đó là một hệ lụy tất yếu và đau lòng đi ngay sau sự xuất hiện và tồn tại của những bãi vàng.
⚝ 4 ⚝ Bóc vỏ trái đấtKhông thể đóng khung số lượng hầm, bãi ở Phước Sơn trong một “trị tuyệt đối”, bởi lẽ việc bỏ bãi cũ, lập bãi mới liên tục diễn ra mỗi ngày. Toàn huyện có khoảng một trăm bãi vàng, trong đó bãi thôn 2 và bãi thôn 8, xã Phước Thành là lớn nhất, mỗi bãi có từ 100-150 hầm với khoảng từ một đến hai ngàn/người tham gia đào đãi và buôn bán.
Công nghệ đào, đãi vàng ở Phước Sơn đã được chính quy hóa đến cao độ. Đầu tiên là khâu “tăm vỉa”. Hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm, những gã đào vàng tìm đến các mạch đá ngầm trồi lên mặt đất, sau đó bắt đầu đục đá đem xay thử. Nếu có vàng, việc dựng lán, khui hầm sẽ diễn ra cấp kỳ. Gặp được các vỉa đá “tầng ong” - xốp và lỗ chỗ như tổ ong dân “xúc, lắc” coi như trúng mánh. Loại này xốp, nhẹ, dễ đào, dễ xay, hàm lượng quặng vàng rất cao, dễ khai thác. Ngược lại, gặp phải vỉa đá Bê-rít (?) coi như công toi, vì vừa cứng, vừa ăn quá sâu, rất khó đào.
Để lấy được quặng, người ta phải đào hầm từ trên đỉnh hoặc lưng chừng núi ăn thông xuống. Hầm cạn nhất cũng phải sâu tới 25 m, còn sâu thì 50, 60 hay 70m vô chừng. Vỉa đá ăn đến đâu, địa đạo được đào đến đấy, có những hầm hệ thống địa đạo chồng lên nhau thành bốn tầng, mỗi tầng thông nhau bởi một miệng giếng sâu chừng 10m.
Để khui hầm, toàn bộ cây cỏ trên miệng, trên lối đi dẫn vào đều bị bóc sạch, đất đá bị lật tung lên, biến cả quả đồi rậm rạp thành vùng đất chết! Hàng trăm địa đạo chằng chịt ăn vào khiến cả ngọn núi bị rỗng chân, có thể đổ ụp xuống bất cứ lúc nào. Đêm 20.7.1997, sau một cơn mưa lớn, bãi thôn 8 xã Phước Thành do Nguyễn Văn Ngọc làm chủ đã ụp xuống bất ngờ, chôn sống một lúc 21 người. Tỉnh, huyện, đã huy động nhân lực đào xới cật lực nhưng cũng phải mất bảy ngày, xác các nạn nhân mới được đưa lên. Ngày 14.5.1999, tại bãi Vàng Nhẹ (xã Phước Đức), một khối đá khoảng 50 m2 bị hổng chân đã ầm ầm lao từ trên đỉnh đồi xuống, đè chết một người và làm bị thương bốn người khác. Thịnh, một thợ đánh mìn quê ở Giao Thủy (Nam Định) thoát chết nhờ kịp lao vào hầm, nhưng cánh tay phải bị khối đá “lướt” qua bóc toàn bộ da thịt, lòi xương trắng hếu…
Tai nạn như cơm bữa, nhưng vì vàng, những người thợ vẫn liều mình đánh đu với số phận. Để giải quyết những vỉa đá cứng, phương pháp thông dụng nhất là đánh mìn. Gọi là nhanh, nhưng giỏi lắm một ngày đánh mìn, thợ vàng cũng chỉ đào sâu xuống được thêm một, hai mét đá. Để tiết kiệm, họ thường không ngần ngại cắt ngắn… dây cháy chậm đến mức tối thiểu. Bị thách thức, thần chết đã nổi giận thường xuyên. Đêm 26.5.1999, sau một tiếng nổ “ục” trong lòng núi, bốn thợ mỏ người Phú Thọ ở bãi thôn 2, Phước Thành đã phải đi bệnh viện. Không bị thương, họ chỉ bị ngạt vì khói mìn. Trên đường đi, một người đã chết.
Với các ngọn đồi đã bị đào bới, không một thứ cây cỏ nào có thể tái sinh, bởi tất cả bề mặt đồi núi đều bị hàng vạn m2 đá vụn hất lên phủ kín. Sau khi khai thác, không một ai nghĩ đến việc lấp lại hầm hố. Thợ đào vàng không lấp vì việc của họ là tìm vàng chứ không phải là cải tạo môi sinh; dân không lấp vì không có trách nhiệm; nhà nước cũng không lấp - vì không có tiền. Vậy là những ngọn núi trở thành một cái “bẫy người” khổng lồ với hàng trăm miệng hố (nhiều miệng đã bị cỏ dại phủ kín) chỉ cần sẩy chân là sẽ rơi đứng xuống hàng chục mét.
Quặng khai thác xong sẽ được cho vào máy nghiền nát, sau đó, được đem xay nhỏ thành cám và cho theo nước chảy vào máng đãi. Những lá nhôm tráng thủy ngân sẽ giữ vụn vàng lại, còn nước và xái cứ vậy trôi đi.
Khi máng thủy đã “khê”, lớp vàng lấm tấm bám trên thủy ngân đã dày, người ta sẽ dùng một lá cao su dày, một mảnh đế dép “tông” chẳng hạn, gom chúng lại. Dùng “con khò” đốt lên, thủy ngân sẽ bốc hơi, để lại vàng nguyên chất (vàng 9999). Vì công việc quá tốn kém, trung bình cứ xuống sâu một mét tốn một triệu đồng cho nên nếu mỗi ngày một hầm đào được một lượng vàng, coi như hầm đó mới chỉ hòa vốn. Nhưng, một trăm hầm thì may lắm chỉ dăm ba hầm đạt được mức ấy, số còn lại thường chỉ thu được dăm ba chỉ - đủ lo gạo muối hằng ngày. Dù vậy, dân “xúc lắc” vẫn không từ bỏ “giấc mộng vàng” của họ. Thần tượng cho những giấc mơ kia có nơi bấu víu là Bùi Vinh, bãi Vinh Tóc Dài, thôn 5, xã Phước Thành. Năm 1997, Vinh trúng lớn. Mỗi ngày, hầm của anh ta lôi lên mặt đất được trên dưới 1 kg vàng ngân (khoảng 700 gam vàng ròng)!
Nhưng, lượng vàng lớn nhất vẫn còn nằm trong xái. Vì vậy, sau máng thủy sẽ là công đoạn đánh bể thoòng. Xái được gom lại, dồn vào một bể lớn quây bằng nilông, bơm nước vào và khoắng lên. Cyanur, nitơ lỏng, và một số phụ gia khác được thả vào sẽ khiến cả vàng lẫn xái tan thành nước. Nước trong tiếp tục được chắt sang bể nhỏ, thạp, sau đó thả các thanh nhôm, thiếc vào cho vàng nguyên chất kết tủa. Sau khi lọc lấy vàng, lượng nước chứa đầy độc chất này đều tự do tuôn xuống các dòng suối, đổ ra sông Vu Gia, sau đó hợp lưu với sông Thu Bồn tuôn xuống đồng bằng. Xem ra, hiện tượng hàng loạt trâu bò ở Quế Sơn, một huyện nằm ngay bên thượng nguồn sông Thu Bồn bỗng dưng lăn ra chết hàng loạt đã tìm ra được nguyên nhân. Đó mới chỉ là trâu bò, vậy còn người? Không ai trả lời, việc “đánh hóa” vẫn cứ diễn ra mỗi ngày. Điều đáng nói là, toàn bộ việc khử quặng này đều được thực hiện bởi những tay thợ vốn có văn h?