Chương 5 CÔ GÁI BÊN SÔNG TẦN-HOÀI
I
Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần-Hoài cận tửu gia
Cảnh con sông Tần-Hoài, khói mờ mờ trên dòng nước lạnh, trăng mờ mờ trên bãi cát trắng, Khiết còn nhớ lắm. Tiếng hát trên sông Hương nước nhà càng làm tôn vẻ trầm lặng của dòng sông chốn cố đô, nhưng tiếng hát trên sông Tần-Hoài ồn-ào hơn vì còn kèm theo cả tiếng trống lớn. Không nhưng trên sông mà cả trên lầu các tửu điếm đều có ca nữ múa hát, càng về khuya càng ồn vì các khách khi đã quá chén bèn rủ nhau đánh “toan”, cùng giơ tay hét lớn như trò chơi “oản tù tì” của trẻ con Việt - họ bảo phải thế mới dã rượu. Cũng có đôi khi tiếng ồn-ào chợt bặt đi trong khoảnh khắc, khách ngồi uống trà trên quán lắng nghe xa xa ở bên kia sông vọng lại tiếng ca nương, thật đúng với hai câu dưới bài “Bạc-Tần-Hoài” của nhà thơ đời Vãn Đường:
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu-Đình-Hoa.
Buổi sáng, thủy triều rút, thuyền mắc cạn nằm ngổn-ngạng trên bùn đen, tháp- thoáng trong khoang vài ca nương mới dậy, mặt không phấn son uể-oải vươn vai che miệng, sông Tần-Hoài quãng này, giờ này trông thật tiêu điều. Nhưng cũng giờ này, quãng trên một chút, cảnh lại khác hẳn, ven bờ sông là bãi cát trắng xoá thoai- thoải, trên bờ sông là hàng liễu rủ, những người đàn bà mặc quần hồng, đi giặt quần áo, tay cầm chày. Giữa sông có cái soi và cũng có dáng liễu rủ và lấp-loáng đàn cò khi bay lên, lúc sà xuống, thực là cả một bức tranh cổ tuyệt đẹp.
Bữa cơn họp mặt lần đầu chiều nào, khi nhắc đến sông Tần-Hoài, Khiết vội lảng đi vì chàng biết nếu tiếp tục tất nhiên chàng sẽ thuật lại mối tình của chàng với cô gái bên sông Tần-Hoài mà chàng mới cưới làm vợ được hơn một năm, cô gái đó là em Khoá, người bạn đồng niên với chàng. Một buổi sơ kiến mà đã tâm sự ngay “thiên tình sử” của mình thì dù bản tính cởi mở đến mầy xem ra cũng chương-chướng. Câu chuyện đó tất nhiên sau này Khiết có dịp kể lướt với các bạn Hiển, Hãng, Kha.
Ông đô Cán - (cha Khoá) - không có đứa con nào với đời vợ trước cả, số hiếm hoi vì - theo như sự nhận xét của ông đồ Thinh - (cha Chủy) - cung tử tức của ông Mần-Trí (tên tự của ông đô Cán) có sao Bạch Hổ, hổ thường ăn con (như vậy thì ông còn... ăn cả đời vợ trước nữa). Năm thăng chửc từ thừa-phái lên đô lại, ông Mần-Trí được chuyện nhậm từ huyện lỵ Lập-Thạch (Vĩnh-Yên) tới huyện lỵ Yên- Hưng (Quảng-Yên), năm đó ông đã goá vợ được hai năm và thực sự nghiện thuốc phiện được một năm. ông thường từ huyện lỵ Yên-Hưng xuống thuyền biển hay ca- nô đến hai miền Đồng-Bài và Ninh-Tiếp, hai miền này nhô hẳn ra vịnh Hạ-Long thành hình một bán đảo nhỏ, dân cư chuyên nghề làm muối-nầu. ở Ninh-Tiếp ông gặp một cô gái vừa đến tuổi dậy thì, xinh đẹp, thông minh, biết viết chữ nho, đọc được chữ nôm và lẽ cố nhiên cả chữ quốc ngữ nữa, cô Mai. Cha cô là một nhà nho đã đỗ cử nhân nhưng không chịu ra làm quan, có hoạt động cho phong trào Đông- Kinh Nghĩa-Thục, bị bắt đày ra Cộn-Đảo rồi chết ở đó. Lớn lên cô giúp mẹ mở một ngôi hàng xén nghèo nàn, cuộc sống lần hồi lay-lứt. ông đô Xán đã giúp cô một sổ tiền vốn nhỏ để thuê nhân công ngày ngày gánh nước biển đổ vào trõ rồi đi chặt những cây xú, cây vẹt làm củi đun” khi nươc biển đã bốc hết hơi thì gạn láy muối.
Thứ muối-nấu của hai miền Đông-Bài và Ninh-Tiếp này đặc biệt hạt nhỏ và trắng, mặn vừa phải, thường dùng ở mâm ăn, vắt chanh rắc tiêu để chấm thịt, không đủ mặn như muối Văn-Lý để muối dưa muối cà. Làm muối được một năm, gia đình sung túc, không những hai mẹ con đỡ vất-vả mà còn dư tiền cưu mang cho người con nhà bác tiếp tục ăn học tại Hải-Phòng. Đùng một cái, điều mà Mai không ngờ nhất, ông Đô ướm hỏi nàng làm vợ, ông Đô với nàng như anh cả với em út, số tuổi chênh lệch dễ đến mười lăm mười sáu tuổi. Mai biết ông Đô nghiện thuốc phiện, điều mà nàng không ưa chút nào, nhưng biết sao bây giờ, mẹ con nàng làm ăn mát mặt, há chẳng nhờ lòng tốt hết sức tìm cách giúp đỡ của ông Đô? Những lời giáo huấn của cha thuở nhỏ rồi của mẹ về sau này khi cha nàng đã bị đày ra Côn-Đảo, những điều lễ nghĩa nàng đọc trong sách chữ nho, những gương lễ nghĩa nàng đọc trong sách chữ nôm không cho phép nàng xử sự như một người vong ân: nàng nhận lời. Âu cũng là trường hợp đem thân mà trả nợ đời cho xong! Yên bề nghi thất nghi gia, Mai vừa đầy năm mẹ cũng vừa đầy tháng con, đứa con trai đầu lòng đó đặt tên là Khoá. Mẹ nàng mất, từ đấy Mai bỏ nghề làm muối, theo chồng mười lăm năm trường hết huyện lỵ trung du này đến châu lỵ thượng du khác, thêm mấy lần nữa hữu sinh nhưng vô dưỡng.
II
Khoá lớn lên gần mẹ hơn là gần cha. Năm lên năm Khoá đã được mẹ dạy Tam- Tự-Kinh; năm lên sáu, vẫn mẹ dạy vỡ lòng chữ quốc ngữ rồi mới tới trường, ông Đô đổi đi đây đi đó luôn, ít khi Khoá được học ba năm liền một trường. Khoá rất khéo tay, năm mười ba tuổi đã biết tiêm thuốc phiện cho cha, mà tiêm khéo. “Tài giả vi nô”, chính vì vậy mà ông Đô giữ dịt lấy con, không chịu gửi Khoá về thành thị tiếp tục theo trung học. Tiêm thuốc cho cha, nhưng Khoá vẫn gần mẹ; ở trường học hay ở trường đời, có điều gì bỡ-ngỡ, Khoá chỉ hỏi mẹ mà chẳng bao giờ hỏi cha. Bà Đô hai cũng đã khuyên ông Đô đừng kéo dài thời gian nằm bên bàn đèn để làm mất nhiều thời gian học bài của Khoá và khi có bạn hút thì hai người tiêm cho nhau, Khoá tuyệt đối chỉ hầu có cha.
Sau cùng ông Đô đổi lên Lao-Kay. Lúc này ông đã già yếu lắm rồi, nghiện nặng, lộc giời kém đi, số tiền lương đổ cả vào cái xe cái lọ nhỏ bé mà không đáy. Bà Đô hai có mang lần nữa...
Người anh con nhà bác trứơc được bà cưu mang nay học đã thành tài, có bằng thông ngôn, được bổ chân thư ký toà lãnh sự thoạt ở Vân-Nam rồi đổi đến Mông-Tự. Từ Lao-Kay sang Mông-Tự đắt Tàu hết một ngày đường. Vào dịp ông Đô xin nghỉ hằng năm một tuần, Khoá đựơc theo cha mẹ đi Mông-Tự thăm ông bác bên ngoại này. Chuyến đi đó là khúc quành lớn trong đời Khoá, là mấu nút cho bao biến cố, biến cố nội tâm, biến cố gia đình, năm đó Khoá vừa mười sáu tuổi. Từ Lao-Kay đến ga Piche-Tchay thì xuống, sang chiếc tàu hỏa nhỏ hơn đi vào Mông-Tự, (tự ga Piche-Tchay, xe hỏa lớn đi thẳng Vân-Nam). Cảnh đồi núi miền cao nguyên này thổi vào hồn Khoá một tình cảm dạt-dào man-mác lạ, gió cao nguyên còn như nhân đà đó thổi nâng hồn Khoá lên một miền phóng khoáng và suốt đời Khoá sau này nhất nhất mọi cử chỉ đều đượm tính chất phóng khoáng của gió cao nguyên. Lẽ cố nhiên tiểu gia đình ông Đô Cán là thượng khách của ông Hải - tên người anh con nhà bác của bà Đô hai. Ngay hôm đầu, Khoá được cha mẹ cho mặc áo ám để bác Hải dẫn đến thăm một cái hồ trên núi cao miền Khề-Lùng-Thán, cách Mông-Tự mấy chục cây số (ông Đô ở nhà, còn phải hút, bà Đô vì có mang nên tránh leo núi) Khóa được bác Hải kể chuyện rằng hồ này xưa có con rắn tu thành rồng...
Ở Mông Tự giong nhứ ở Lao-Kay cũng có cảnh sáng dẫn tù đi làm cỏ vê, chiều dẫn về, và cũng như ở Lao-Kay các tù nhân đều bị xích chân trông thật thê-thảm.
Sau này khi đọc thiền giai thoại về tài ứng đối của cậu nhỏ Cao-Bá-Quát, Khoá rất thâm cảm và khâm phục câu đối lại của danh sĩ họ Cao:
Câu ra của nhà vua:
Nước trong leo-lẻo cá đớp cá
Câu đối lại:
Trời nắng chang-chang người trói người
Khoá cho rằng về sau họ Cao “kiến cơ nhi tác” nổi lên ở Mỹ-lương là phải lắm.
Sau cuộc thăm hồ Khề-Lùng-Thán, buổi trưa hôm sau có tiếng thanh la lạ tai và cả khu phố rộn vẻ kinh hoàng. Thì ra đó là tiếng thanh la báo hiệu buổi chiều sẽ xử tử một tội nhân. Bãi xử ở ngay sau toà lãnh sự nên cả ông Đô và Đô cùng đến xem. Khoá còn nhớ tên tội nhân là Lão-Chén, y nghiện, trạc bốn mươi, theo giặc cỏ, rủi bị quan quân vây bắt được tại trận. Khoá lại còn nhớ cả dáng người gầy gầy và khuôn mặt lầm-lì của y khi bị dẫn ra pháp trường chói quặt tay vào chiếc cọc vuông bằng gỗ lim. Nhìn y, Khóa thấy lòng xúc động và thương y lắm. Tuy mới mười sáu tuổi nhưng Khoá đã biết xét đoán, vẻ lầm lỳ của Lão-Chén không phải là vẻ lì-lợm của một tên táng tận lương tâm, mà chỉ là vẻ lầm-lì của một kiếp sống nghèo hèn và ngu dốt. Vì nghèo hèn và ngụ dốt nên tìm vào một lối thoát khộng có... lối thoát, rồi đến khi bị bắt thì lại sáng suốt một cách đơn giản mà nhận thấy rằng khóc cũng vô ích. Lão-Chén có hai vợ, người vợ cả cao gầy như chiếc đũa, mặt sát tận xương, nước da vàng khè, lúc mụ đi thì xiêu đổ nhưng lúc dừng lại trước mặt Lão-Chén (khi đó đã bị trói vào cọc) thì hai chân ống sậy dang ra, khí thế hết sức vững-vàng, mụ xỉa xói vào mặt Lão-Chén chửi bới, nhiếc móc là đi theo giặc để bây giờ mụ phải xấu hổ sống cô độc giữa người sống. Trong khi mụ chửi rủa riếc móc, Lão-Chén vẫn củi đầu giữ nguyên vẻ lầm-lì tưởng nhự rồi đây sau khi đã nhận đủ mười lăm viên đạn trên cơ the, y vẫn giữ nguyên vẻ lầm-lì như vậy. Người vợ hai của Lão-Chén đến chậm hơn mấy phút, nàng ít tuổi hơn người vợ cả nhiều, như chị cả với em út, nàng địu một đứa con nhỏ trên lưng, tất-tả chạy lại khóc lóc, kể-lể, giọng thật oán thương. Nghe nàng khóc Lão-Chén tuy vẫn giữ nguyên vẻ lầm-lì nhưng có khẽ ngước nhìn, miệng lẩm-bẩm điều gì chỉ đủ cho chính y nghe thấy mà thôi. Có tiếng loa hạ lệnh cho người nhà tội nhân đứng giãn ra hai bên pháp trường. Người vợ cả lảo-đảo tiến sang rìa bên tả, miệng không ngớt riếc móc, người vợ hai vẫn khóc lóc và hơi khom người địu con tiến về rìa bên hữu. Người ta mang lại một cái phướn nhỏ bằng giấy cắm vào sau cổ áo tội nhân. Pháp trường hiu-hắt gió chiều và chiếc phướn có hàng chữ dài biên tội trạng của Lão-Chén khẽ uốn cong khoảng giữa, rồi khoảng đuôi luột khỏi lưng Lão-Chén mà phắt-phơ một chút, trông như một cánh tay thứ ba của Lão- Chén vừa được thần linh ban cho để Lão-Chén vẫy tay chào vĩnh biệt người vợ trẻ địu con. Một loạt súng vang động lạnh-lùng và khốc liệt. Lão-Chén gục xuống, người vợ trẻ khóc lớn hơn chạy lại, đầu gục xuống sát đất ngay bên dưới đầu Lão-Chén, tay phải nàng nắm lấy chiếc phướn giấy như nắm tay chồng, nhưng rồi công chúng tới xem quanh pháp truờng đổ xô lại cướp giật của nàng chiếc phứơn giấy vì họ tin rằng chiếc phướn đó mà đem đốt trong đêm khuya sẽ khiến Lão-Chẻn hiện hình; nhiều người khác tới lấy khăn tay chấm vào máu Lão-Chén, họ tin rằng khoảng máu đó đốt thành than hoà với nước uống có thể bách bệnh tiêu tán vạn bệnh tiêu trừ. Cái nước Tàu rộng lớn và đông dân cư quá cỡ này hẳn như không ngày nào, ở bất cứ nơi nào, là không có chuyện lạ. Mới chiều hôm trước xử tử Lão-Chén thì hôm sau có một đoàn người cưỡi ngựa ăn mặc lịch sự tiến vào sân toà lãnh sự, đoàn người này gặp ai trong sân hay trên thềm toà lãnh sự cũng dúi cho một lá vàng chừng môt phần tư lượng. Khoá khi đó đương đứng phát-phơ trên thềm, được người đứng tuổi nhất, bệ vệ nhất dúi cho một lá vàng nửa lượng. Thoạt Khoá không hiểu sao. Những người đó xin vào yết kiến lãnh sự Pháp. Lát sau rồn-rập nhiều người ngựa nữa kéo tới chật sân, đủ cả nam phụ lão ấu, rất nhiều thiếu phụ còn trẻ măng vài người torng số ôm con ngồi trên ngựa, một số ngựa khác thồ những hòm xiểng, giỏ, đẫy...
Hôm sau Khóa mới vỡ lẽ người đứng tuổi bệ vệ dúi vàng cho Khoá hôm trước là viên đốc phủ Vân-Nam họ Đường. Y bị người anh nổi loạn chiếm được ưu thế quân sự ào-ạt tiến chiếm Vân-Nam. Biết không thể địch lại được anh, y vơ-vét hết của cải chất lên ngựa thồ, một số thuộc hạ thân tín và tất cả những cô vợ trẻ đều được theo y đến xin tỵ nạn tại toà lãnh sự Pháp. Hôm trước hôm sau, cả y lẫn đoàn tuỳ tùng, lẫn của cải đều đã vượt biên giới sang Lao-Kay.
Thành Mông-Tự phía ngoài xây gạch, phía sau đắp đắt cho dày thêm. Ngày cuối cùng ở đây, Khoá đi thơ-thẩn trong thành, nhìn mãi nếp sống thanh bình của người dân cũng chán, bèn ra hỏi cổng thành, cổng phía Tây hay phía Nam về sau này Khoá không sao nhớ rõ nữa. Ai dè đi khỏi cổng thành chừng ba bốn trăm thước là cả một thế giới khác hẳn: xác chết ngổn-ngang gần xa hai bên vỉa đường, từng đàn quạ đen thấy động bay lên rào rào, cất tiếng kêu quang-quác. Khoá quét vội tia nhìn một vòng rồi quay lại, rảo cẳng... Kiểm soát lại trong ký-ức những gì vừa nhìn, Khoá ôn thấy có xác chết bị rỉa hết môi hai hàm răng trắng nhờ hô ra sát bên hàng lợi thâm xịt, có những xác vừa trương phồng, có những xác trương đã lâu ngày mặt xanh lè, toàn thân bắt đầu rỉ nước... thật là muôn phần rùng-rợn, mà điểm kỳ lạ là cảnh đó chỉ cách cảnh thanh bình trong nội thành Mông-Tự chừng bốn trăm thước là cùng. Bữa cơm trưa và bữa cơn chiều hôm đó Khoá không ăn được mấy, nửa bát là cùng, vì hễ nâng bát cơm lên là cảnh xác chết ngổn-ngang rữa nát bị rỉa khoét lại hiện lên làm Khoá muốn nôn oẹ đành phải ăn đào, lê, táo và lựu trừ bữa. Khoá cũng không hỏi gì thêm bác Hải để biết là chết đói, chết dịch hay họ là giặc cỏ bị quan quân vây bắn. Đương ở Việt Nam nhỏ bé, thanh bình biết quý mạng người, Khoá sang nước Tàu rộng lớn, dân đông, giặc-giã cướp bóc thường xuyên, mạng người rẻ như mạng con ong cái kiến, Khoá thấy ngợp và choáng váng. Ngay từ ngày ấy Khoá đã biết sở dĩ có sự coi rẻ nhân mạng như vậy chỉ vì người Tàu sinh-sôi nảy-nở nhiều quá. Vài năm sau biết suy nghĩ sâu hơn, Khoá thấy vấn đề hạn chế sinh dục là vấn đề khản cáp cho nước Tàu và khi chàng đọc đến "Croissez et multipliez = Hãy sinh sôi nẩy nở” chàng rùng mình nghĩ ngay rằng câu đó sai biết chừng nào khi đem áp dụng cho nước Tàu.
III
Mãi đến trước hôm trở về Lào-Kay, ông Hải mới biết việc học của Khoá dở-dang, lẽ ra Khoá phải lên trung-học được hai năm rồi, ông đã đề nghị ông bà Đô Cán để Khoá ở lại với ông vì tại Mông-Tự có trường trung học Pháp. Bà Đô muốn vậy lắm, ông Đô đâu có chịu, ông nhất định bắt Khoá về, nói rằng sẽ cho Khoá theo học ở Hà-Nội tiện hơn, kỳ thực ông giữ Khoá để ngày ngày tiêm thuốc hầu ông. Nhưng về đến Lao-Kay hai tháng sau thì ông Đô bị bạo bệnh từ trần, ông Hài hay tin lập tức về Lao-Kay phúng điếu và ngỏ ý muốn đưa bà Đô và Khoá sang ở hẳn Mông-Tự.
Bà Đô để Khoá đi theo, bà căn dặn Khoá phải cố học cho nên người, gắng đuổi kịp hai năm phí-phạm. Riêng bà, bà xin lỗi ông Hải vì phải ở lại Lào-Kay để trông nom ngôi hàng sén mà bà mới mở kể từ sau ngày ở Mông-Tự về. Ngôi hàng được mở để bù vào những thiếu hụt của ngân quỹ gia đình, cũng có thể trực giác, bà biết là ông Đô chẳng thọ được bao lâu nữa, bà cần chuẩn bị cuộc đời tự lập nuôi con. Bà từ chối lời mời của anh - ông Hải - sang Mông-Tự vì bà luôn luôn làm theo tinh thần của đạo nho: quân tử thi ân bất vọng báo. Ấy ơn của mình giúp ai thì viết trên cát như vậy, nhưng nếu chịu ơn người thì ơn ấy được bà khắc sâu lên đá. Việc bà chịu lấy ông Đô há chẳng là ơn cưu mang của ông được khắc lên đá? Không ngờ bà còn một lần thể hiện việc khắc ơn lên đá theo thể thức “đem thân mà trả nợ đời” tương tự.
Khoá theo ông Hải đi Mông-Tự, tiếp tục việc học. Hai tháng sau bà Đô sinh cô gái mà vì cảnh mẹ góa con côi bà không thiết tìm tên đặt, bà chỉ gọi giản tiện là cái Bé.
Ngôi hàng sén ít vốn của bà ở chốn lam sơn chướng khí này đã như chiếc cây còi mọc trên đất sỏi lại gặp kỳ hạn hán. Kẻ ra chỉ cần bà viết vài dòng cho ông Hải thì hoặc bà sang Mông-Tự, hoặc ông Hải cáp vốn buôn cho bà, nhưng tuyệt nhiên bà không chịu hé thốt một lời, bà cũng không về xuôi để cho thỉnh-thoảng gặp Khoá (vào dịp được nghỉ vài ngày liền, thế nào Khoá cũng dời Mông-Tự về thăm mẹ).
Bà Đô năm đó trên ba mươi tuổi, vẻ đẹp tươi mát thuở còn là cô Mai dĩ nhiên không còn, nhưng nếp sống trầm mặc và đức hạnh đã gìn giữ tuổi trẻ cho bà, khiến thứ nhan sắc đoan trang trong một tuổi đời đã chín đó không phải là thiếu phần quyến rũ.
Ngay sát bên ngôi hàng sén nhỏ của bà là cửa hàng tạp hoá khá đồ sộ của một người Tàu trạc tuổi bà, đã góa vợ (vợ Việt) và có một người con trai. Khi ông Đô chế, người này có lấy tình lân lý sang phúng điếu theo đúng thủ tục Việt-Nam. Rồi cửa hàng sén của bà Đô thiếu thứ gì, chú Nìn (Niên) - tên người Tàu - lại cho người làm khuân sang, nói rằng “xin cứ bán đỡ, khi thu được tiền rồi trả lại sau cũng được”. Mỗi khi xuôi Hà-Nội cất hàng, chú Nìn cũng hỏi xem bà Đô cần mua thêm thú hàng nào đặc biệt. Đã từng là nhà buôn nhỏ trước đây, chú Nìn biết cửa hàng càng nhỏ càng cần có những món hàng đặc biệt để lựu ý khách hàng. Món hàng đặc biệt của cửa hàng bà Đô là những đồ trang sức bằng đồi mồi: lược, gương, hộp phấn, ví tay... Những thứ hàng đó tuy nhỏ xinh mà đắt tiền, chú Nìn chỉ cần hỏi ý bà Đô hôm trước hôm xuôi Hà-Nội là hôm trở về đã tự động xuất vốn mua đủ các thứ (và thứ hàng đó tuyệt nhiên tại cửa hiệu tạp hoá của chú không hề bán: chú để bà Đô giữ độc quyền). Hàng đắt tiền có bán được những ít và chậm, lọại hàng phổ thông bán được khá nhiều nhưng toàn là những người quen cũ, lại phần đông là những nhân viên cấp dưới ông Đô xưa, họ mua chịu chẳng lẽ không bán, họ chịu lâu chẳng lẽ nặng lời đòi sao tiện, rồi phần quên đi, phần họ đổi đi nơi khác, quỵt, lưng vốn mỏng- manh của bà Đô đã hết từ lâu, vốn của chú Nìn không bao giờ đòi, thái độ quân tử của người Tàu chính cống đó làm bà Đô thắc-mắc. Có đôi lần tự ý bà nói rõ sự tình và xin lỗi chú Nìn về sự thanh toán chậm thì chú Nìn gạt đi một cách cương quyết và rắt thật tình.
Hai năm qua đi... Khoá vẫn từ Mông-Tự về thăm mẹ vào những ngày nghỉ. Cái Bé đã lũn-cũn biết đi biết chạy. Đúng vào lúc bà Đô quyết định dẹp cửa hàng và chưa biết tính sao về món nợ lên tới bạc trăm - (như bạc vạn bây giờ) - với chú Nìn, thì vào một buổi chiều đông, sương muối phủ ngập thung lũng Lao-Kay, chú Nìn sang thăm bà Đô, thái độ rất điềm đạm, rất thanh lịch, chú ngỏ ý cầu hôn với bà. Lẻ ra bà Đô có thể từ chối, đành vay tiền ông Hải mà thanh toán nợ nần với chú Nìn, rồi đợi ngày Khoá học thành tài đi làm giả nợ cho mẹ, nhưng định mệnh con người do chính con người dự phần tạo tác và quyết định, thái độ bà Đô lại không chịu vong ân, không muốn phiền ai - dù phiền anh, phiền con - phải gánh chịu thiệt-thòi vì mình, bởi vậy sau mấy ngày suy nghĩ bà nhận lời. Bà viết một bức thư dài trần tình với ông Hải và với Khoá. Ong Hải đổi đi Vientiane, bà bằng lòng để Khoá đi theo ông, học nốt hai năm nữa thi lấy bằng thành chung.
Từ ngày bước đi bước nữa, bà đặt tên cho cái Bé là Cam. Nhũ danh của bà là Mai có nghĩa là cây mai, tên Cam bà đặt cho cô gái út cũng là cây cam, cùng bộ mộc, nhưng thực ra hai tên Mai và Cam đó trong cõi tiềm thức mung-mung mạc-mạc lại dính-líu đến bài thơ “Cán mai gốc mít cho cam” mà bà dùng làm lời mở đầu bức thư trần tình của bà gửi riêng cho Khoá. Đọc bức thư trần tình của mẹ, Khoá đã gục mặt lên gối khóc nức-nở. Bài thơ mở đầu này Khoá thuộc lòng, vẫn hằng ôn tới như ôn một nhận định chân lý để liệu mà điều chỉnh cho đúng hướng tiến trên đường đời đầy chông gai:
Cán mai gốc mít cho cam,
Ở đời luống những miên-man nợ-nần.
Có người nợ cả bản thân,
Nợ xa vũ trụ nợ gần thê noa
Có người nợ cả hàng hoa,
Miếng giầu chén nước đương xa chơi bời.
Toàn bài nhận định về con người nợ lẫn nhau cả về vật chất lẫn tinh thần này, duy một câu Khoá không hiểu: “Có người nợ cả hàng hoa”. Trong thời gian theo học ở Vientiane, Khoá hằng suy nghĩ và tự hỏi hai chữ “hàng hoa” đó, ý mẹ định nói gì, mẹ định ám chỉ những cái phù phiếm ở đời chăng?
Trong bức thư trần tình, bà Đô hai còn nhắc đến câu chữ Hán mà Khoá cũng nhớ mãi sau này: “Điểm điểm chích chích bất sa dĩ. Bà giải thích và bàn rộng cho con hay: giọt nước sau theo giọt nước truớc không thay đổi, đàn bà theo chồng phải giữ cho trinh tĩnh con cái mới hay được. Vì hoàn cảnh “ở đời luống những miên man nợ- nần" ép bà phải bước đi bước nữa, nhưng một khi đã theo chồng, hãy giữ lòng trinh tĩnh, giữ đức thuỷ chung, đó cũng là cách để đức lại cho con sau này.
IV
Chú Nìn là con út của một gia đình ba anh em giai ở Nam-Kinh. Anh cả và anh hai ở lại thành phố quê hương hùn vốn mở tiệm ăn lớn đường Tôn-Trung-Sơn. Chú Nìn dời quê hương sang lập nghiệp tại Việt Nam. Ngôi hàng tạp hóa của chú ở thị trấn biên giới Hoa Việt này phát đạt cũng chẳng kém gì tiệm ăn của hai anh ở Nam- Kinh. Đời vợ trước của chú Nìn là một cô gái Việt sắc-sảo và đôi chút!ẳng-lơ. Chú Nìn thì lại cả ghen, vì vậy hạnh phúc gia đình không đựợc êm đẹp cho lắm. Người vợ đó mất vì chứng sốt rét rừng, để lại cho chú một thằng con trai, chú gửi con về Nam-Kinh nhờ hai anh trông nom cho ăn học. Một mình trên đất Việt điều khiển ngôi hàng phát đạt, chú Nìn đêm đêm thường tìm an-ủi ở chốn ca lâu, có một lần chú mắc bệnh tình, ông Đô tới nhậm chức, thuê nhà ngay bên nhà chú. Nếp sống hoà thuận của gja đình ông Đô nhắc chú nhớ lại nếp sống lủng-củng của gia đình chú trước đây. Ông Đô mất, chính vẻ hiền thục của bà Đô khiến chú quyết tâm giúp bà, hoàn toàn bất vụ lợi, mãi hai năm sau chú Nìn mới nảy ý xin cầu hôn cùng bà. Khi bà Đô đã về với chú, chú nảy lòng ghen ngấm-ngầm. Chú cho rằng người đàn bà Việt-Nam nào cũng có thành kiến với người ngoại chủng và khi buộc lòng phải kết hôn với họ, ít khi chịu giữ trung thành. Bà Đô càng hiền thục, chú càng lo sợ ngầm-ngầm, như một đứa trẻ ước một được Trời Phật ban cho mười. Chú quyết định trở về Nam- Kinh, không muốn bà Đô gần-gũi các đồng bào của bà.
Tội nghiệp bà Đô! Chỉ vì bà mang nặng nghiệp “nợ xa vũ trụ, nợ gần thê noa" bà lại “khư khư mình buộc lấy mình vào trong’’ không chịu mang nợ ai, dù phải - đã hai lần bà “phải” như vậy - “đem thân mà trả nợ đời cho xong”, bà đành mang bé Cam (khi đó đã lên năm) theo chồng đi Nam-Kinh. Chú Nìn đem hết dấn vốn của chú ở Việt-Nam về hùn với hai anh, khuếch trương rất có hiệu quả tiệm ăn đường Tôn- Trung-Sơn, chú cho đứa con trai có với đời vợ trước đi du học Mỹ.
Càng xa đất tổ, tình yêu nước càng thiết tha đậm-đà, bà Đô dạy bé Cam học chữ Hán đọc theo giọng Việt, bà dạy vỡ lòng bé Cam học chữ Quốc ngữ. Cuối đường Tôn-Trung-Sơn có một gia đình người Việt đã lưu lạc tại quê người nhiều năm cũng vừa dọn tới, bà bèn đến kết thân.
Chú Nìn quả là một người Tàu kỳ cục, chú có cái đam mê của Kim-Trọng, cái hào phóng của Thúc-Sinh, nhưng lại thêm cái lòng ghen khủng-khiếp của Othello Tây Phương. Thấy bà Đô hay đi lại nhà người đồng hương, chú ghen với cả nước Việt-Nam - chú biết bà Đô chỉ vì nhớ nước mà giao thiệp như vậy - chú bèn vận động giới thiệu bà Đô vào giúp việc cho nhà thương Nam-Kinh, tập sự làm nữ y tá. Như vậy bà Đô sẽ bận-bịu suốt ngày và chỉ có bé Cam là được tự do đến đằng gia đình ông Kiển - tên người đồng hương - để học thêm về chữ quốc ngữ và đàm thoại bằng tiếng Việt trong bầu không khí gia đình Việt cho khỏi mất gốc. Cuộc đời nghẹn-ngào thiếu quê hương của bà Đô kéo dài được hơn một năm thì bà hay tin Khoá đã đỗ bằng thành-chung ở Vientiane và sửa soạn về nước, vì ông Hải được thuyên chuyển về Hải-Phòng. Bà vội vã phúc đáp thơ con trong có đoạn:
“ Con ơi, con được về thăm đất nước mẹ mừng. Mẹ và em con giờ đây nghìn trùng cách trở cố hương biết có ngày tái ngộ? Con ơi, cổ nhân nói học như hải, biết thế nào cho vừa. Nay con đã đậu bằng thành chung, vốn kiến thức cũng tạm đủ, về đến nước nhà, con nên kiếm việc làm và tiền lương hàng tháng phải nộp tất cả bác Hải, bác cho bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu, hoặc cần bao nhiêu thì xin bấy nhiêu. Mẹ có thể lấy tiền của ông Nìn ờ đây gửi về cho con tiếp tục ăn học, nhưng mẹ không muốn phải mang ơn ông Nìn hơn nữa; chắc-chắn con cũng đồng ý với mẹ như vậy. Đặt chân tới nước nhà, con phải về làng Liên-Phú thăm quê của cha con và nhận họ hàng bên nội, rồi xuống Hải-Phòng, qua bến đò Bính, qua bến đò Rừng, tới Quảng Yên, xuống tầu biển tìm đến Ninh-Tiếp quê mẹ, nơi làm muối-nấu cho cà nước dùng”.
Bà Đô có viết riêng cho ông Hải một lá thư khác, trong đó bà cám ơn ông Hải đã thay bà nuôi Khoá ăn học nên người, bà xin ông Hải coi Khoá như con.
Ông Hải vẫn coi Khoá như con! Và Khoá đã tuân theo lời mẹ, tiền lương tháng đầu - Khoá đã thi được vào làm Quan-Thuế - Khoá đưa biếu hết ông Hải. Cử chỉ tượng trưng này làm đẹp lòng cả đôi bên, sau đó ông Hải hoàn lại cho Khoá tiêu gần đủ. Ông đã hỏi vợ cho Khoá, con gái một người bạn mà ông quen thân tự ngày mới đổi đến Vientiane.
Ông Hải mắc chứng huyết áp quá mạnh - hypertension - từ lâu rồi, chuyến phi cơ chở ông cùng gia đình tự Lào về Hà-Nội, qua dãy Trường-Sơn gặp bão lớn, nhồi lên nhồi xuống, ông bị ngất. Phi cơ hạ cánh, người ta chở ngay ông sang nhà thương Đồn-Thủy (Lanessan). ông qua khỏi lần này, nhưng miệng hơi méo, cơ thể suy nhược trông thấy. Hai tháng sau một cơn huyết áp quá mạnh khác tấn công ông Hải lần chót, lần này ông bị đứt mạch máu óc, chết tức khắc. Khoá phải cưới vợ gấp
Có thể gọi là cưới chạy tang. Năm sau đứa con đầu lòng ra đời, Khoá đặt tên là Thanh.
Tất cả những tin vui buồn lẫn-lộn đó đều có thư tới Nam-Kinh, mối sầu xa sứ của bà Đô vì thế cũng vời-vợi đôi phần vì bà có cảm tưởng bà vẫn tham dự vào cuộc sống những người thân tại quê hương. Đó là vào giữa năm 1937 - bà xa quê hương đã hai năm rồi
V
Gia đình ông Kiển - người đồng hương duy nhất của bà Đô ở Nam-Kinh - gồm hai vợ chồng ông và hai thằng con trai đã gần đến tuổi trưởng thành, gia đình này chuyên nghề buôn thuốc Bắc và sâm Cao-ly. Thì ra ông Kiển mới từ Bắc-Kinh dời về Nam-Kinh. Ông nhận thấy khí thế người Nhật rất hung bạo, họ đã nắm vững tình thế ở Cao-Ly và luôn luôn gây gỗ với người Tàu ở biên giới, ông cho rằng chiến tranh Trung Nhật chẳng sớm thì muộn tất bùng nổ, và ngòi nổ tất nhiên ở Bắc-Kinh rồi, ông bèn dời Bắc-Kinh về Nam-Kinh. Chưa được một năm thì xảy ra vụ án Lư-Cầu- Kiều (ngày 7-7-1937) cách Bắc-Kinh năm dặm, rồi chiến tranh Trung Nhật bùng nổ đúng như lời ông tiên đóan, và Bắc-Kinh bị chiếm hai tuần sau. ông Kiển rất lấy làm đắc ý về nhãn giới chính-trị của ông, chẳng ngày nào là ông không kể công với vợ con “Bà mày xem, chúng bay xem, tao không tiên đoán giỏi thì bây giờ mắc kẹt ở Bắc-Kinh rồi nhé, vốn liếng đi đời nhà ma rồi nhé!” ông đâm ra theo rõi tình hình nước Tàu. ông nói với vợ con: “Đấy rồi bà mày xem, chúng bay xem, hội nghị chín cường quốc họp ở kinh-đô Bỉ nhất định can thiệp bắt quận Nhật rút về vị trí cũ. Tưởng-Giới-Thạch đã ra lệnh cho quân ông phải giữ từng tấc đất đấy”. Rủi thay lần này ông tiên đoán sai, hội nghị chín cường quốc quá lơ-là, chiến tranh tiếp diễn ác liệt, Nhật tiến quân như vào chỗ không người. Chiến thuật tiêu thổ kháng chiến đã đươc đề cập đến. Nhưng điều ông Kiển không ngờ nhất là tháng mười một năm đó quân Nhật đổ bộ lên Thựợng-Hải. Ẩy thế mới chết, ông vốn ghét chiến tranh mà bây giờ chiến tranh lại bịt mất đường ra biển của ông, giá có muốn chạy đi Hồng-Kông bằng đường thủy bây giờ cũng vô phương. Chưa hết, sáu tháng sau - tháng mười hai - quân Nhật ào-ạt tiến chiếm Nam-Kinh đã dời đô về Trùng-Khánh và chiến thuật tiêu thổ kháng chiến bắt đầu được áp dụng thực sự. May là quân Nhật chiếm xong Nam-Kinh bèn cố bọc nhung bàn tay sắt vỗ-về dân chúng Nam-Kinh một chút để còn rảnh quân tung đi chiếm Hán-Khảu, Quảng Châu. Hơn nữa, Nhật-Bản phải ve-vuốt Nam-Kinh vì Nhật cũng thấy trước rằng dù có chiếm cả Bắc-Kinh và Nam-Kinh thì cũng còn mắc míu ngã ba ngã bảy khác, chẳng thể chiếm trọn vẹn được nước Tàu, Nhật muốn mua chuộc phe ôn hoà Quốc-Dân Đảng Tàu để thành lập một chính phủ thân Nhật (như ở Cao-Ly) như vậy danh chính ngôn thuận hơn nhiều. Uông-Tinh-Vệ đã bỏ Trùng-Khánh qua Hà-Nội. Quân Nhật đổ bộ lên đảo Hải-Nam (tháng 2-9-39), thế là cả miến Hoạ-Nam bị phong tỏa. Uông-Tinh-Vệ cũng đã từ Hà-Nội bay sang Hương-Cảng rồi về lập Chính phủ thân Nhật ở Nam-Kinh. Tranh ảnh tố cáo sự tàn ác của quân Nhật đầy rẫy ở Nam-Kinh, nào cảnh chúng đốt làng quê, nào cảnh chúng chặt đầu, mổ bụng dân quê, nào cảnh những người đàn bà Tàu bị hiếp đến chết loã thể chúng còn lấy cỏ may cắm đùa vào âm-hộ. Nhưng ở chính Nam-Kinh thì việc đó không có. Cũng may cho Kiển! Và tuy cả miền Hoa-Nam bị phong toả, ông vẫn mua được quy, thục ở Bắc-Kinh và sâm ở Cao-Ly để gửi bằng phi cơ qua Hồng- Kông, thành thử bộ mặt của chiến trinh đối với riêng ông Kiển ở Nam-Kinh không lấy gì làm gớm-ghiếc cho lắm, do đó ông cũng chẳng thiết tiên đoán điều này điều nọ mà làm gì, nói một cách khác ông không bận tâm nhiều về thời cuộc chiến tranh nữa kể cả khi có tin động trời: quân Nhật bất thình lình rội bom tiêu diệt hạm đội Hoa-Kỳ đậu ở Trân-Châu-Cảng ngày 7-12-1941. Nhưng sau này, vào tháng tám 1945 quân Nhật đầu hàng đồng-minh vô điều kiện, Trung-Hoa Quốc-gia chuyển bại thành thắng, thì ông Kiển chợt lại thấy lòng sợ chiến tranh, ông sợ rồi đây không khéo Quốc Cộng Tàu đánh nhau to, và khi người Tàu đánh người Tàu trong nội địa thì cụộc sống người Việt ngoại quốc không thể nhu-nhơ được, ông cho rằng vượng địa đối với riêng ông bây giờ phải là Hồng-Kông. Thế là ông sửa-soạn thu vén hàng-họ tiền-nong từ biệt bà Đô, mang gia đình xuống Thượng-Hải, ở đấy ông lấy vé tàu thủy đi Hồng-Kông. Quả nhiên Hồng-Kông từ sau ngày thế chiến thứ hai chấm dứt, buôn bán ngày một phồn thịnh. Quả nhiên Quốc Công đánh nhau to Trung Cộng cả thắng, họ Tưởng rút ra Đài-Loan và nhất là sau đấy nước Anh với óc thực tế vô cùng linh- động và minh mẫn - (mà nhiều người lên án là bỉ-ổi) - đã “phá rào” đồng-minh, dùng Hương-Cảng làm cửa ngõ giao thông với Trung-Cộng để thu lợi, thì Hương Cảng quả là chốn thiên đường của giới thương mại.
Thế là thêm một lần nữa ông Kiển lại tiên đoán đúng thời cuộc.
VI
Trở lại chuyện bà Độ và bé Cam ở Nam-Kinh, qua ít bữa xao-xuyến vì tin Nhật đổ bộ Thượng-Hải, qua mấy ngày kinh hoàng quân Thiên-Hoàng tiến chiếm Nam-Kinh, cuộc sống của tiểu gia đình bà với chú Nìn trở lại bình thường.
Bà đã theo xong khoá huấn luyện nhà thương và là một nữ y-tá gương mẫu của nhà thương Nam-Kinh. Trong khi gia đình ông Kiển gọi bà là “bà Nam-Kinh” để gián tiếp ghi nhận sự kiện bà đến cư ngụ tại Nam-Kinh trước ông, thì những nữ đồng nghiệp của bà tại nhà thương Nam-Kinh gọi bà một cách kính mến là “Dể-Nàm Thai- Thai” (bà Việt-Nam).
Việc quân Nhật phong tỏa Hoa-Nam không quan trọng bằng việc bà thấy bé Cam vẫn được thấm nhuần đều không khí gia đình Việt-Nam, nói tiếng Việt thông thạo - (bà chỉ không ưa ông Kiển ở chỗ ông loay-hoay bận bịu quá nhiều về vấn đề buôn bán, tiền nong mà ít nhắc đến đất tổ) - và bà vẫn nhận được thơ đều của thằng con trai quý mến của bà bên đất tổ. Việc Uông-Tinh-Vệ bỏ Trùng-Khánh qua Hà-Nội thì bà biết vì Hà-Nội là Thủ-đô đất tổ của bà, còn việc họ Uông dời Hà-Nội đi Hồng- Kông rồi lập chính phủ thân Nhật ở Nam-Kinh thì có cái gì liên lạc với đất tổ đâu mà bà cần phải nhớ?
Tất cả những người Tàu bà con họ gần họ xa với chú Nìn, bà đều giao thiệp rất mực hoà-nhã đủ lễ, nhưng bà đặc biệt quý mến một người em họ chú Nin chỉ vì người này đã từng buôn bán lâu ngày ở Hải-Phòng và khi về Tàu thì luôn mồm than phiền một câu duy nhất “Chà, nhớ phở Việt-Nam quá!”
Bà có nhớ ngày quân Nhật bất thần dội bom xuống hạm đội Hoa-Kỳ ở Trân-Châu- Cảng không phải vì chính biến cố đó, mà thư từ liên lạc giữa Nam-Kinh với nước nhà bỗng xáo-trộn hẳn, một tháng trời qua bà không nhân được lá thư nào của Khoá. Rồi thư Khoá tới, Khoá vẫn làm ở đoan, bé Thanh, cháu nội của bà, đã sắp lên năm. Vào năm 1943 bà được Khóa thư cho hay là Khoá không chịu được đời sống công chức, đã xin nghỉ dài hạn ở đoạn sau năm năm phục vụ ngành này. Sở dĩ Khoá phải xin nghỉ dài hạn không lương để rồi sẽ tìm cách xin thôi sau vì thiên-hạ còn ở trong tình trạng chiến tranh, công chức đâu đựợc quyền xin thôi. Bà sung- sướng không thể tả được khi đọc những bức thư dài Khoá thuật lại những chuyến buôn lỗ lãi. Khoá lại tả cảnh Lào, nếp sống Lào trầm tĩnh hiền hoà khác hẳn nếp sống ào-ạt hỗn-độn của Tàu. Đã tám năm giời bà không gặp Khoá, bà không thể mường tượng nổi thằng con giai độc nhất của bà bây giờ vẻ mặt dáng người ra sao. Bà còn giữ nguyên vẻ mặt dáng người của “nó” năm nào ở Lào-Kay nhưng chắc- chắn “nó” bây giờ khác xưa nhiều. Nhưng cứ đọc thư không thôi, bà cũng tin rằng Khoá khôn ngoan lanh-lợi và ăn nói có duyên lắm.
Chú Nìn thuở còn ở Lao-Kay, sau ngày người vợ cả mất, hay đi tìm khuây ở ca lâu và một lần mắc bệnh tình, vì vậy mà khi tục huyền với bà Đô chú không thể có con được nữa. Đó là cái phúc lớn cho bà Đô, bà vẫn cám ơn thầm Trời Phật về điều này, một mình bà trả nợ đủ thôi, nợ chẳng nên thành dây thành rễ mà làm gì!
Tháng tám 1945 Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, nước Trung-Hoa bước lên hàng cường quốc thứ năm trong hàng ngũ đồng minh, vinh hạnh đó bà chẳng hề sơ múi của chú Nìn. Tại nước nhà cách mạng tháng tám thành công, nghe nói có lộn-xộn nội bộ, nhưng bà vẫn nhận được thư đều của Khoá, thế là được! Nhưng rồi sang năm sau phòng quan rút về Tàu, nghe chừng nội bộ lộn-xộn dữ, thư Khoá không tới, rồi kháng chiến toàn quốc... bà Đô có cảm tưởng bà rơi chìm nghỉm xuống một vực sâu. Thêm một tin sét đánh: gia đình ông Kiển nhất định dời đi Hồng- Kông, “thật là con người bất nhân, chỉ nghĩ đến tiền” - bà nghĩ thầm thế, nhưng rồi bà hồi tâm thấy rằng mình đã ích kỷ, trách cứ ông Kiển vô lý chỉ vì thương và lo cho Cam không còn một hình bóng nào của đất tổ để mà bấu víu cho khỏi mất gốc.
Cam đã mười sáu. Có phải đây là xứ lạnh, con gái dậy thì muộn, hay vì xa đất tổ thân yêu thích hợp cho sự nảy nở cơ thể cũng như tâm hồn, Cam tuy tới tuổi đôi tám mà còn ngây-ngô như đứa nít mới lớn. Nước da Cam trắng hồng và rất mịn, khuôn mặt tròn phúc hậu, mái tóc mềm, đen, cắt ngắn ngang vai, đôi mắt to đen lúc nào cũng như ngạc nhiên hết từ vật này đến vật nọ, hết từ chuyện này đến chuyện nọ. Cam chính là hình ảnh xinh đẹp phúc hậu của bà Đô xưa hồi còn con gái, nhưng kém sắc-sảo hơn nhiều. Nhìn Cam người ta có thể liên tưởng đến một đức trẻ chỉ có cơ thể lớn bồng lên một cách bất thường. Bà Đô cũng hiểu thế lắm, bà muốn phát điên lên, trời ơi, rồi đây không còn một gia-đình Việt-Nam nào nữa ở đây, thì Cam sẽ ra sao, Tàu không ra Tàu, Việt không ra Việt!
Chỉ còn một điều làm bà yên lòng đôi chút là Cam nói tiếng Việt rất sõi, rất trôi chảy. Điều này bà phải nhớ ơn gia đình ông Kiển, nhớ ơn nhiều, nhiều lắm.
Vừa may lúc đó Khiết tới. Lạy giời, lạy Phật!
Như chúng ta biết, Khiết cùng một số bạn cách mạng trẻ sang đây hoạt động tìm thế liên minh các lực lượng quốc gia để chống lại đoàn thể Việt-Minh Cộng-Sản hiện đương nắm chính quyền. Khiết hoạt động mạnh, đi đi lại lại như mắc cửi trên con đường xe hỏa nối Nam-Kinh với Thượng-Hải, nhưng vào dịp phải đợi, hoặc đợi tổ chức hội nghị sắp tới, hoặc đợi đại biểu đoàn thể bạn sắp tới... thì Khiết hết sức lợi dụng những ngày giờ được nghỉ xả hơi đó mà vãn cảnh Nam-Kinh, đi thăm và tìm hiểu những sử tích Nam-Kinh. Khiết mua một bản đồ Nam-Kinh có kèm một quyển chỉ nam sơ lược, nhiều khi Khiết phải lật mở cuốn Trung-Quốc Sử-lược để tra cứu thêm về một vài nhân danh, địa danh...
Hôm đó vừa ở Thượng-Hải về Nam-Kinh, Khiết đã tới gặp vị lão thành cách mạng, xin người đứng làm trưởng phái đoàn dẫn anh em đến yết kiến Thống-Chế Tưởng-Giới-Thạch tại Trùng-Khánh để giành lấy sự ủng hộ tích cực hơn của Quốc- Dân Đảng Tàu, vị lão thành cách mạng quyết định hôm sau phái đoàn sẽ lên đường. Thế là Khiết được dịp nghỉ xả hơi từ trưa hôm đó đến sáng hôm sau. Chàng thủng- thẳng đi ngược dòng sông Tần-Hoài lên phía trên, nhìn bãi cát trắng phau với hàng liễu rủ, cái soi ở giữa sông tràn ngập ánh nắng trưa, trông tưởng như có nhích lại gần bờ hơn chút đỉnh. Chàng vừa tựa vai vào một thân liễu thì có tiếng hỏi rụt-rẻ nhưng trong-trẻo, ngay phía sau:
- Xin lỗi ông, ông có phải là người Việt-Nam không ạ.
Khiết giật minh quay lại, chết chưa, chàng mải suy nghĩ làm sao mà có người theo sát mình phía sau một quãng đường không biết. Người hỏi là cô gái khuôn mặt tròn phúc hậu đôi mắt mở rộng thơ ngây, Cam. Chàng gật đầu:
- Vâng, tôi là người Việt-Nam, sao em biết?
- Thưa ông mẹ cháu đoán vậy nên sai cháu theo ông hỏi.
Khiết càng ngạc nhiên, hỏi:
- Thế mẹ em đâu?
Cô gái chỉ về một cái quán có hàng cột sơn đỏ đằng xa và nói:
- Mẹ cháu dặn nếu quả ông là người Việt-Nam thì mời ông lại đằng quán.
- Thì chúng ta lại!
Khiết nói vậy rồi cùng cô gái quay gót, trong bụng đoán thầm mẹ cô hẳn người Việt lấy Tàu và mở ngôi hàng ở đó. Khiết chỉ đoán đúng đại thể, sự thực không hoàn toàn như vậy. Hôm đó bà Đô hết giờ làm việc đương trên con đường từ nhà thương Nam-Kinh về nhà, bà chợt dừng lại trên vỉa hè chú ý nhìn theo một khuôn mặt hơi cúi xuống và đăm chiêu đi ngược chiều ở bên kia đường sát bờ sông Tân-Hoàị. “Đúng là khuôn mặt người Việt-Nam mình” bà tự nhủ. Bà có quay lại bước theo mấy bước ngập-ngừng toan đích thân sang hỏi. “Mẹ!” tiếng Cam đã từ nhà đi đón như thường lệ. Bà gật đầu cười lại với con, nhưng óc vẫn suy nghĩ lung lắm chưa biết tìm cách nào để hỏi người đó cho khỏi đường đột vô lễ. Bà chợt tìm ra, chỉ người khách vẫn lững-thững tiến bảo Cam: “Mẹ trông người kia ngờ-ngợ là người đồng hương, con hãy chạy lại hỏi nếu phải là người Việt-Nam thì con mời ông ta lại, mẹ ngồi đợi ở quán ăn này đây”. Thấy Cam ngần ngại, Cam vốn rụt rè như vậy bà nói luôn: “Mau lên con, không có người đó đi mất”.
Khiết lại, bà Đô gọi trà bánh thết, bà có hỏi qua vì sao Khiết có mặt ở đây rồi bà tự giới thiệu hoàn cảnh bà. Bà nói vắn tắt nhưng đầy đủ, bà giới thiệu Cam với Khiết và bày tỏ nỗi lo âu vô cùng của bà về nỗi Cam đã không được sống ở nước mà lại không có một bóng gia đình Việt nào ở đây rồi thì ra sao?
Khiết hiểu ý bà Đô muốn tuy ở đất Tàu nhưng luôn luôn phải có “làn gió Việt” thổi qua để người con gái lớn lên ở đầt Tàu kia của bà khỏi mất gốc vì - lời bà luôn luôn nhắc tới trong câu chuyện - “cây có gốc, nước có nguồn, con người mà gốc chẳng biết nguồn không hay thì còn ra cái gì!”
Bà Đô chép miệng lắc đầu ngừng nói khi câu chuyện tâm sự với người đồng hương đã hết. Bà còn biết nói gì hơn? Bà bịn rịn còn muốn kéo dài giây phút họp mặt thêm chút nữa, bà hỏi:
- Dạ thưa, ở bên nhà quê ông ở đâu đấy ạ?
Thưa bà - Khiết đáp - tôi quê ở Sơn-Tây, huyện Thạch-Thất!
- Quý hóa quá! Thế ông cùng các bạn hữu còn ở đây bao lâu nữa ạ?
- Thưa, chúng tôi cũng không rõ, còn tuỳ ở công việc và cấp trên.
....
Bà Đô ngừng lại, bà muốn mời cả bọn đồng hương đó đến nhà ăn cơm lắm nhưng bà biết chú Nìn sẽ phật ý lớn (tuy chú ưng chịụ) bà không muốn vậy.
- Thưa a a... ông cho biết quý danh để lỡ lần sau có gặp tôi thưa tên cho
tiện.
- Thưa tôi là Khiết, Lê-Tịnh-Khiết!
Đôi mắt bà Đô chợt sáng lên. Tuổi tác không hề làm cùn nhụt trí thông minh của bà, bà thấy ngay cơ hội:
- Ông họ Lê? Trời ơi, ông cùng họ với tôi, quý hoá quá, tôi quê ở Quảng- Yên.Thôi thế này ông nhé... nhưng chẳng hay hiện giờ ông có bận việc gì cần đi ngay không ạ.
- Thưa sớm mai tôi mới phải đi.
- Vâng nếu vậy thì mời ông về nhà tôi bây giờ, tôi giới thiệu ông với nhà tôi. Vâng... tôi giới thiệu., xin ông thứ lỗi cho... tôi giới thiệu ông là em họ tôi mới ở bên nước nhà sang đây hoạt động cách mạng... chúng ta há chẳng đồng tộc với nhau là gì... vâng xin ông cho phép tôi được nhận ông là em.
- Thưa bà sang đến đây đựợc bà nhận họ coi là em, thật hân hạnh cho tôi!
- Con ơi - bà Đô run run nắm lấy tay Cam đặt lên tay Khiết - từ nay con phải gọi ông Khiết đây là “cậu Khiết” nghe không, vai “cậu” là “em mẹ” con nhớ chứ?
Cam gật đậu, bà Đô rơm-rớm nước mắt, vội đứng dậy để dấu sự đó, bà tiến ra quầy giả tiền rồi quay lại mỉm cười - bà đã giữ lại bình tĩnh - nói với Khiết:
- Nào mời ông theo tôi!
Khiết từng chứng kiến nhiều cảnh nhận họ của người Tàu đổi với người Việt, thật hồn nhiên: “Ủa ông họ Lý à, tôi cũng họ Lý đây, chúng ta là anh em cả mà”. “Tốt lắm tiên sinh họ Trần, tôi cũng họ Trần, tưởng ai xa lạ!” Điều đáng quý và lý thú là sau khi nhận họ như vậy người Tàu có bổn phận mời người bà con tự phương xa lại về nhà chè-chén phè-phỡn. Chúng ta hãy tưởng tượng trong đám thanh niên xuất ngoại làm cách mạng kia, vào đúng lúc phải “nhậm xà” với lạc rang trừ bữa mà được ông Tàu nhận họ như vậy để rồi mình có thể kéo thêm một vài anh bạn đến dự tiệc nhận họ thì còn gì bằng. Câu chuyện kéo nhau đi ăn gỡ như vậy, nhìn bằng con mắt nghiêm trang thực chẳng có gì đáng hãnh diện, khốn nhưng người Việt mình ưa trào phúng, nhất là vào những lúc thất vọng ê chề buồn nản nặng chĩu, thì thái độ trào phúng không những là lối thoát mà còn là phương pháp mầu nhiệm để bồi đắp lại những sinh lực đã mất.
Khiết ưa tìm hiểu đến nơi đến chốn, thấy rằng thái độ nhận họ một cách chí tình của người Tàu chẳng phải vì người Tàu quá ngây thơ. Nguyên do thuở nhỏ họ cắp sách đến trường, thì môn địa lý dạy ở nơi này vẫn mặc nhiên coi cái mẩu đất nhỏ bé dính liền với nước Tàu ở miền cực Nam kia là của nước Tàu, rồi cả những người không cắp sách đến trường cũng bị lây cái quan niệm lờ-mờ đó và coi cái tên “Dệ Nàm” (tiếng Quan-Hỏa) hay Dịt-Nàm (tiếng Quảng Đông) là tên một quận huyện nào đó của nước Tàu.
Nhưng chẳng biết lần này sẽ ra sao vì là trường hợp người vợ “Dệ Nàm” nhận họ.
Khiết đã theo bà Đô về tới nhà. Bà giới thiệu Khiết với chú Nìn, giọng thao thao bất tuyệt. Khiết tuy đã nghe và nói khá sõi tiếng Quan-Hỏa mà chỉ hiểu được lõm- bõm, hình như đó là tiếng nói của tình cảm mà người nghe cần trực giác nhiều hơn cần lý trí. Chú Nìn chắc cũng chẳng hiểu gì hơn Khiết, nhưng chú nghe bằng trực giác, chú thong-thả vuốt râu mép gật-gù, miệng bập bập ống điếu thuốc lào, phun khói từng đợt nhịp với tiếng “ừ ừ” như để chấm câu. Khi bà Đô vừa dứt, chú thân ái ngẩng nhìn Khiết... Bà Đô sung sướng ứa nước mắt khi thấy chú Nìn ra nắm lấy hai cổ tay Khiết lắc lắc mấy cái mà rằng:
Hẳn hỏ, ủa mán ta tchya tú shử sấn síi!
(Tốt lắm, chúng ta đều là thân thích cả mà!)
VIII
Theo ông Hải dời Vientiane, rời mái học đường - Collège Pavie - nơi niên khoá cuối cùng vừa qua. Khoá lĩnh phần thưởng hạng ưu, về đến Hà-Nội Khoá gặp kỳ nộp đơn thi vào hai nơi: Toà Sứ và Sở Quan-Thuế. Trong khi chờ kết quả, Khoá theo đúng lời mẹ dạy, thoạt về quê nội - làng Liên Phú - rồi quê ngoại - miền Ninh- Tiếp - nhận họ hàng cả hai bên.
Sản xuất muối-nấu vẫn là “nghề tay mặt” của quê ngoại, Khoá gặp một ông cậu khá vui tính, buổi chiều, chỉ đoàn người nhà đi chặt củi về nấu muối, ông nói:
Cây xú, cây vẹt thổ sản của miền đồng lầy này lại được dùng làm củi đun nước biển của vùng. Rõ thật “nồi da nấu thịt”.
Trở lại Hà-Nội, Khoá về thăm quê vị hôn thê ở Văn-Lý (Nam-Định). Nhạc phụ Khoá có ruộng muối ở đây Khoá không ngờ quê mẹ đã làm muối, đến quê vợ cũng làm muối nốt. Vì nhớ đến mẹ nhiều mà Khoá thích chú ý đến muối. Khoá so-sánh thấy muối nấu hai miền Đồng-Bài Ninh-Tiếp (Quảng-Yên) khác với muối Văn-Lý, phương pháp làm cũng khác. Ruộng muối là những vùng đất tháp phẳng không cao hơn mặt biển bao nhiêu, có những con ngòi dẫn nước biển vào. Khoá đã cùng nhạc gia cho gánh cát trải phẳng thành một lớp mỏng trên mặt ruộng muối, xung quanh luôn luôn có nước biền thấm qua đất. Buổi chiều Khoá cùng gia nhân vun cát lại thành đống, xúc lên phên, giội nước chất muối lọc theo mương chảy dồn về một cái hố xa, hôm sau láy gầu vục lên đổ vào một cái sân lát xi măng hay vôi gạch, xung quanh có gờ nhỏ cao chừng năm phân để giữ nước. Dưới sức nóng mặt trời nước bốc hơi còn lại muối, một thứ muối kết tinh thành từng hạt khá lớ màu ửng hồng - phải chăng vì có nước sông Hồng chảy ra cửa bể Văn-Lý? Muối Văn-Lý nổi tiếng hơn cả, chính thứ muối này mới đủ độ mặn để muối dưa, muối cà, là những món ăn nghèo, thuần tuý dân tộc.
Rồi Khoá cũng đã từng theo gia nhân xe muối đến kho có rào xung quanh, một phó đoan ngồi kiểm soát, ra lệnh người phụ việc phát rổ, muối được xúc vào rổ cho có ngọn rồi đội vào đổ trong kho. Những người dân chuyên đội thường cạo đầu nhẵn thín (để về nhà dễ gội), thêm nước da người miền biển rám hồng, trông chẳng khác những vị sư hổ mang loại Lỗ Trí Thâm. Kho muối lợp tuyền bằng cói, hai chân mái chấm sát mặt đất, bên trong muối đổ đầy sát nóc. Mỗi lần đổ xong rổ muối ra, tên phó đoan người Pháp lại vứt vào rổ cho một jeton, sau này đổi thành tiền. Khoá hỏi:
Thưa thày về mùa lạnh thì vùng ta nghỉ làm muối?
Cụ đáp:
Mùa lạnh cũng có làm nhưng số thu hoạch rất ít, gọi là mùa chiêm.
Vui câu chuyện cụ giảng thêm:
Những năm mưa nhiều mất mùa muối, miền Bắc đành tiêu thụ tạm muối Nam. Cách đồng bào miền Nam làm muối giản dị hơn, chỉ việc đắp con trạch - (thứ bờ ruộng nhỏ, nói theo danh từ miền Bắc) - giữ nước, cho đến khi nước hao đi, trơ muối lại, muối Nam cục to, màu trắng, mặn chát, chứ không thành hột nhỏ đều, màu hồng và mặn dịu như muối Văn Lý nhà. Vì muối Nam không “hợp giọng Bắc” nên vào những muối mất mùa, người Văn Lý thường lấy gạch non nghiền nát ra thành bụi rắc vào nhuộm màu hồng để giả làm muối Văn Lý.
Có lẽ vì thấy cậu con rể tương lai thực sự muốn hoà mình vào nghề làm muối, dù chỉ là về chơi mấy ngày, cụ càng mến; sau bữa rượu tối, cụ nằm khểnh trên chiếu giải ở góc sân dưới một gốc mít lớn, vừa phẩy quạt nhìn ao vừa thuật lại sự tích của cụ xưa:
Trước đây tôi nghiện từ năm mười tám tuổi, anh biết không. Cả họ ghét tôi như ghét một con chó ghẻ, chỉ có hai người thương tôi, một là mẹ - mẹ nào mà ghét con - hai là chị dâu. Chị về làm dâu hồi tôi còn nhỏ xíu từng cõng tôi lên vai mang sang chơi các nhà hàng xóm, vì vậy mà lúc tôi lớn lên trót hư hỏng chị không nỡ ghét nữa. Tôi bực mình bỏ nhà đi đăng lính. Vì tôi có học đến cours moyen bập bẹ nói ít tiếng Pháp nên được đóng cai, cai nhà giấy- caporal fourrier- đóng ở Ban Mê Thuột. Lúc đó tôi đã thôi không hút nữa, tôi muốn thôi là thôi anh nghe chưa, cuối năm tôi gửi về biếu mẹ ba chục đồng, biếu bà chị dâu một chục đồng. Ba năm trấn thủ ở Ban Mê Thuột tôi xin nghỉ phép về quê để biếu mẹ số tiền dành dụm là tám trăm đồng. Đi khỏi địa phận Ban Mê Thuột bằng voi, rồi lên xe hàng xuống Nha Trang, lên tàu thuỷ về Bắc, trên tàu thuỷ tôi sà vào đám bạc nướng hết tám trăm, về thăm mẹ, trần như nhộng. Nhưng mà thôi, mất tám trăm nhưng tôi đòi lại cho đất nước Việt Nam mình hai tỉnh Ban Mê Thuột và Kontum, không tốn một tên quân, cũng chẳng phải đem công chúa mà đổi lấy hai châu Ô, Lý như kiểu người xưa. Anh ngạc nhiên ư, sự thực là thế đó, lịch sử đâu có ghi tên tôi, tôi là thứ anh hùng vô danh mà. Chả dạo đó tôi giúp việc rất đắc lực cho tên đại lý người Pháp ở đấy. Thoạt các giấy tờ hành chánh về hai tỉnh Ban Mê Thuột và Kontum đời tên đại lý trước đều xếp vào hồ sơ nước Lào. Đến đời tên đại lý này, thì hắn ngờ ngợ không biết nên xếp vào nước Lào, hay vào nước Việt. Tội viện ngay lý: “ông cứ trông bản đồ trên tường kia, lại xin ông nhớ cho chiếc dốc dời khỏi tỉnh Ban Mê Thuột đổ về phía Ninh Hoà thì tất nhiên hai tỉnh này phải thuộc về An Nam mới hợp lý”. Hắn chặc lưỡi gật đầu nói: “Vậy thì đồng ý!” Thế là từ đấy hễ cứ đánh giấy tờ hành chánh thuộc hai tỉnh Ban Mê Thuột và Kontum tôi tự động xếp vào hồ sơ nước An-Nam nhà ta. Tôi nghĩ rằng nếu cũng có một người Lào giúp việc tên đại lý và y nói tiếng Pháp cũng thạo bằng tôi hay hơn tôi thì e rằng khó có thể dễ-dàng xếp trả hai tỉnh trên về cho đát nước mình. Đấy anh xem lịch sử có những chuyện vớ-vẩn như vậy, hậu thế “toạ hưởng kỳ thành” đâu có biết đến công ơn tôi.
Khoá thấy lời nhạc phụ quả chí lý và chàng cất tiếng cười hưởng ứng vì thấy tuy cụ nói vậy mà giọng chẳng hề gay-gắt oán trách hậu thế vong ân.
Về thăm mẹ và chị xong - cụ tiếp - tôi trở lại Ban-Mê-Thuột. Trước khi đi, tôi chặt đồng xu “nhát bách chi phân” làm bốn, thề là từ nay không đánh bạc nữa. Tôi được theo tên đại lý sang Vientiane, nơi đây làm ăn khá, cuối năm tôi gửi mandat về biếu mẹ hai trăm năm chục đồng và bà chị đầu năm chục đồng, thì một tháng sau mẹ gửi cho tôi...
Khoá thấy nhạc phụ ngừng lại chỗ đó, ngừng quạt, khẽ nghển cổ lên hỏi:
Anh có biết mẹ tôi gửi cho cái gì không, gửi cho một... cô vợ!
Cả hai cha con cùng cười. Vị nhạc phụ lại nằm xuống, phẩy mạnh chiếc quạt giấy lớn, mùi rượu nồng-nàn toả đến chỗ Khoá ngồi, tựa như chính câu chuyện làm nồng-nàn hơi rượu, ông cụ tiếp, giọng rất trào lộng:
Trời ơi bà mẹ vợ anh thì thật là đi ỉa không biết đường về! Khi mà vợ anh sinh ra, tôi phải gửi về quê nhà để nhờ bà chị dâu nuôi giúp, vì vậy mà vợ anh ngày nay vẫn gọi bà chị dâu tôi là “chị đẻ”. Sau hai năm giời xa nhà, lần này tôi để dành được ngàn rưỡi bạc, toàn bạc hoa xoè. Vào dịp tết Nguyên đán, cứ chỗ nào có Việt kiều là có đám xóc đĩa. Tôi mang mấy đồng đi đánh chơi, thua, tôi bảo bà mẹ vợ anh về lấy cho tôi vài đồng nữa, bà ấy về lấy, tôi lại thua. Cứ như vậy đến mười lần tôi bảo bà ấy về lấy tiền, bà ấy lẳng lặng nghe theo chẳng hề cản tôi lấy một câu. Rồi tôi đích thân về lấy, lấy hàng vốc bạc hoa xoè, trong trí không hề quên trước đây khi từ biệt mẹ đã chặt đồng xu làm bốn để thề. Sang đến canh hai, tôi thấy rằng số ngàn rưởi bạc hoa xoè chỉ còn chừng ba bốn chục bạc là cùng. Thôi thì đã mất cho mất hết, thế lại khỏi ân hận, tôi vơ cả đống còn lại đó tới chiếu bạc đặt hết sang phía chẵn. Nhà cái “chẵn về”, mở ra lẻ. Tôi cho rằng đó chẳng qua số mệnh đánh dứ mình một đòn cho có vẻ “lẳng-lơ”, rồi mới thu một lần cuối, khánh tận. Tôi vẫn đứng ghé chân chèo tạm