← Quay lại trang sách

Chương 19

Bốn chiếc trực thăng - ba H.34 loại chở quân, một HU.1B phản lực yểm trợ - lấy đường 56 làm cữ, bay lên Tây Quảng. Các phóng viên chen chỗ nhau nhìn qua cửa sổ, xem quân Mỹ kéo lên núi trong cuộc hành quân Man-hát-tan. Bụi đường bốc thành một dải đỏ bầm không đứt quãng, như rặng cây lạ mắt mọc hai bên bờ con suối quanh co, che mắt người bay trên cao. Chỉ khi bay qua những chặng đường xâm xấp nước hay nền đá thiên nhiên, các phóng viên mới thấy những chiếc xe tăng nặng loại On-tôx và Tai-gơ, lắp đại bác cỡ lớn, vượt sông bằng phao Sno-khen, nhưng lội ruộng lầy rất kém nên ít dùng ở đồng bằng. Pháo kéo bằng xe xích và pháo tự hành đi thành chuỗi hàng cây số.

Mỗi lần nhìn thấy xe pháo trên đường là một đợt lên lớp của đại úy Thi-ô-đo S.Ten-ny-brát, sĩ quan thông tin công chúng của thủy quân lục chiến đóng trong năm tỉnh vùng chiến thuật Một (Quảng Nam đã chia thành hai tỉnh mấy năm trước). Tay này vốn là sĩ quan tham mưu, vừa học thêm sáu tháng ngành tâm lý chiến, rất bốc đồng, muốn trổ tài chinh phục trái tim và khối óc của bất cứ ai không phải là Mỹ.

Thật ra, hắn không xấu bụng hay tàn ác gì, cũng khá bảnh trai và vui tính. Hắn chỉ tin cắn cưa rằng chế độ Hoa Kỳ là tốt nhất, quỷ đỏ cộng sản là xấu nhất, đồng đô-la là quý nhất, hắn dính vào cuộc chiến tranh này là có lợi nhất cả phần hồn lẫn phần xác. Đồng đội hủy diệt người Việt và nước Việt Nam, hắn chỉ nghĩ: “Đến ngày phán xét cuối cùng, từng người một sẽ chịu trách nhiệm phần mình trước mặt Chúa. Ta chỉ là một hạt cát trên lãnh địa của các ngài Xê-da cầm quyền thế gian này. Ngay Chúa Giê-xu còn phải nộp thuế một đồng vàng cho Xê-da kia mà!”.

Dòng quảng cáo thao thao của Tét-đy (hắn thích được gọi thân như thế, dù đó là biệt hiệu của con gấu trẻ con chơi) bắt đầu gây khó chịu. Loại H.34 chở quân này chỉ có một máy nói truyền từ hai người lái đến người chỉ huy trong khoang, Tét-đy dùng loa điện để át tiếng máy rất ồn, nhung các vách kim loại dội lại tiếng loa chan chát và méo mó, rất khó nghe. Từng lúc, các tốp máy bay phản lực lướt qua bên trên buồng lại tiếng nổ chọc tường không khí và luồng khí xả hung hãn khiến tốp trực thăng lảo đảo như gặp lốc mạnh.

Hai chiếc H.34 bay trước chở cơ quan tham mưu tiền phương của thiếu tướng Huỳnh Lâm. Chuẩn tướng Bảy đã bị hất cẳng năm ngoái vì thiếu hăng hái trong vụ đàn áp Phật giáo, tháng năm 1966, nay vất vưởng ở trường sĩ quan Thủ Đức, nay nhờ Nguyễn Văn Thiệu đang cần chân để quật nhào thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ nên mới bị bỏ kho chứ chưa lột lon. Mỗi lần nhậu say, lão lại làu bàu chửi thằng Nguyễn Cao Bồi, thằng con hoang của Hít-le, chẳng phải vì thù hắn đưa quân ra giết Phật giáo và trị sư đoàn Một cứng đầu, mà chỉ vì tước mất của lão cái ngôi lãnh chúa miền Trung béo bở, nhất là từ khi Mỹ vào. Càng nhiều Mỹ càng lắm thứ bớt xén, càng xa đám cầm quyền Sài Gòn càng đỡ bị ghen ăn ghét ở.

Tướng Huỳnh Lâm tinh khôn hơn, giỏi lấy lòng Mỹ và sĩ quan cấp trên lẫn cấp dưới. Lão ra vẻ sửng sốt khi biết thiếu tá Ung Viết Khánh bị cầm chân mãi ở mức sĩ quan nhiệm chức, còn bị bắt bớ khảo của. Lão to tiếng với đại tá tham mưu trưởng trước mặt Khánh:

- Viết lệnh ngay đi, đưa thiếu tá lên thực thụ. Thằng Bảy tệ quá, tệ kinh khủng... Toa đừng phiền nghen, chịu khó giúp moa ít lâu là thêm một bông mai bạc nữa. Toa đừng làm tâm lý chiến, thứ đó moa hốt mấy trăm cũng có, lấy tụi sĩ quan động viên có bằng đại học mà nhát như thỏ đế, kiếm chỗ ngồi cạo giấy ở hậu cứ, tụi nó mừng tới sống tết chết giỗ lận!

- Trình thiếu tướng, vậy tôi chuyển đi đâu?

- Yên chí lớn, moa không đẩy toa đi tuyến lửa đâu... Toa ở bên moa, làm sĩ quan liên lạc Việt - Mỹ, khi cần thì giúp moa đón tiếp cái lũ quan chức hay phóng viên ưa thóc mách. Moa học kém, nghe tiếng toa từ hồi hai đứa hai phe kia, moa ở Việt binh đoàn của Bảo Đại, toa ở Việt Minh. Tụi Tây được thả về phục toa lắm lắm. Khi sắp ra vùng Một này, moa hỏi thăm, biết tụi Mỹ cũng rất nể toa, nó kêu là gì hè... à, là gentleman chánh hiệu. Tiếng ta dịch là gì?

- Trình thiếu tướng, đại khái là chính nhân, quân tử... Họ nhậu vui thì nói vậy thôi...

Từ đó các sĩ quan trong quân đoàn Một và vùng Một chiến thuật thấy Khánh luôn luôn đi cặp kèm với thiếu tướng Lâm. Thư ký không, cận vệ không, quân sư quạt mo không, là cái ông gì vậy? Rốt cuộc là anh liên lạc Việt - Mỹ và phiên dịch, chẳng có gì đáng gờm, nhưng cũng nên lấy lòng hắn ta đôi chút để khi nửa đêm gà gáy xin vài chục phi suất hay vài trăm quả pháo đại của Mỹ trôi chảy hơn.

Trên chiếc H.34 dành riêng cho tư lệnh, có một bàn nhôm và bốn chiếc ghế vặn bù-loong chắc xuống sàn. Các sĩ quan khác ngồi chịu lắc xóc trên các băng-két gắn hai bên sườn. Tướng Lâm, tham mưu trưởng và thiếu tá Khánh đều chụp ống nghe máy PRC.25 vào một tai, dành tai kia nói với nhau. Lâm đang văng tục:

- Đ. mẹ, thị sát chiến trường kiểu cứt này thì không trúng đạn quân đỏ cũng trào máu họng về nằm nhà thương. Ê, Khánh, nãy giờ có thằng Yăng-ki nào kêu tao không?

- Trình thiếu tướng...

- Mày vứt lẹ cho tao cái loa hai sao xuống hố tiêu, thưa với trình gì giữa chiến hữu. Lỡ may trực thăng rớt xuống vùng Cộng, mày nói giùm tao một câu là thằng thiếu tướng này không cố ý gây nợ máu với dân chúng hay các đồng chí đâu, nó là lính nhà nghề kiếm lon ăn lương... À, sao, tụi Mẽo?

- Thưa, chỉ có các đồn dọc đường điện hỏi FOF, tức Friend Or Foe, bạn hay thù, lấy lệ vậy thôi, không trả lời cũng mặc kệ. Hai sao gắn dưới mũi chiếc này ngó mắt thường thấy rõ. Lơ mơ, chiếc yểm trợ thổi cho bốn mươi tám trái rôc- két thì tụi nó rúc xuống đất cái cũng chết rụi.

- Hớ hớ hớ, cao tay đó Hai Khánh. Cứ vậy mà nghen toa. Mình là chủ, chủ nghèo, nó là khách, khách giàu, toa cứ đĩnh đạc chững chạc như lâu nay là moa ưng ý. Mà nhớ luôn đi: khi thiệt vui gặp bạn bè cố tri, moa hay giở giọng mày tao xả láng, quên cả thằng kia hơn mình ba bốn cấp. Toa là trí thức, đừng chê tụi võ biền như moa. Trương Phi với Khổng Minh ghép lại...

Trong máy nói nội bộ, chợt bật lên các tin hiệu tút tút của phi công chính:

- Trình thiếu tướng, đã đến khu vực Hai hành quân, cách sông Linh tám trăm mét. Sân đậu chỉ đáp được sáu trực thăng một lần. Dưới đất đã rải vôi chữ T cho đáp, ném trái khói xanh an toàn. Xin thiếu tướng cho lệnh.

- Hỏi gì nữa, đ.mẹ, đáp đi Chín, máy móc gì nữa mày!

Nửa giờ sau, khi cơ quan tham mưu đã yên chỗ các căn lều bạt cỡ lớn, nhóm phóng viên các nước ngoài tán dóc chung quanh các bộ bàn ghế nhôm, uống giải khát các thú đóng hộp ướp lạnh, với những máy quạt gió lạnh đặt ở các góc lều.

Nhân lúc đại úy Tét-đy ra ngoài để thu xếp bữa trưa, anh chàng phóng viên Ý chừa râu mép rậm và nổi tiếng lắm lời hỏi Mỹ Duyên:

- Hình như bà quen với thiếu tá Khan... ờ, Khanh. Sao ông ấy cứ lánh mặt chúng ta, gặp cũng ngậm câm?

- Ồ, tôi là người của AFP, hiểu sao được? Tôi hỏi một lần, ông ta tự xưng là sĩ quan liên lạc Việt - Mỹ, chỉ được nói những gì cấp trên cho phép. Từ đó trở đi, phuuuít!

Trong số hàng trăm phóng viên săn tin ở Sài Gòn, Bộ tư lệnh của đại tướng Oét-xty chọn cho theo cuộc hành quân này mười bốn người, tất cả đều chưa tùng đưa tin xấu hay viết bài xấu về quân Mỹ và Sài Gòn. Ra đến Đà Nẵng, họ chia nhau đi nhiều hướng: làm phóng sự về các căn cứ Mỹ, đi theo các hàng không mẫu hạm và các loại tàu thủy tàu bay thuộc trạm Yăng-ki của hạm đội Bảy chuyên đánh phá Bắc Việt, bám theo các đơn vị lính cổ da rải khắp vĩ tuyến 17. Chỉ còn chín người bám theo cuộc hành quân bị thu nhỏ này. Dù còn thua xa các đợt tìm và diệt của Át-tôn-bơ-rơ, Xi-đa Phônx hay Giăng-sơn Xi-ti, nhưng các phóng viên vẫn tìm thấy nhiều nơi lạ khi theo bước quân đội thọc lên con đường mòn Hồ Chí Minh đầy huyền thoại sau rặng núi lởm chởm kia, miễn không có gì nguy hiểm. Trong số chín phóng viên có năm người đến Việt Nam lần đầu. Chỉ một người Thụy Điển nói thạo tiếng Anh, còn lại bốn dùng tiếng Pháp thạo hơn, đến từ Ý, Tây Đức, Tây-ban-nha, Bra-xin. Họ hay bám riết Mỹ Duyên để nhờ dịch lại lời của Tét-đy, quen nói nhanh lua lua theo kiểu các bang công nghiệp Bắc Hoa Kỳ, và nhờ ghi những tên người đất Việt Nam mà chính Tét-đy cũng nói sai bét. Hay hỏi và đá móc nhất là tay người Ý chừa râu mép rậm và ông Thụy-điển tóc vàng mắt xanh có bộ râu cố đạo xoăn mịn rất đẹp.

Họ ngồi khá lâu trong căn lều bạt khung nhôm, ngáp, bình luận rì rầm với nhau với vẻ mặt bực dọc. Anh người Ý ngả sang tiếng Pháp, hơi to giọng:

- Phóng viên Mỹ ranh ma lắm. Chúng nó được tướng Oét-xty dùng làm loa để nhồi sọ cử tri Mỹ, làm xiêu lòng hai viện trong quốc hội, kiếm thêm lính thêm tiền đưa sang Việt Nam. Chúng nó kéo từng đoàn đi từ căn cứ này đến căn cứ khác, bay ra biển thăm trạm Yăng-ki phía Bắc và trạm Đic-xi phía Nam, được chiêu đãi như ông bà hoàng và tặng quà vô số, còn sang tận Phi-líp-pin và Thái-lan nữa. Tới đâu đưa tin viết bài tới đó, mất mười lăm phút hay nửa giờ thôi, sau đó đi lùng mua hàng giá rất rẻ ở Pi-écx gửi về nhà. Dại gì mà lao vào chiến tranh như chúng ta!

- Sách báo viết về quân Mỹ chắc đã đến hàng trăm tấn...

- Hàng vạn tấn ấy chứ! Ông bạn Đức chớ phiền lòng nhé, Gớp-ben đã từng dạy đàn em..

- Ô hô, quên sao được. Cứ nói dối mãi người ta sẽ tin. Nhưng mớ đạn mà Gớp-ben dùng để giết cả gia đình và tự sát lại khác, họng súng không biết nói dối như họng người!

Cũng vừa lúc ấy có tiếng rập gót đứng nghiêm của hai tên quân cảnh Việt và Mỹ đi qua lại bên ngoài. Năm sáu người bước vào căn lều đặt máy lạnh dã chiến, đi đầu là thiếu tướng Lâm và một đại tá Mỹ đeo cấp hiệu con đại bàng. Lão Lâm nhìn quanh một vòng tỏ vẻ ưng ý, rồi lên tiếng trước, cảm ơn ông đại tá đã chăm lo sức khỏe của các phóng viên quốc tế, và ngỏ đôi lời hoan hỉ chúc tụng các bạn quốc tế đã đến tìm hiểu sự thật về nước Việt Nam đang đổ xương máu chống làn sóng đỏ từ phương Bắc tràn xuống. Lão nhớ kỹ lời khuyên của thiếu tá Khánh về cách đối xử với khách ngoại bang: nói ngắn gọn, vài câu lại dừng để thông dịch viên làm việc, khi say thì kín đáo rút lui - cũng buồn cười, người Pháp gọi kiểu chuồn êm ấy là “chuồn kiểu Anh”, người Anh lại gọi nó là “chuồn kiểu Pháp”, có Chúa hiểu nổi thôi.

Tướng Lâm đã tập nói ngắn và chia đoạn. Sau câu cuối, Khánh dịch xong còn dịch lần thứ hai bằng tiếng Pháp, trong khi tướng Lâm tươi mặt ngắm đám phóng viên. Lâm đã quyết định từ trước khi biết có một số phóng viên không hiểu kịp những tràng thuyết giảng của thằng đại úy nhóc con Tét-đy.

- Toa soạn cho moa mấy câu nói thiệt hay, có thích lời từ Ai-xen-hao tới Giôn-xơn, sau đó toa dịch lu bù tùy thích, cho tụi Mẽo nó biết nước mình không thiếu người tài. Một thiếu tá dưới quyền moa - là nói vậy với tụi Tây thôi nghen, toa đừng giận - cũng đủ sức làm thầy cả bọn.

Tên đại tá Mỹ vụng hơn nhiều. Hắn nói bằng giọng kẻ cả bề trên với những phóng viên trẻ và ngổ ngáo, các ông bạc tóc trong nghề, dạy họ không được viết hoặc đưa lên phát thanh, truyền hình bất cứ điều gì phương hại đến cuộc thánh chiến chống cộng ở đây, nếu sai trái thì sẽ bị từ chối vi-da nhập cảnh lần sau, hoặc bị trục xuất lập tức khi chưa hết hạn vi-da.

Tướng Lâm đã ngồi xuống ghế, nghe Khánh dịch rì rầm bên tai, cuối cùng nghe Khánh rỉ tai rất khẽ như dịch tiếp câu cuối: “Thằng Mỹ nói phạm chủ quyền ta, thiếu tướng nên cho nó cứng họng”.

Như chỉ đợi dịp ấy, ông già Thụy-điển đứng dậy nói rất lễ phép:

- Xin cảm ơn ngài đại tá vừa cho chúng tôi những lời chỉ dẫn quý báu về nghề phóng viên, giúp chúng tôi sửa một điều hiểu lầm tai hại: chúng tôi cứ tưởng đến với nước Việt Nam cộng hòa, chiếu khán là do Bộ ngoại giao Việt Nam cấp. Té ra quân đội Hoa Kỳ ở đây có quyền trục xuất hay từ chối chiếu khán phóng viên các nước, đó thật là điều vô cùng mới trên thế giới!

Cả đoàn phóng viên che miệng cười khúc khích, trong khi viên đại tá vụt đỏ mặt như gà chọi, xoay người đi ra không chào. Đại úy Tét -đy đưa mắt cầu cứu tướng Lâm và Khánh. Tướng Lâm chỉ đứng dậy xoa dịu bằng mấy câu chung chung, vì kẻ cần chọc quê đã chuồn mất. Lão gài thêm vào cuối giống như Khánh: “Toa cải chánh lời thằng đeo chim trên vai sao cho vui vẻ đôi bên”. Khánh bèn chuyển ý:

- Ông đại tá quen nói chuyện với các phóng viên Mỹ, và ngại chúng tôi chưa quen tiếp xúc với các phóng viên quốc tế, nên đã nhắc lại những quy định của Bộ ngoại giao Việt Nam mà ông hiểu rõ và nhất trí hoàn toàn.

Tướng Lâm không kịp chuồn, anh phóng viên Tây Đức đã chồm dậy:

- Thưa ngài thiếu tướng, vậy ra chúng tôi từ Đà Nẵng lên đây chỉ để ăn một bữa cơm và nghe các ngài căn dặn đôi điều?

Khánh dịch và lèo thêm: “Thiếu tướng nên cho họ đi xem các ấp định cư”. Nhưng lão Lâm lại hố lần nữa:

- Bộ tư lệnh Hoa Kỳ thấy chiến sự trên núi đang gia tăng, chưa muốn mời quý vị lên các căn cứ dã chiến trên núi. Quý vị có thể viếng thăm vùng bình định dân cư do quân lực Việt Nam đảm trách.

- Chiến sự gia tăng? Xin cho biết một vài số liệu và chi tiết.

- Khu vực hành quân từ sông Linh lên phía Tây do Bộ tư lệnh Đồng minh chỉ huy trực tiếp, hằng ngày có họp báo và bàn phối hợp giữa hai bên Mỹ - Việt, thường vào năm sáu giờ chiều. Tôi hy vọng ông đại úy thông tin công chúng sẽ trực tiếp gặp các vị chỉ huy Hoa Kỳ để cung cấp tình hình đầy đủ cho quý vị. Trong khi chờ đợi, vì các vị đang dừng chân trên khu vực do quân lực Việt Nam làm nhiệm vụ. Bộ tư lệnh quân đoàn Một kính mời quý vị một bữa trưa đạm bạc của nhà binh, mong quý vị không làm khách.

Khánh nghĩ thầm: “Té ra lão Lâm cũng bẻm mép ra trò!”.

Đoàn phóng viên mặt khó đăm đăm bước ra khỏi lều, đi vệ sinh ở những hố đổ tro và có khung vải bạt che, rửa tay và mặt. Bỗng anh chàng Ý kêu to:

- Thảo nào thằng đại tá đeo chim tránh đưa cánh ta đi xem chiến sự. Lý do trên trời kia!

Dù trời nắng gắt, cả đám kéo ùa ra chỗ quang để xem. Những tốp trực thăng võ trang chở quân nối nhau bay lên núi sáng nay, những cặp cần cẩu bay chân dài như sếu bay con thoi với các cỗ pháo lớn nhỏ, các lô-cốt bê-tông đúc sẵn, hình như đã rơi vào một trận địa của Vi -xi và sập bẫy khá nặng.

Liên tiếp có những bộ đôi hay bộ ba cần cẩu bay, với trực thăng võ trang Vi-king quần yểm trợ bên trên, xách về những xác trực thăng bẹp dúm hay đã gãy đôi gãy ba, những khẩu pháo vẹo nòng vỡ bánh, những xe ủi đất méo mó, và cả những gì còn lại của máy bay chiến đấu siêu âm Con ma hay Thần sấm. Trực thăng tải thương cũng nhiều. Đường bay về Đà Nẵng hay Chu Lai không xa, có thể bay con thoi một ngày nhiều chuyến. Tiếng bom và súng lớn sau rặng núi xanh văng vẳng đến khu vực chỉ huy này, chen vào giữa tiếng vo ve không bao giờ dứt của các loại máy bay thám thính L.19 hay OV.10. Từng lúc, tiếng nổ siêu âm bùng một loạt khi các máy bay chiến đấu phản lực lao lên núi hoặc từ núi trở về, các khối bom lửa bom phá và những thùng rốc-két đeo bên dưới đã biến hết. Có những chiếc đã xì đuôi khói đen dài bay lem lém lửa vẫn cố rướn về vùng an toàn trước khi phi công bấm nút cho ghế ngồi vọt ra và bung dù.

Đại úy Tét-đy chưa trở lại. Khánh phải ra mời khách về lều khi cơm bày xong.

Bữa cơm thành công khá đẹp. Tướng Lâm đã đặt tất cả các món ở tiệm ăn sang nhất Đà Nẵng, cho đầu bếp và hai cô hầu bàn theo, cùng nhiều bếp điện để hâm các món nóng, nhiều bình thủy nước sôi để làm khăn lau tay tẩm thơm và pha cà-phê. Có cả thực đơn đánh máy tiếng Anh và bốn loại đồ uống trong thùng nước đá cách nhiệt. Thức ăn hầu hết là Tàu nhưng đã Việt hóa bằng cách giảm béo, một số thức ăn Âu được bày sẵn, dành cho khách không quen ăn đồ Tàu là lão Lâm gọi phứa là các món dân tộc.

Quan khách đói bụng và được mời mọc sốt sắng, ăn như hùm uống như rồng, tấm tắc khen, xếp Việt Nam vào hàng những nước sành ăn nhất thế giới. Tướng Lâm ghìm bớt được cái tật uống như phễu, giữ được mức của ông chủ nhà vui tính và mến khách. Lão chu đáo đến nỗi gọi đầu bếp đến dặn nhỏ nhưng đủ cho Khánh nghe:

- Đây thiếu thông dịch viên, thiếu tá Khánh giúp tôi nói chuyện với khách quốc tế trên tình chiến hữu. Anh để dành phần thiếu tá thiệt sang, nghe chưa?

Rồi lão quay sang tán vui, và Khánh cố điểm xuyết khá nhiều nét trí tuệ khá uyên bác kiểu Tây Âu vào lời của lão. Cả mâm tiệc trố mắt hay gật gù tán thưởng. Họ xì xào với nhau mấy câu. Ông già Thụy-điển nạy đứt dây thép buộc nút chai sâm-banh, kéo mấy cái ly chân cao về phía mình, đứng dậy với ngón tay cái giữ nút chai:

- Vì là niên trưởng trong đoàn phóng viên, tôi được cử nói mấy lời với thiếu tướng, và qua thiếu tướng với các sĩ quan và binh sĩ dưới quyền thiếu tướng...

Lão Lâm đưa mắt cho Khánh. Khánh chỉ nói vội: “Trình thiếu tướng, tôi sẽ sang băng sau, dễ lắm!”

Ông Thụy-điển nói dài, có lẽ vì hơi men đã ngấm. Hoàn toàn không động đến cuộc thánh chiến chống cộng, bảo vệ thế giới tự do. Ông chỉ nói về nền văn hiến ngàn xưa của Việt Nam, khi Châu Âu và Châu Mỹ đang còn hoang dã. Một dân tộc như thế hoàn toàn xứng đáng được độc lập tự do. “Tôi không tưởng tượng được một vị tướng đã cầm quân đánh trận trong nhiều thập kỷ lại am hiểu đến thế về đất nước, con người và đời sống Âu - Mỹ. Chỉ qua những lời khiêm tốn của thiếu tướng, tôi thấy được truyền thống văn hóa của Việt Nam đã ngấm sâu vào tâm khảm mỗi người dân trên đất nước này...”

Cùng một lần với nút sâm-banh nổ bốp trên tay vị niên trưởng, một loạt tiếng nổ bật lên chung quanh bàn. Quan khách ùa tới chạm cốc với ngài chủ tiệc tươi như hoa. Khánh chen vào nhắc khẽ:

- Thiếu tướng đến chúc người phụ nữ duy nhất. Tên Mỹ Duyên, phóng viên AFP.

Tướng Lâm vẫy cô hầu bàn rót đầy các ly. Rồi lão mỉm nụ cười ga-lăng nhất, cầm ly sâm-banh sủi bọt đến bên Duyên, người khách kín tiếng:

- Xin được chạm cốc với người đẹp Mỹ Duyên mà tôi đã nghe danh tiếng từ lâu, một trong những người thông minh nhất trong nữ giới nước nhà! Xin mời các bạn cùng qua cạn cốc chúc sức khỏe và nhan sắc của nàng tiên cá xi-ren dùng sóng điện AFP làm tiếng hát!

Theo tục lệ, Mỹ Duyên ngồi nguyên chỗ, chỉ nâng cao ly rượu khi được chúc mừng, trong khi tất cả đàn ông ghé đến chạm cốc và uống đứng. Khánh cũng đến chúc và thoáng thấy trong mắt Duyên một ánh lửa mà chàng hiểu: ánh mắt căm giận cố nén trong khi môi vẫn cười tươi.

Sau tiệc, tướng Lâm ra vẫy viên thiếu úy hậu cần dặn nhỏ mấy câu. Mươi phút sau, một trung sĩ đến đứng nghiêm chào, xưng tên, đó là một học sinh rớt tú tài được tuyển làm phiên dịch tiếng Anh trong một tiểu đoàn có cố vấn Mỹ đi kèm. Lại tiếp bốn lính nữa vác đến một chục giường xếp khung nhôm phủ bạt còn mới tinh, lấy ở trạm cấp cứu của sư đoàn, quà tặng nhân đạo của Thụy-sĩ được chuyển sang quân đội xài.

- Nè Khánh, toa giao việc cho thằng em đây. Toa nói mấy câu mời khách nghỉ trưa rồi đi với moa, nói là có cuộc họp quan trọng. Mình bám hoài họ lại tưởng cố lấy lòng, kệ cha thằng Tét-đy nhai dẻ rách để họ ngán cái thói chơi cha thiên hạ của Mẽo. Lão Thụy-điển ranh như cáo, cố ý so sánh người mình nghèo mà văn minh, tụi Xịa giàu mà man rợ. Moa ăn nói... có tàm tạm không?

- Thật tình, thiếu tướng làm tôi sửng sốt. Một đại sứ lão luyện cũng phải bái phục!

- Ờ, ờ... vợ moa là chủ mấy cái khách sạn, hay mở tiệc mời khách ngoại quốc, rèn cho moa miết cũng quen. Thêm toa lại gài kiến thức vô nữa, biến moa thành nhà văn hóa, hớ hớ hớ!

- Chiều nay thiếu tướng định làm gì?

- Ngủ tới khi thằng đeo chim đến báo cáo, rồi vù về Đà Nẵng, để thằng đại tá sư Hai ở đây. Moa phải lo cả năm tỉnh, cả quân đoàn, đi thị sát bấy nhiêu thôi. Toa cũng về. Phóng viên để Xịa nó liệu.

- Trình thiếu tướng, tôi xin phép đi xem vùng này. Hồi nhỏ tôi hay về đây nghỉ hè. Nhà cha dượng tôi cũng ở gần đây, bây giờ tan hết.

- Ồ, moa quên, tức là ông tỉnh phó Ung Viết Đỉnh hả?

- Thưa phải.

- Nhớ đem theo vài ba cận vệ. Mà moa đã dặn, ngoài giờ làm việc thì đừng thưa trình gì cách biệt. Moa thứ năm, kêu bằng anh Năm hay anh Lâm là moa ưa nhứt! Đem theo một PRC.10 để khi cần moa kêu về.

*

* *

Một chiếc xe ủi đang dồn hết những đống gạch ngói còn lại của dinh quan phủ Đỉnh năm xưa, đẩy xuống ruộng. Một tiểu đội Mỹ đang dọn chỗ để đặt trận địa pháo tầm xa trên nền nhà còn chắc.

Một tên khoát tay từ xa ra hiệu cho Khánh cùng bốn cận vệ không được đến gần. Khánh cứ đến trước mũi súng chĩa hăm dọa. Nhìn thấy bông mai bạc trên ngực Khánh, tên Mỹ hậm hực chúc mũi súng xuống. Khánh nghiêm giọng:

- Tôi là thiếu tá, phái viên của thiếu tướng tư lệnh quân đoàn Một. Anh là chỉ huy ở đây?

- Phải.

- Anh hãy đứng nghiêm, xưng hô theo điều lệnh.

Tên Mỹ đỏ từ mặt xuống ngang thắt lưng vì cởi trần dưới nắng, chỉ đỏ thêm một ít. Tướng Oét-xty đã chỉ thị cho quân đội Mỹ phải chào cấp trên người Việt, khi ngang cấp thì cùng chào một lần. Nhưng bọn Mỹ khinh lũ gúk, lũ da màu, cứ lánh né. Dù sao, một hạ sĩ đeo lon chữ V úp sấp mà xấc láo với một bông mai bạc thì cũng quá quắt. Hắn dựng súng, chào qua loa, báo cáo cụt ngủn:

- Thưa thiếu tá, tiểu đội chúng tôi đang dọn chỗ đặt pháo lớn. Chúng tôi đang rất bận. Chúng tôi đề nghị bà đeo thẻ phóng viên trên ngực kia không chụp ảnh, đây là khu cấm.

Khánh quay lại. Thì ra Mỹ Duyên lặng lẽ nhập vào nhóm của Khánh lúc nào không rõ, đi cuối hàng. Duyên bước thẳng lên, cười nhẹ:

- Ông hạ sĩ có thể cho tôi gửi máy ảnh lại đây chứ?

- Bà là người Nhật?

- Các ông xem tướng tài thật...

- Nhật thì được. Bà cứ mang theo, đừng chụp.

Khánh chua kịp nổi cáu, tên hạ sĩ đã bỏ đi.

Lát sau, Khánh và Duyên đã lần đến chỗ khuất trên Dương Nai, để số cận vệ gác bên dưới đồi. Duyên leo dốc dưới nắng, mặt hồng lên như các cô ca sĩ đôi mươi. Khánh không để ý. Chàng vừa sa vào lưới nhện của kỷ niệm xưa. Khoảng cách mấy mươi năm vụt biến, hai bộ phim từ từ hiện trên hai màn ảnh đặt sát nhau, từng lúc chập chờn chồng lên nhau, khi tới khi lui...

Cậu học sinh Khải Định bơi sông Hương mỗi năm chín tháng, bơi sông Linh và biển Quy Nhơn ba tháng, đoạt giải vô địch bơi của học sinh Trung Kỳ, thường được gọi là chàng trai hấp dẫn nhất Thần Kinh... Những năm sống chật vật ở Hà Nội, túi tiền và dạ dày cùng rỗng, trải chiếu nằm gạo bài trên căn gác chật và hứng mùi hôi của bãi rác... rồi đến Mỹ Duyên với những cuộc ái ân vụng trộm ở Đà Nẵng và ngay ở đây. Những tài liệu kèm mấy khẩu súng tặng Việt Minh. Chín năm chống Pháp, tiếp tới sai lầm sau đình chiến, sụp hố bẫy của Quốc dân đảng với phủ Đỉnh, Bảy Suyền, Trọng Béo, cả một bầy đeo mặt nạ... Bà me Lợi Thịnh đã sớm lẩm cẩm, cô em gái út bám riết mẹ để vét sạch số vốn đem được vào Sài Gòn, coi Khánh như kẻ giành ăn... Còn lại ai nhỉ? Mỹ Duyên với đời riêng rất khó hiểu vẫn tìm mọi cách gần gũi mình, giúp mình khi gặp nguy. Và thằng em tập kết đã khá nổi tiếng, mở đài Hà Nội thường nghe tên nhạc sĩ Viết Chương, cả sáng tác lẫn nhắn tin vào Nam cho người thân và bạn bè...

- Anh Khánh!

Khánh vụt tỉnh, quay lại, không biết nước mắt đang chảy trên mặt mình, Duyên quay mặt đi để Khánh khỏi ngượng, trỏ xuống một chỗ trụi, trước kia đầy những bụi sim, mua, du dễ rậm rạp:

- Anh nhớ không? Chúng mình “loạn” với nhau mấy lần chỗ khuất này...

- Quên sao được? Hồi chống Pháp, vắng tin em lâu quá, anh lên đây đứng trong bụi rậm chỉ thấy công múa. Tới nay anh vẫn chưa hiểu vì sao em trốn kỹ thế?

- Và em cũng chưa hiểu vì sao anh từ chối không nhận vàng em gửi Thạch Sơn, không trả lời thư em.

- Dễ hiểu lắm. Chính quyền Việt Minh lo đánh mặt trước, để hậu phương rối tinh, bọn xấu chui vào nhiều quá, đạp người tốt đổ nhào. Hồi ấy anh không dám tin ai. Những người tốt cực kỳ như anh Cả Chanh hay ông Tư Chua làng này rụng hết...

Người lính mang PRC.10 đứng dưới gọi lên:

- Trình thiếu tá, có lệnh thiếu tướng kêu về làm việc.

Duyên nói vội khi đi xuống:

- Về Đà Nẵng em có chuyện rất, rất quan trọng nói với anh.

- Gặp đâu?

- Ở buồng em, khách sạn Bảo Gia, nhỏ xíu, buồng 21, ít ai để ý.

- Anh ở đêm được không?

- Nhờ ông Trần Hưng Đạo giúp thì được. Bảy giờ tối mai nghen?

Bóng người gác đã hiện lấp ló. Khánh đổi giọng:

- Thưa bà, rất khó tưởng tượng vùng này trước kia rất trù phú, là giao điểm các nguồn hàng từ biên giới Lào xuống biển, qua đường 56 và sông Linh đổ xuống Thu Bồn. Nay đã tan hoang không còn dấu vết.

- Do thiên tai, cũng do chiến tranh tàn khốc... Tôi hiểu ông.

Tướng Lâm ra lệnh gọi Khánh đến lần thứ ba trong khi cả nhóm đi vội về khu chỉ huy. Lão đứng ngoài lều bạt chờ Khánh:

- Mẹ cố tổ nó chớ. Thằng thiếu tướng Mắc Kru-gơ đi thị sát mà không thèm báo trước cho moa. Năm phút trước khi hạ cánh nó mới biểu tham mưu báo cho mình. Chậm chút nữa, moa cho năm bảy cây đui-xết quét rụng cả bầy.

Khánh nghĩ: “Phét, đố dám!”.

Tên tướng Mỹ đang làm việc với bọn tham mưu Mỹ. Khánh có thì giờ để phanh ngực trước quạt lạnh, uống một lon bia ướp đá. Bên ngoài nghe một loạt tiếng rập gót chào của đội cận vệ. Tướng Lâm, đại tá tham mưu trưởng và Khánh bước ra đón.

Tên tướng Mỹ không hách dịch như ông chủ trả lương, mà rất nhũn nhặn. Hắn chỉ bàn với tướng Lâm khoanh lại một khu vực đã giao cho quân Sài Gòn ở bờ phía Đông sông Linh đã đặt các pháo lớn tầm xa và các chiến xa hạng nặng. Tướng Lâm giả dại:

- Thưa thiếu tướng, Bộ của ngài đã cho chúng tôi bản đồ ghi mấy chục chỗ đặt pháo và xe tăng từ bờ Tây sông Linh trở lên. Ngài đặt ở đây, tầm hủy diệt sẽ rất hạn chế.

Hai viên tướng gườm gườm nhìn nhau bằng ánh mắt của đại bợm đụng đầu. Mỗi người nói những lời mà kẻ đối diện đã biết trước:

- Các đơn vị thủy quân lục chiến và kỵ binh bay của chúng tôi đang đụng độ với hàng loạt lực lượng Vi-xi: du kích Thượng với rất nhiều loại chông và bẫy phóng lao, các đại đội và tiểu đoàn của tỉnh, hai trung đoàn thuộc quân khu Năm, và hình như cả một sư đoàn Bắc Việt mới vào, lực lượng Mỹ bị giảm trong cuộc hành quân này vì có rất nhiều tin báo rằng Vi-xi sắp đánh chiếm Đak-tô, cũng vì chiến dịch lớn sẽ mở gần giới tuyến. Chúng ta có thể thương lượng...

Cuộc mặc cả kéo dài hơn một tiếng. Phía Mỹ chịu nhận sẽ yểm trợ bằng pháo và không quân đánh đêm cho khu vực Đông sông Linh, giúp tải thương ban đêm - vì quân Sài Gòn không quen bay đêm đánh đêm - kèm một khoản tài trợ lớn để định cư dân vào các ấp tân sanh mới, nhưng phải giao chánh quyền Việt Nam tại Đà Nẵng để chia thật công bằng.

Một thứ tiếng lạ tai rất trầm nổi lên trên sông Linh. Tên tướng Mỹ mời tướng Lâm ra xem một loạt chiến xa mới. Dọc sông Linh có một thứ gì giống như tàu đổ bộ bay trên mặt nước chừng mười thước, chậm như trực thăng chở quân. Tên trung tá gọi gì đó trong máy bộ đàm. Ba chiếc nối đuôi nhau hạ cánh dễ dàng xuống mặt ruộng khô.

- Mời thiếu tướng xem. Đây là loại chiến xa bay I-rô-côix đang thí nghiệm ở Trung Việt, đã được thử thách ở đồng bằng sông Cửu Long và ở Cao nguyên Trung phần. Nó bay bằng động cơ phản lực trên đệm không khí với tốc độ thay đổi từ 80 đến 700 ki-lô-mét/giờ, được trang bị bằng bảy súng máy nặng, nhiều phóng lựu và hỏa tiễn, bọc hợp kim cứng như thép chống pháo 37 ly của Vi-xi. Thiếu tướng đã xem họ hạ xuống đất đấy, chưa tới 150 mét đã dừng.

- Chắc thiếu tướng đã phóng hàng loạt lên vùng núi?

- Rất tiếc là chưa. Núi đèo ở đấy quá hiểm trở. Nhưng chúng có thể làm lá mộc vững chắc cho vùng ngài đang bình định.

Ba chiếc I-rơ-côix theo lệnh nhấc mình giữa bụi mù, bay chậm theo thung lũng sông Linh, mỗi chiếc để lại một xoáy nước rất sâu dưới bụng.

Xe xích đã kéo đến bốn khẩu 175 ly nòng dài với tầm bắn ba chục cây số vào chỗ nền nhà cũ của phủ Đỉnh. Lính Mỹ hối hả nhồi hàng trăm bao cát dựng thành vách che đạn súng cối và đại bác không giật nhiều cỡ của Vi -xi. Sẩm tối, các họng 175 ấy đã nhận được tọa độ và lệnh bắn. Đám dọn bãi nhai vội các khẩu phần C, uống cà-phê loãng mang đến trong các thùng nhôm, lăn ra ngủ như chết trong khi lính pháo lắp đạn và giật cò tiếng nổ đầu nòng không đủ đánh thức.

Đêm ấy Khánh ngủ trong dinh trại quân đoàn vì quá mệt, nên kịp nhấc máy điện thoại khi tướng Lâm gọi lúc một giờ sáng:

- Xin lỗi, và cảm ơn toa luôn luôn có mặt khi moa cần nhứt. Tụi Mẽo bị đặc công Vi-xi luồn vô đánh bãi xe tăng và pháo 175, hư hại vô số. Quân sư Khánh nghĩ moa phải làm gì?

- Trình thiếu tướng, quân Mỹ nhận phần đánh đêm, tải thương đêm, ghi biên bản rồi, cứ để họ làm như đã hẹn. Bên ta nên cho một chiếc C.47 đa-cô-ta lên thả hỏa châu, một đại đội biệt động quân lùng rừng tìm đặc công, thỉnh thoảng báo cho Mỹ một tọa độ nào đó nã pháo. Chắc chắn tụi đầu cọp tìm chỗ ngủ kỹ, thay phiên nhau trực...

- Hay, hay, hớ hớ hớ. Moa sẽ dặn tụi biệt động đem theo bản đồ pháo, địa bàn, phiên dịch. Mấy cha tham mưu đi ngủ với điếm hết, thằng trực dốt đui. Toa làm tâm lý chiến miết mà rành hơn bọn quân sự.

- Trình thiếu tướng, cũng phải hiểu tâm lý quân ta là ban đêm thích ngủ hơn lùng rừng chứ!

Lão Lâm cười to và đặt máy. Khánh xua ngay ý nghĩ về một kiểu kiểm tra đột xuất, cấp tướng không cần làm vậy, chỉ giao cho sĩ quan trực gọi và dặn đôi điều ấm ớ là đủ. Thường là “Bộ tư lệnh thông báo có thể Việt Cộng sắp phóng hỏa tiễn vô khu vực ta, phải đề phòng...”.

Tối hôm sau Khánh đến khách sạn Hảo Gia theo lối vòng vèo. Tướng Lâm đã ra lệnh các sĩ quan cấp tá ngủ đâu phải báo cho trực ban để gọi khi cần. Khánh ghi tên thuê phòng ngủ ở một khách sạn lớn, gọi anh hầu phòng ra giúi cho năm trăm, dặn ai có gọi điện hay tìm thì nói thiếu tá ở đây nhưng đã đi nhậu với mấy cô ca sĩ, chưa về. Rồi chàng đi bộ đến khách sạn Hảo Gia, một vi-la to được ngăn thành sáu phòng ngủ cho thuê, hai phòng tầng trệt dành cho bà chủ to béo và hai con trai chưa đến tuổi quân địch.

Mỹ Duyên đi phố chưa về, dặn nếu có thiếu tá Hai đến thì trao chìa khóa cho lên buồng nghỉ trước. Khánh nói đúng lời dặn, nhận chìa khóa, đưa tiền nhờ mua một chai cô-nhắc với đồ nhắm.

Khánh định uống thật say cho đỡ chán đời. Thằng Chung lại quậy phá không sao chịu nổi.

Chiều nay thằng Chung dẫn một đứa bạn ngoài hai mươi cũng tóc tai bù xù và ăn mặc xốc xếch như nó, đi bộ thẳng vào căn hộ của Khánh trong khu gia đình. Chị bếp và anh hạ sĩ hộ vệ biết mặt thằng con bụi đời nhưng không dám cản khi nó vào ga-ra để xe hơi. Nó sừng sộ khi đòi chìa khóa xe không được, thật ra Khánh chỉ bỏ trong ngăn kéo bàn đêm. Thằng bạn nó là thợ sửa xe, loay hoay tháo ổ khóa, đấu lại nối dây điện: máy bắt đầu nổ số không. Chúng leo lên xe, sang số nhỏ, chạy qua mặt lính gác cụm nhà sĩ quan, sang số lớn húc văng cây ngáng đường ở trạm gác cổng chính. Ba lính quân cảnh nhảy lên mô-tô ba bánh, còi đuổi theo, lại dừng ngay: chiếc ô-tô ra khỏi cổng lái ngoặt sang trái quá nhanh, đã vọt qua chỗ bùng binh cho xe tránh nhau, bay tiếp qua đường bên kia, nhào ngửa bốn bánh lên trời. Hai đứa không biết xe này lắp động cơ xe đua, bảng tốc độ sửa lại một cây số thành hai.

Hai đứa trộm xe văng ra ngoài, đều bị thương. Thằng lái nặng hơn, hộc máu và gãy tay vì bánh lái đánh trúng, thằng Chung chỉ toạc trán và đổ máu mũi. Chúng được chở vào bệnh xá của quân lao. Chiếc xe méo mó được kéo vào nhà thiếu tá Khánh.

Khánh về sau một ngày làm việc rất căng do trận “tìm diệt” Man-hat-tan bị thiệt hại “được coi là nặng” theo kiểu chơi chữ mới của tướng Oét-xty. Suốt ngày có điện thoại gọi, điện tín đánh về, điện đàm vô tuyến, công văn đánh máy. Trực ban tham mưu đã đưa tất cả những gì thuộc quân Sài Gòn cho sĩ quan tùy tùng, nhưng phần việc còn lại của sĩ quan liên lạc Việt - Mỹ vẫn bằng khối lượng hàng tuần hay nửa tháng trước đây, hầu hết là tối khẩn, tối mật, thỉnh thoảng chen vào một hỏa tốc dành cho “đích thân” tức tướng Lâm. Phải điều thêm hai thông dịch viên “rớt tú tài”, nói tiếng Anh nội hóa ở trường, làm thêm việc thu băng ghi âm và đánh máy ra giấy khi có thể, Khánh nghe băng và dò lại trước khi “trình đích thân”. Lão Lâm đêm qua đánh một trận rượu và gái, mới ngả lưng đã nghe quân Mỹ kêu cứu, chỉ ngủ được ba tiếng, hôm nay ngáp lia lịa:

- Tóm tắt đi toa... Ngắn ngắn gọn gọn, rồi toa dựa ý moa soạn công vãn hay điện trả lời. Moa chỉ trả lời thẳng với thằng trung tướng và thiếu tướng của Mẽo thôi.

Khánh về nhà mình trong khu gia đình, nghe hạ sĩ hộ vệ kể tỉ mỉ, xem cái xe méo mó, vỡ đèn vẹo bánh, lắc đầu. Cứ để thằng quỷ sứ trong quân lao đó, gặp nó chỉ thêm điên tiết. Khánh chỉ dặn tay hạ sĩ nói với trạm y tế quân lao cho nó thuốc men và ăn uống đầy đủ để mau lại sức, thiếu bao nhiêu tiền Khánh sẽ gửi sau, nhưng không cho ra ngoài, đợi xét xử đã.

... Mỹ Duyên đi đâu vẫn chưa về. Khánh xem lại đồng hồ, thấy mới sáu giờ hai mươi. Trong lúc bấn loạn, Khánh đã lầm giờ, quên cả ăn tối. Chàng đi tìm Mỹ Duyên như người sắp chết đuối cố rướn tới cái phao gần tầm tay.

Ly rượu mạnh bốc nóng từ bụng lên đầu Khánh. Dường như chất men xua bớt đám mây đen buồn giận trong óc. Khánh nghĩ đến thằng con càng lớn lên càng đảo ngược tính nết, cố nhớ xem nó sinh vào tháng nào trong năm 1949. Đủ mười tám tuổi thì tòa án binh xử, vì trộm xe trong khu vực quân sự. Chưa đến mười tám thì đi trại trừng giới. Trong Nam phần, có trại Thủ Đức cho đám trẻ mới phạm, tái phạm lỳ thì đi Phú Quốc, chẳng biết Quảng Nam và Quảng Tín có trại trừng giới không nhỉ... Khánh rùng mình. Vào các lao các trại ấy, nó sẽ ăn đòn nhập môn, làm nô lệ hầu hạ bọn đại ca, ngoài ra còn những trò đánh đấm đá đạp của giám thị. Tòa xử thì sẽ rất nặng: quái xế cũng lắm mức, xế điếc nhẹ, xế nổ hai hay xế nổ ba nặng hơn, đây nó lại vào tận nhà cướp xế nổ bốn trong khu quân sự... Đáp lại, thằng Chung sẽ mượn dịp chửi ba nó bằng những lời vu vạ độc hiểm nhất khi ra tòa.

Khánh đã cạn ly thứ hai, rồi thứ ba. Cố nhai một miếng nem chua không thấy mùi vị gì. Chả giờ cũng vậy. Hơi nóng bây giờ dồn cả vào cổ họng, Khánh uống thêm để giập lửa...

- Anh Khánh! Anh Khánh!

Khánh gượng mở mắt, thấy ba cô Duyên trước mắt. Giụi mắt mấy cái, còn lại hai cô, rồi một cô với cái bóng ngấp nghé đằng sau.

- Anh uống tới hai phần chai Mác-ten, dễ sợ, hèn gì say mèm. Anh ăn tối chưa?

Khánh lắc đầu.

- Uống bụng đói nữa! Để em giúp cho thoát say...

Duyên mở cặp da, lấy đưa một viên nhộng màu xanh cho Khánh uống với nước chín trong bình. Xong, lại bảo Khánh chuẩn bị nôn. Cơn buồn nôn đến khá nhanh, Khánh chỉ kịp vào buồng tắm nôn thốc tháo vào hố xí máy, đến khi đau quặn trong bụng rỗng. Duyên mở sẵn vòi nước chỗ rửa mặt cho Khánh, còn giội thêm nước lạnh ướt đẫm tóc và đầu. Dễ chịu rồi.

Khánh ra ngoài, thấy Duyên đang cắt những lát chanh mỏng kèm một đĩa con muối tiêu. Thêm một quả khế nữa.

- Anh ăn cho dã rượu. Tối nay anh thích ăn gì?

- Gì cũng được. Ờ, ờ, cho anh tô cháo lòng với đĩa bánh cuốn nóng, mấy thứ đó khu gia binh không có.

Duyên bấm chuông gọi hầu phòng. Người mới đổi phiên là một ông tóc hoa râm, dáng bệ vệ như ông quản lý khách sạn bốn năm sao.

- Nhờ ông cảm phiền cho người đi mua giùm mấy món ghi giấy đây, nhà tôi chưa kịp ăn tối. Tối nay nhà tôi nghỉ đây với tôi.

- Vậy xin bà trả cho khoản phụ trội, và xin ông gởi cạc để tôi đưa cho bà tiếp tân. Dạo này cảnh sát hay đến tra sổ ban đêm tìm khách thiếu giấy tờ...

- Tụi nó đòi ăn đó thôi, ông. Vợ chồng già gặp nhau mà ai đem giấy tờ làm gì. Xin góp chút xíu để ông lót tay tụi nó.

Duyên cười tươi, rút đưa cho ông hầu phòng bốn tờ năm trăm, đưa thêm hai tò nữa để mua đồ ăn. Được món bổng đế vương, ông kia cúi chào và lặng lẽ bước ra. Cái nhà trọ thổi phồng lên khách sạn này chẳng mấy khi được một bà khách dễ tính và hào phóng như vậy.

Khánh đã tỉnh táo hẳn sau khi nhai gần hết quả chua chấm muối. Chàng thong thả kể tội thằng Chung, kể những nỗi thất vọng liên miên từ ngày rời Việt Minh trở về thành phố mười ba năm trước, tan nát hết rồi. Duyên nghe chăm chú, nhưng Khánh cảm thấy mỗi lúc một rõ rằng Duyên biết tất cả, chỉ muốn nghe lời nói và giọng nói của chàng.

- Anh chán hết mọi thứ trên đời, chỉ trừ em. Vì sao anh lại được một thiên thần hộ mệnh luôn luôn hiện lên khi anh bế tắc, buồn khổ? Anh đâu có xứng đáng với em?

Duyên nhắm mắt như choáng váng sắp ngã. Tiếng gõ cửa đánh thức cả hai. Đợi người hầu phòng đặt mâm thức ăn trên bàn - có thêm bánh bao và bia, nước ngọt ngoài các thứ Khánh dặn - cúi chào và bước ra, Duyên gài chốt cửa, đến ngồi trên đùi Khánh, quàng tay ôm cổ người tình. Khánh ghì hai tay, ghì môi. Cái hôn kéo dài mãi đến khi Duyên giẫy ra, hổn hển:

- Em gãy xương nghẹt thở muốn chết. Khiếp mấy ông “nhà banh” rồi. Anh ăn các thứ đi, nguội hết, no bụng em mới nói, quan trọng cực kỳ nghen.

Khánh ăn vội vã tô cháo lòng còn nóng. Càng ăn càng thấy đói, chàng ngốn vèo hết đĩa bánh cuốn, thêm luôn hai bánh bao, dốc cạn một lon cô-ca cô-la mữa mới đủ no. Duyên tủm tỉm:

- Vậy mới đúng phong độ người hùng chớ, Tây nó nói: bụng đói không hề có tai. Anh sẵn sàng nghe chưa?

- Buồng em có “rệp” không?

- Yên chí lớn. Em dò kỹ rồi, không có máy ghi âm hay máy nghe. Mà có ai rình thì em được ông Thánh Trần[1] báo trước. Anh cẩn thận là phải.

Duyên lấy máy thu thanh bán dẫn ra, mở đúng đài Sài Gòn, đem đặt sát cửa vào, cho loa chõ ra ngoài. Lại vào buồng tắm mở nước hoa sen phụt rào rào.

Nàng nghiêm giọng khi nói:

- Trước hết, anh cần đọc ngay tại đây ba lá thư gửi cho anh. Một là của anh Phan Chanh, bí thư tỉnh ủy. Thứ hai là của anh Thạch Sơn bạn cũ ở Hà Nội. Thứ ba, nhạc sĩ Viết Chương em ruột anh. Coi thiệt kỹ để sau phải đốt.

Khánh ngẩn người khi nhận ba phong bì bằng nhựa trong dán kín chống ướt. Thư được xếp nhỏ, quấn một dải giấy mỏng ghi tắt: TS, PCh, VCh. không đề tên người nhận, rõ là thư chuyển theo đường dây mật. Phần lớn thư đến được miền Nam phải đi vòng vèo: từ Hà Nội gửi sang Pháp, Việt kiều ở Pháp thay bì chuyển về miền Nam, và phải viết rất bóng gió rằng ở Pa-ri rất nhớ quê hương, ơn Chúa phù hộ được những gì. Chương đã gửi hai lá thư như thế cho Khánh, đều có dấu vết mở ra dán lại cả, bọn mật vụ Sài Gòn rình mò rất sát.

Khánh cắt túi ni-lông bọc bằng kéo con Duyên đưa, chợt thấy tay mình run. Vì sao nhỉ? Chẳng lẽ những người thân, cũ từ lâu đã biến mất lại khiến mình xúc động đến thế?

Thư Cả Chanh hơi dài hơn mức anh thường viết, bốn trang giấy mỏng. Không giống kiểu chữ viết văn điện tín hớt đầu cắt đuôi như trong các thứ công tác trước đây, nhưng nét chữ không lẫn được.

... Nói tình thiệt, anh làm tất cả chúng tôi sững sờ khi nghe tin anh bỏ về Đà Nẵng với thằng S. Tới khi đọc lá thư anh để lại, chúng tôi mới hiểu thêm, chớ ban đầu chúng tôi hết sức áy náy, tự hỏi mình có gì sai sót để cho một đồng chí tham gia từ hồi bí mật phải rời bỏ hàng ngũ sau ngày kháng chiến thành công.

Theo dõi bước đi của anh suốt mười ba năm qua, chúng tôi biết anh trải qua nhiều cơn sóng gió, bị hành hạ nhiều về tinh thần và thể xác nữa. Chắc anh đã có dịp so sánh thái độ của chúng tôi với cách đối xử của Mỹ - ngụy. Mong anh suy nghĩ và chọn lựa con đường đúng. Chúng ta cùng lứa tuổi còn sống lâu, còn gặp nhiều ngã ba ngã tư càng phải rẽ sao cho đúng. Tôi thiết tha mong anh rẽ về phía Tổ quốc và nhân dân đang mở rộng đôi cánh tay chờ anh...

Anh ấy vẫn điềm đạm và trung hậu như xưa, trong khi bụng dạ mình cứ như một chậu đầy lươn trườn bò lung tung. Khánh đọc sang thư Thạch Sơn. Thì ra lâu nay cậu ta ở lại miền Nam. Trong các thông báo mật của vùng chiến thuật Một chỉ thấy nêu tên Phan Thanh Trà tức Phan Chanh cùng hàng trăm cán bộ Việt Cộng khác, không hề có tên Thạch Sơn tức “Sơn báo động”, Sơn A-léc, như sinh viên trường Luật hay chế, vì lúc nào cũng hối hả, tất tưởi như ma đuổi. Là người Bắc chính hiệu, chắc cậu ta ở lẫn trong số dân di cư từ Bùi Chu, Phát Diệm. Lời thư nồng nàn nhưng kín đáo.

... Về đi chứ, người giáo hữu thân mến! Sau nhiều năm khô đạo rồi bỏ đạo, bạn đã bị cám dỗ theo bọn tin vơ thờ quấy. Quỷ Satan mua được bạn bằng giá rẻ, sau đó đã đẩy bạn vào những nỗi đau buồn triền miên chẳng dứt. Hãy mau trở về, như đứa con lầm lạc trong Thánh kinh quay về nhà trong sự hân hoan chung... Giáo hữu Simon sẽ nói rõ hơn lời kêu gọi của Hội thánh và lời dặn dò của Đức giám mục...

- Simon là ai, Duyên?

- Là Simonette - Duyên trỏ vào ngực mình. Khánh định hỏi tiếp, nhưng Duyên ra hiệu cứ đọc hết ba lá thư. Thì ra lâu nay Khánh ngờ ngợ không đến nỗi sai.

Thư của Viết Chương không có gì mới và cũng không bóng gió. Cô em gái Ung Thị Nguyệt vẫn sống với chồng sĩ quan, ba con, khá vất vả vì ông chồng thượng tá luôn luôn đi chiến trường xa trong khi “tổng Giôn” ném bom ngày càng hung ác. Nhưng con em gái chuyên khóc nhè và mê tiểu thuyết tình loại ba xu nay đã tốt nghiệp đại học sư phạm khoa Lý, và “bây giờ nó chuyên nói lý anh ạ, cả vật lý lẫn lý sự, lý luận, còn em là vịt nghe sấm. Anh chưa lấy vợ là chuyện chúng em thấy lạ, anh đã 43 tuổi mà vẫn tự do như không khí, như gió trời. Nói trộm phép cô em đầy mình lý lẽ, em là mục tiêu tấn công của khá nhiều cô văn công thích nhạc của Viết Chương đâm ra thích người, đôi khi dính tí bom đạn cho có vẻ trai hùng Nam quốc vào chốn băng bó, thì lại bị các cô từ y tá đến bác sĩ đánh đuôi nheo, phiền thế. Em cứ hô thầm khẩu hiệu: “Tự do trên hết, tự do muôn năm”, mỗi khi lộn xộn cõi lòng...”

Kèm theo thư có một ảnh màu phóng nhỏ nhưng nét khá sắc của Chương đang hát, có dàn nhạc người Âu hai bên, mặt sau đề: Berlin, 10/1966. Thằng em lêu têu, học ít chơi nhiều năm xưa nổi tiếng đến thế!

Mỹ Duyên ngồi im trong khi Khánh đọc rất kỹ ba lá thư, đọc lại những đoạn quan trọng, nhất là trong thư anh Chanh. Nàng vẫn loay hoay mãi, phân vân mãi: nên nói hết hay không nói? Thiếu gì người mong tâm sự riêng, sống để bụng chết chôn theo?

Năm ngoái, Duyên bay gấp ra Đà Nẵng và Huế vào tháng Năm 1966, lại vào Đà Nẵng giữa lúc lính dù và thủy quân lục chiến của thủ tướng Kỳ được phái ra đánh dẹp sư đoàn Một phản chiến cùng phong trào Phật giáo, thanh niên, dân thành phố chống đối. Bọn Mỹ sợ đổ thêm dầu vào ngọn lửa chống Mỹ nên cấm trại 24 trên 24 tiếng, chỉ cho không quân đi đánh các vùng căn cứ phía Tây, để mặc cho tướng Bảy và quân của Kỳ tự lo liệu, cũng tránh giao thiệp với các tư lệnh Việt Nam vì chẳng biết ai sẽ lật ai, nạn dịch đảo chính chưa chắc đã dứt.

Duyên rủ Khánh mặc thường phục đi dạo phố suốt một chiều và một tối, cố tránh những làn đạn hai bên, vào núp trong khuôn viên của một chùa lớn lúc này đang chất đầy những người dân chết và bị thương. Súng cối và phóng lựu nổ khá nhiều trong các khu đông người. Một nhóm Phật tử đang khiêng người bị thương gần đến cổng chùa bị một quả phóng lựu rơi vào giữa, sáu người lăn ra trong vũng máu. Khánh nhào ra khỏi cổng bế xốc từng người chạy vào chùa, mấy trai trẻ khác nhào theo. Các ni cô áo xám lóng ngóng rụng rời. Khánh quát:

- Xé vải sạch làm băng. Vải mùng cũng được, rọc băng giấy cũng được. Pha một chậu nước muối thật mặn, nấu một thùng nước chín, mau. Kiếm dây làm ga-rô. Chạy các cửa hàng kiếm thuốc sát trùng, mua vi-ta-min K với ống tiêm cầm máu, hay thứ đóng viên cũng được…

Xác chết và người bị thương vẫn ùn ùn tuôn qua cổng chùa. Một quả cối 60 rơi nổ trong chùa, nhưng chỉ phá sập tường sau, chỗ không người.

Hai chiếc xe tư nhân hết khách chạy chậm rì rì đến gần, các mũi và sườn đều dán giấy chữ to XE ĐÒ. Khánh nhào ra, rút lon thiếu ta vẫy, tay kia cũng rút súng ngắn ra dọa. Lái xe dừng miễn cưỡng. Khánh ra lệnh chở người bị thương vào bệnh viện công và tư “nhân danh Bộ tư lệnh quân đoàn”. Hai người lái sợ súng hơn sợ lon, phải lái vào sân chùa. Khánh chỉ huy, thu xếp, đưa đi được hơn bảy chục người chồng chất. Chàng thu xếp mãi đến khi trong chùa chỉ còn xác chết đợi người nhà đến nhận. Tiếng súng dọc phố đã ngớt, xe xích-lô chở các bà các chị đến chùa tìm xác kéo đến mỗi lúc một đông. Khánh nhìn lại bộ quần áo đẫm máu trên mình, nhờ Duyên đến nhà quen gần đấy mượn cho một áo mưa mặc ngoài, cùng đi chung xích-lô về khách sạn Duyên ở, rồi về khu gia binh quân đoàn. Thượng sĩ chỗ trạm gác quen mặt, tấm tắc: “Thiếu tá đi sát kiểu đó, dễ trúng đạn hai bên quá!”.

Duyên không sao quên được vẻ căm hờn dữ dội trên mặt Khánh cùng những câu chửi rít răng: “đồ uống máu không tanh, đồ chó má, quân ăn thịt đàn bà trẻ con..”. Duyên đã định nói với Khánh cái “chuyện ấy” nhưng Khánh bị tướng Bảy kéo theo ra tận giới tuyến, không kịp gặp lại...

Lần này, ảnh nhìn cảnh Linh Lâm cùng tất cả vùng rừng núi bị hủy diệt, đã khóc lặng lẽ nhưng không giấu nổi. Lão phủ Đỉnh bám Quốc dân đảng lâu đến thế, mà phải hối lộ nhiều đợt đến ngót trăm cây vàng mới giành và giữ được cái ghế tỉnh phó, chỉ được xếp ngang với thiếu tá thực thụ, vì tỉnh trưởng là trung tá. Còn ảnh bị tra tấn đến ngắc ngoải mới chịu bỏ nghề dạy học, nhận lon sĩ quan. Một con người rất lạ. Thể xác cường tráng nhưng tâm hồn yếu đuối, dễ hờn tủi. Vô cùng thông minh và ham học, trình độ cao hơn nhiều so với lớp trẻ đã có bằng đại học Văn khoa, nhưng ứng xử trong đời hết sai chỗ này đến vấp chỗ khác, làm khổ cô Năm Bưởi, bị thằng Chung hành hạ như báo oán, và sai nặng nhất là “đi tìm trưa tròn bóng lúc hai giờ chiều” với ảo tưởng có thể xây một chế độ dân chủ kiểu Pháp hay Anh trên đất nước này, đã đi tìm tình cảm gia đình khi mọi con người đã đổi thay... Ảnh không thể trở mặt tố cáo Duyên được, nhưng có dám vượt qua lớp rào của tự ái, của sĩ diện, để quay về không?

Ảnh hơn Duyên hai tuổi nhưng trông trẻ hơn nhiều, vẫn thân hình dẻo và chắc nhờ bơi lội nhiều, nhưng dày dặn hơn. Mái tóc cắt kiểu thể thao, khuôn mặt có nhiều nét “tây lai” thường được gọi là “kép xi-nê”, ảnh được rất nhiều cô mê tít thò lò, mà vẫn thủy chung với người tình đã từng là gái nhảy, gái bao, vợ ba của cha dượng mình... Mỗi lần nghĩ đến chỗ lạ này, tất cả con người Mỹ Duyên chợt thấy ấm nóng hẳn lên, muốn vất hết mọi việc dở dang để bay đến với ảnh, lao ngay vào đôi cánh tay vạm vỡ và háo hức kia...

- Xong rồi đây, Duyên. Em thủ tiêu đi.

Duyên vào buồng vệ sinh, xé vụn từng lá thư thả xuống chậu, giật nước cho trôi biến. Làm thế trong phòng không bay mùi giấy đốt.

Khánh mở một chai bia, rót nhấm nháp từng ngụm.

- Anh phải hỏi lần nữa đây. Em là ai, Duyên?

Duyên không đùa cợt ỡm ờ như trước:

- Em là cơ sở của Mặt trận Giải phóng.

- Vậy anh đoán mò không đến nỗi sai. Địch vận hả?

- Không, chỉ lấy tin, đưa tin.

- Ba lá thư, chỉ có thư thằng Chương có đề ngày, viết cách đây hơn ba tháng. Hồi chống Pháp thư leo núi nhanh hơn... Mà quên, từ trên núi xuống đây cũng mất nhiều tuần nữa... Em gặp anh Cả Chanh với Thạch Sơn hồi nào?

- Cách đây hơn một tháng. Em dự một lớp ngắn bảy ngày, anh Sơn hướng dẫn. Bí mật ghê lắm. Mấy chục người học chung mà không ai biết mặt ai. Mỗi người được phát một cái nón lá, có vải mùng bao ngoài như đàn bà Ả-rập Hồi giáo, trên nón dán giấy đề bí danh. Học xong, chẳng ai bị lộ. Anh Chanh bận chống càn quét, không tới được, chỉ gởi thư thăm chung, viết riêng cho anh. Chắc anh biết bây giờ ảnh là bí thứ tỉnh, khu ủy viên rồi.

- Bọn chiêu hồi khai hết. Tụi nó nói ông Chanh là Cộng sản tới xương tủy mà có uy tín lắm. Đối với loại gạo cội, chí cốt, có sạn trong đầu đó, hễ bắt được thì giết ngay hay chuồng cọp chung thân thôi. Thằng tướng Lâm tính bắt được thì giam kỹ, nuôi khá, để trao đổi tù binh về sau... Em xem, anh có nên trả lời ngay không?

- Anh định trả lời sao?

Một phút im lặng. Ba phút. Năm phút, rồi Khánh ngập ngừng:

- Ờ, ờ... Tôi trót dại đi lạc đường, chẳng mặt mũi nào nhìn lại đồng chí cũ... với hai tay nhúng chàm...

- Anh không đủ can đảm tháo bỏ quả tạ níu chân anh? Té ra người hùng Ung Viết Khánh chỉ là đứa hèn nhát!

- Ô hay, Duyên!

- Anh nhảy vô cứu đờn bà trẻ nít, thấy mình cao thượng lắm, nhung lại tiếp tay cho bọn giết dân không kịp đếm. Anh cao thượng một xu mà gây tội một đồng. Anh đau lòng trước cảnh đất nước bị tàn phá, rồi sau đó góp sức cho tụi Mỹ phá nát thêm nữa. Anh giống y nguyên bọn lái B.52 hay pháo thủ: tôi chỉ biết bấm nút thả bom hay giựt cò đại bác theo lệnh cấp trên, lương tâm tôi trong sạch trước Chúa.

- Duyên, Duyên, em hiểu lầm anh quá đấy...

- Xin mời nhà đạo đức giả ra về!

- Em đuổi anh?

- Đúng, xin mời thiếu tá về dinh! Còn may, tôi không giữ lại bằng chứng nào của cộng sản, sẽ trắng án trước tòa án quân sự...

Duyên ra cửa, tắt máy thu thanh chạy pin nãy giờ nheo nhéo, mở rộng cửa, lại vào nhà vệ sinh khóa vòi hoa sen. Khánh chậm chạp bước ra, quay nhìn lại: Duyên vịn một tay trên lưng ghế, mắt long lên trong cơn giận khó ngờ mà Khánh chưa từng thấy từ khi biết nhau. Cánh cửa đập mạnh sau lưng chàng.

Ngày hôm sau, Khánh như người mất hồn, cầm gì rót nấy, mắt trũng thành bọc. Các đồng sự đều tưởng vì thằng Chung trộm xe, họ thi nhau kể những chuyện “con là nợ, vợ là oan gia” để Khánh thấy còn những tai họa gia đình lớn hơn nhiều. Càng nghe càng ù tai nhức óc, Khánh xin phép về nhà thu xếp. Chàng lăn ra ngủ, chỉ dậy một lần khi xưởng sửa xe quân sự được phái đến lấy xe về tu bổ. Sợ lộ phần máy ngụy trang, chàng t