← Quay lại trang sách

Chương 11 MỘT SỰ CHUYỂN HƯỚNG
I

phần ii

Chương 11

một sự chuyển hướng
i

hỉ vì một cơn sốt rét?

Thì bao giờ sau cơn sốt rét người ta chẳng cảm thấy cả cơ thể và - nguy hiểm hơn nữa - cả tâm hồn bị tàn phá tan hoang, đúng như hình ảnh hồng huyết cầu bị vỡ nát trong cơn sốt theo lời tả của bác sĩ.

Những tù binh Pháp, Đức, Hung, Hòa Lan, Bỉ... to lớn như hộ pháp mà chỉ ba cơn sốt rét không kịp có thuốc là ra đi vĩnh viễn. Cơ thể quân dân Việt kháng chiến dẻo dai hơn chịu được sốt rét kinh niên, nhưng tâm hồn thì không, sau trăm cơn sốt y như cả nghìn, minh cảm thấy một sự chán chường, một sự trống rỗng ghê gớm; còn tin còn yêu cái gì ư, chỉ là dựa vào kẻ khác mà tin mà yêu đấy.

Đến nhà Đạo được hai hôm thì bất thần Chủy lên cơn sốt rét - cơn sốt rét nào mà chẳng bất thần - biết bao lần trước đây trên bước đường công tác, Chủy đương khỏe mạnh bỗng rùng mình một cái nhẹ, rất nhẹ, nhưng thôi thế là có chạy đàng giời cũng không thoát, cơn sốt đã khởi sự, rồi cứ thế tuần tự và chắc chắn dâng lên như triều, không một sức mạnh vật chất hay tinh thần nào cản nổi.

Nhưng lần này Chủy lên cơn sốt ở miền quốc gia, sau hơn một tháng giời bị bắt xa vợ, xa con, xa bầu không khí có đảng tính! Rồi đương lúc lên cơn sốt thì lại gặp Khóa tới nhắc lại chuyện cha mình xưa, rồi lại kể chuyện đã từng mơ thấy lên thiên đường, xuống địa ngục... Trong khi đó vợ chồng Đạo săn sóc Chủy thật chu đáo và thật tình, rồi nếp sống gia đình của vợ chồng Đạo với lũ con của họ... còn phải kể đến giấc mộng trước ngày lên cơn sốt rét, mà nếu kể giấc mộng này thì phải ôn thêm một giấc mộng khác nữa, và không thể bỏ qua mối đam mê mãnh liệt của Chủy đối với người vợ trẻ đẹp: Vân! Nhưng dù sao thì nguyên nhân chính vẫn là cơn sốt rét kia, nó làm tâm hồn Chủy tan hoang rã rời đúng lúc dừng bước trong vùng quốc gia. Trận sốt đó chính là trận bom mở đường cho quân thù đổ bộ. Có thể là những triền phóc rất “người” của con người vẫn bám lấy Chủy, lẩn trong tiềm thức, nhưng ờ miền của Đảng, còn các đồng chí xung quanh chống đỡ và giữ vững bầu không khí đảng tính cho mình khỏi lạc lõng, khỏi bơ vơ, khỏi “sa ngã”, đằng này thì...

Âu đó cũng là tác dụng phong phú của cái miền tiểu tư sản tự do cá nhân này - (lời dè bỉu của Chủy) - của cái miền mà Kha trước đây mệnh danh là... khu rừng già.

Vân và Tân và cả vợ chồng Đạo nữa vô tình đâu có biết điều đó.

Từ trại tập trung lộ thiên ngoài tiền tuyến chiến dịch Citron, toán tù binh, trong số có Chủy, trên đường về camp Hải Dương, được lệnh tạm ngừng lại trước khi vào tỉnh. Chủy ngồi phệt xuống đám cỏ dầy bên lề đường cúi gầm mặt xuống đăm chiêu đấy mà không suy nghĩ gì cả vì chưa biết hoàn cảnh sẽ đưa đẩy ra sao để mà tìm cách đối phó. Bỗng có tiếng ai gọi:

- Có phải chú Chủy đó hay không?

Thoáng nhìn người gọi mình Chủy nhận ra ngay là Đạo người cùng làng (Lại Vũ) con cụ huyện Từ, Chủy vội đáp:

- Vâng, chào anh!

- Chết chưa, sao chú bị bắt thế này?

- Tôi bị bắt trong chiến dịch vừa qua bên bờ sông Luộc.

- Chú tản cư ở đấy à?

Chủy đoán là Đạo có tản cư nhưng vào thành sớm nên không biết gì về thành tích hành động của mình dưới bí danh Mạnh. Đạo hỏi luôn vì thấy tên đội Sénégalais canh toán tù binh đã ngửa cổ uống xong hộp bia, quẳng chiếc hộp ra xa và sắp ra lệnh cho tù binh đi vào tỉnh:

- Chú bị bắt có tang vật gì không?

Chủy đáp ngay:

- Không anh ạ.

- Nếu vậy chú liệu khai cho khéo, tất nhiên được thả sớm, tôi hiện làm bí thư cho ông tỉnh trưởng, nhà số 3 phố Hoàng Hoa Thám, chú được ra nên qua đằng tôi, anh em nói chuyện, về phần tôi ngoài này, tôi cũng cố xem có thể giúp chú được gì không.

Tên đội Sénégalais đã vỗ tay ra lệnh cho tù binh đứng dậy xếp thành hàng hai... Đạo từ biệt Chủy.

Đạo là con trai duy nhất của bà huyện Ba và cũng là cậu ấm bình dân nhất trong số những cậu ấm cô chiêu con cụ huyện Từ. Có lẽ vì là con bà Ba nên chất quan cách loãng đi, số anh chị em một cha ba mẹ lại quá đông nên sự chăm nom săn sóc nặng tính chất nề nếp hợp lý mà rất thiếu về tình cảm thắm thiết. Nề nếp ấy giữ cho Đạo được ăn học theo đúng con giòng cháu giống; sự thiếu tình cảm kia đã khiến Đạo tìm lối thoát theo thiên tính ưa bông lơn để chàng dễ gần với đám người bình dân. Chủy nhớ là Đạo vẫn hay mặc quần áo nay bằng vải phin trắng nõn hay bằng lụa tơ tầm vàng ngà, rất quý phái, nhưng lại ngồi xổm bên bác đánh vó hay ngồi giữa đám nông phu trong quán nước để tán chuyện gẫu. Lúc Đạo thoạt gia nhập ai nấy thường e dè, nhưng chỉ qua đi vài câu bông lơn có duyên của Đạo là tiếng cười hòa đồng ngay và bức thành giai cấp tự nó xụp đổ. Tiếng vẫn theo học ở Hà Nội nhưng Đạo vẫn gần gũi với quê hương là thế. Cho đến ngày trưởng thành - ngày cưới vợ - Đạo được cha tậu cho một dinh cư riênq ngay sát bên căn nhà tranh nghèo của mẹ con Chủy. Đạo hơn Chủy độ năm sáu tuổi, bà đồ Thinh có giải thích cho Chủy hay là bà huyện Ba với ông đồ có liên hệ xa xôi chị em con già con dì. Đạo vẫn thân mật gọi Chủy là “chú Chùy” và lẽ cố nhiên nhiều khi đùa cợt với Chủy, nhưng Chủy rất ác cảm với vợ Đạo. Đạo hai mươi nhăm tuổi mới lấy vợ - ở nhà quê như vậy là muộn lắm - vợ Đạo cũng là con quan. Chủy thấy cử chỉ, lời ăn tiếng nói của vợ Đạo rất cao kỳ, tiếng gọi con sen kéo dài đài các: “Seeen!”, giọng mắng sang sảng “Mày ngu lắm seeen!”, giọng sai bảo cũng sang sảng: “Nghe tao đây seeen!” Chủy nghe mà lộn ruột. Thoạt nhà Chủy với nhà Đạo chỉ cách nhau có hàng rào dâm bụt, vợ chồng Đạo về ở được một năm thì cho xây tường dầy hai mươi phân, cao hơn đầu người. Thế càng hay, Chủy khỏi phải nhìn thấp thoáng bóng đài các của người đàn bà con quan kia, và tiếng nói sang sảng của người đó cách ngỡ tường dầy cũng đỡ làm Chủy muốn nổi xung. Mỗi khi thoáng gặp vợ Đạo từ xa lại, Chủy tránh sang ngõ khác ngay, Gớm mặt! Thực ra vợ Đạo chưa hề một lần thất lỗi với mẹ con Chủy; đôi khi có điều gì nói với bà đồ Thinh, người đàn bà con quan ấy giữ đúng lễ vai dưới, thưa gửi trịnh trọng, nhưng Chùy vẫn thấy... “thế nào ấy”; thái độ lễ phép kiểu cách ấy vẫn như là một loại xa xỉ phẩm mà kẻ giàu sang bố thí cho kẻ nghèo hèn. Chính vì thế Chủy càng ghét vợ Đạo thậm tệ và luôn luôn tự nhủ thầm: “Con mẹ mới kiểu cách giả dối làm sao!”

Có lẽ tại Chủy nặng tự ty mặc cảm quá!

Khi có phong trào hoạt động Việt Minh bí mật thì vợ chồng Đạo lại ra Hà Nội ở, nhà gửi một người nghèo trong họ. Những ngày đầu kháng chiến, Chủy có nghe nói vợ chồng Đạo tản cư ít ngày về phía cổng Thần, Chợ Đại (Liên Khu III) rồi trở về Thành ngay.

Bị nhốt ở camp Hải Dương khoảng mười ngày thì Chủy bị gọi lên hỏi cung với một trận đòn phủ đầu tối tăm mặt mũi: “Mày có phải cán bộ Việt Minh? Mày có phải Việt Minh quan trọng?” Chủy chịu được đòn, khai rằng mình là thường dân tản cư đến miền đó, rằng mình vẫn định dến Hải Dương thăm người bà con làm bí thư cho ông tỉnh trưởng hiện ngụ tại số 3 phố Hoàng Hoa Thám, rằng nếu được gặp người bà con áy mình sẽ xin giấy tờtrở về quê cũ...

Lời khai khôn ngoan của một cựu chủ tịch huyện, đương kim tỉnh ủy viên, có thừa mánh lới, kèm theo bộ mặt nông dân với đôi mắt biết kịp thời dịu tia nhìn cho đượm phần chất phác, đã khiến Chủy chỉ bị ba trận độn đầu rồi được tha. Để phòng nhì cùng công an chỉ điểm quốc gia thật yên chí về sự ngay tình của mình, Chủy hỏi thăm đường tìm đến nhà số 3 Hoàng Hoa Thám. Dự định tới thăm Đạo, Chủy còn thâm ý muốn dò la cho rõ tình hình địch và bù nhìn về nếp sinh hoạt thường nhật, vệ quân sự cũng như về tổ chức hành chánh để tiện bề lãnh đạo sau này khi trở về vùng kháng chiến, trở về với bí danh Mạnh, tỉnh ủy viên Hải Dương.

Đầu tuy đã chải khi ra khỏi trại giam nhưng vì lâu ngày chưa húi nên tóc sau gáy và hai bên thái dương khá dài làm Chủy thấy bận bịu; sự bận bịu đó khơi dậy sự bận bịu trong thâm tâm Chủy hằng có với vợ Đạo từ xưa. Vô tình Chủy giơ tay lên vuốt lại mái tóc từ đĩnh đầu xuống gáy, nghĩ thầm: “Con mẹ đó trông thấy mình ăn mặc như thế này, đầu tóc như thế này, nó khinh phải biết! Cái giống tiểu tư sản quan liêu thoái hóa đó sớm muộn cũng phải tiêu diệt chúng cho bằng hết!”

Ai xôi vò chè đưừng! Tiếng rao lanh lảnh của cô bán xôi chè đường tiến lại, Chủy né mình tránh. Mùi nước dùng ngào ngạt cũng vừa ấp tới phà ấm mặt, Chủy đưa mắt nhìn vào hàng phở ngay bên, khách đương đông, tíu tít kẻ ngồi người đứng, kẻ ngẩng nhìn chờ đợi, người cúi ăn mải mê, tiếng nói xen tiếng cười... Qua hiệu phở đến một cửa hàng tạp hóa khá lớn, sát tường phía trong cùng, những chai rượu vang, rhum, champagne đủ các nhãn hiệu xếp thành hàng dài trên kệ cao nhất, mấy kệ dưới là những đồ hộp, những lọ kẹo, đường, bánh ngọt, cà phê... hai tủ kính phía ngoài nhan nhản những thứ hàng xa xỉ. Ngoài kia giá có được cắt cái móng tay chẳng hạn, đã là quý, mà ở đây biết bao những hàng quý gấp ngàn lần bầy la liệt, thừa mứa. Tiếp đến mấy gian liền những cửa hiệu sản xuắt bánh đậu, bánh khảo nổi tiếng khắp Bắc Việt, mùi vani quyện với mùi đường mùi bột thơm phức.

Một lần nữa Chủy giơ tay vuốt mớ tóc dài rối lầm bầm: “Chúng nó phè phỡn trong bơ sữa thế này không hèn sao được?”

(Chỗ này Chủy lại quên béng mất tư tưởng mấu chốt của người cộng sản: vật chất quyết định)

Chủy đã rẽ sang tay trái: phố Hoàng Hoa Thám!

II

Chủy ngừng lại trước cửa nhà số 3, đúng rồi nhà Đạo. Tiếng Đạo từ trong vẳng

ra:

- Bu mày ơi sao chỗ này khai khai thế này?

- Con ông nó đái chứ còn ai vào đây nữa.

Giọng trả lời sang sảng đó là giọng vợ Đạo, Chủy còn nhận ra.

- Thằng mặt dài trí thức đái hay thằng mặt tròn nông dân đái?

- Thằng mặt tròn nông dân đái! Chỗ ấy trước chả có một kẽ nẻ xi măng, ông ấy lấy que bới lên thành một cái hố nhỏ rồi lúc nào mót là ra đấy vạch quần đái vào.

- Hừ! Đúng là thằng hồn nhiên! À nó đây rồi, tại sao mày đái ra sân cảnh của cậu, khai bỏ mẹ!

Tiếng thằng bé nhắc lại lời bố:

- Khai bỏ mẹ!

Chủy bám chuông, Đạo ở trong nhà ra reo:

- Ồ kìa chú Chủy, chú đã được tha? May quá.

Vâng, tôi được tha sáng nay, nhưng chờ họ đánh máy xong giấy tờ cũng gần trưa.

- Thì tôi cũng vừa tan sở về đây, vừa kịp thay áo. Mình ơi, có chú Chủy.

Vợ Đạo đã ra, Chủy cúi chào, vợ Đạo đáp lễ rất niềm nở, Chủy không ngờ bầu không khí sớm dễ thở đến thế.

- Chào chị.

- Chào chú. Trời, bao nhiêu năm trời mới gặp chú, chú vẫn thế.

Đạo giải thích lại cho vợ nghe trường hợp Chủy bị bắt. Vợ Đạo gật đầu:

Thôi bây giờ chú được tha là may. Làng Lại Vũ nhà ở đúng vào khoảng tề hai mang chú ạ, thành ra chúng tôi cũng chẳng dám về. Nhất là nhà tôi lại...

Đạo tiếp ngay:

Tôi lại là bí thư của ông tỉnh trưởng! về làng rủi gặp các bố ngoài ấy, nhất định bị cõng đi. Phong kiến phản động mà.

Chủy giữ nụ cười xã giao buổi đầu gặp mặt.

- Bác ạ - Bác ạ - Bác ạ - Bác ạ!

Đạo cười:

- À hà, chúng nó ra trình diện cả. Chúng bay phải chào là “chú ạ” nhé.

Vợ Đạo giải thích:

Ấy chúng nó cứ thấy ai đến chơi với cậu chúng nó thì là bất kỳ già trẻ đều được chào “bác ạ” rồi sau đó mới chỉnh lý sau.

Đạo chỉ từng đứa theo thứ tự từ trên xuống dưới nói với Chủy:

Con này tên Thúy, lười một cây tôi gọi là con Lười. Con này là Liễu đáo để một cây, tôi gọi là con Đáo Để. Thằng này ông trưởng của tôi, tên Quang mặt dài trông rất trí thức, chỉ phải cái tội mồ hôi chua mùi nước dừa để ôi. Thằng cuối cùng mặt tròn má bánh đúc rất hồn nhiên, tên Minh tôi gọi là thằng Hồn Nhiên. Thôi a lê, chúng mày đi vào! Chú Chủy tắm nhé, rồi chúng mình ăn cơm nói chuyện là vừa.

Chủy thấy lây cái vui của Đạo vừa xoa đầu đứa nhỏ nhất vừa nói:

- Vâng xin phép anh chị tôi vào tắm.

Đạo mở tủ lấy bộ pyjama mang vào buồng tắm:

Chú cao lớn hơn tôi một chút, mặc có hơi chật nhưng không sao. Quần áo của chú tắm xong cứ để đấy, chiều nào con sen nhà tôi cũng nấu, giặt một đống quần áo đấy.

- Vâng cám ơn anh, anh cử để mặc tôi.

Và Chủy đóng cửa buồng tắm lại.

Vừa rồi Chủy hơi thụ động trước vợ chồng Đạo, giờ đây một mình trong buồng tắm Chủy vừa kỳ cọ, dội nước, vừa ôn lại những hình ảnh. Đạo vẫn hóm hỉnh, dễ dãi như xưa. Vợ Đạo đã là người đàn bà đứng tuổi bốn con, khuôn mặt với nước da trắng mịn ngày xưa nay đã nhiều vết rám tàn nhang, đôi mắt một mí với cái nhìn thuần thục đượm chút mệt mỏi, người béo bệu, nhưng cử chỉ, dáng đi đứng còn kiểu cách, nhất là giọng nói, vẫn giọng sang sảng. Tự nhiên Chủy lại muốn nổi xung: “Không có cuộc cách mạng tháng tám, con mẹ đó còn hách dịch!” Để dẹp mặc cảm, Chủy so sánh vợ Đạo với Vân. Vợ Đạo thuở trẻ nhất cũng chưa thể ăn đứt được Vân, mà Vân đã là vợ của Chủy! Chùy đã từng thẳng tay đàn áp lũ tiểu tư sản đối lập Đảng, nhưng với Vân bao giờ Chùy cũng thẳng thắn tự nhủ thầm là mình quả đã tốt số lắm. Nếu không có cuộc cách mạng tháng tám rồi cuộc kháng chiến do Đảng lãnh đạo làm sao Chùy có uy thế cưới Vân làm vợ? Đêm tân hôn tại đồn điền Lợi Ký, Chủy - bí danh Mạnh, chủ tịch huyện Thanh Ba - rất e dè khi tiến đến gần Vân. Qua đêm, hôm sau mỗi lần thấy Chủy đi qua, Vân cúi đầu. Bây giờ nhớ lại dáng cúi đầu đó, Chủy còn thấy kiêu hãnh. Đàn bà như thế cả mà! Việc gì phải quá quan trọng hóa nhan sắc của họ. Áy tiếng là nghĩ thế để hạ uy thế Vân, mà sao mỗi lần gần Vân, Chủy vẫn thấy mình là kẻ đã say trước khi uống và càng uống càng thêm khát.

Ít khi Chủy chịu xa Vân quá hai tuần. Nếu có sự đoàn thể thuyên chuyển công tác, Chủy thu xếp cho Vân theo đi liền tới địa phương mới. Một điểm nữa: Chủy hết sức khéo léo tránh việc phải đưa Vân vào đoàn thể. Có lần nhìn đám mây trôi nổi không mục đích trên trời xanh, Chủy cảm thấy mình đã làm phải, Vân cần được tự do ngoài những ràng buộc của tổ chức đoàn thế mới đẹp. Sau này Chủy đặt tên đứa con đầu lòng là Du, “Vân Du” tên hai mẹ con kết hợp lại là hình ảnh mây bay tự do trên nền trời xanh. Tất cả những ý nghĩ đó đều hoạt động ngầm trong tiềm thức, Chủy chỉ là cây nam châm bị hút theo chiều vô hình. Trong bóng đêm dù Vân luôn thụ động - ít khi Vân lộ vẻ cộng hưởng - nhưng người Vân là cả một pho tượng tuyệt mỹ, được ôm cái tuyệt mỹ mà rung động thì cần gì phải kiểm soát xem có sự cộng hưởng hay không.

Chỗ này chúng ta cần biết thêm: Ban ngày thường khi Chủy kín đáo ngắm Vân âu yếm, có lần Chùy bắt gặp Vân nhìn ra xa long lanh đôi mắt và ửng hồng đôi má. Buổi chiều kia Chủy được dự tiệc liên hoan đón một cấp tướng mới ở Liên Khu Tư ra. Toàn các đảng viên cao cấp. Chủy tham dự để được các đàn anh giới thiệu là “một cánh tay điển hình của Đảng đã biết diệt trừ tận gốc mọi mầm mống phản động”. Nghe giới thiệu như vậy viên trung tướng Liên Khu Tư chỉ khẽ nhếch mép cười, đưa mắt nhìn Chủy một giây, gật đầu một cái rồi tiếp tục vui đùa với các bằng hữu khác đã từng là đồng chí với ông từ thuở ở bên Tàu. Chủy không hề mếch lòng, biết phận lắm. Trước khi gặp, Chủy đã biết tiểu sử viên tướng đảng viên cao cấp này, một viên tưởng có tài, từng tham dự đắc lực cuộc vạn lý trường chinh bên Mao Trạch Đông, tính tình nghệ sĩ, giá ở người khác thì đã bị kết tội là tiểu tư sản thoái hóa rồi. ở Liên Khu Tư ông tổ chức hẳn một giây liên lạc nối liền Liên Khu Tư với nội thành để cung cấp đều những sơn hào hải vị cùng rượu và thuốc lá hảo hạng cho ông hằng ngày. Anh em đồng chí còn gán cho ông danh hiệu “Nguyễn Công Trứ của thế kỷ hai mươi”, vì ông cũng tới địa phương nào là có vợ ở địa phương đó, đều là hoa khôi của từng vùng. Người vợ ông mới lấy ở Liên Khu Tư là một tiểu thư con quan, trẻ, đẹp và có học thức, chỉ đáng tuổi con ông.

(Cô có người bạn gái lên Việt Bắc học Luật, cô vẫn thư từ đều với cô bạn này, thư từ viết theo kiểu nhật ký rất... tiểu tư sản, khi thì là mấy dòng cảm nghĩ, khi là một bài thơ, khi là một bản nhỏ mới sáng tác... Điều này Kha biết vì dạo đó - như chúng ta đã biết - Kha cũng học Luật).

Trong bữa tiệc liên hoan Chủy ngồi tít phía cuối bàn, luôn luôn ngắm kỹ viên tướng, lòng thán phục vô cùng (nếu ông không phải đảng viên, lại ngang cấp với Chủy tất có thể bị Chủy thủ tiêu). Khuôn mặt ông xương xương lưỡng quyền nhô cao, hai bên quai hàm bạnh, cằm nhọn, rau cạo nhẵn nhưng trông cũng biết là cứng và ráp. Ồng nói rất có duyên, câu trước là chuyện đảng đấy, câu sau có thể đã là chuyện trai gái. Mọi người im lặng theo rõi từng lời khi ông đang nói dở, rồi cười theo ông khi câu chuyện chấm dứt. Người ta đồn ông có thể diễn thuyết bốn năm tiếng đồng hồ liền khống cần môt mảnh giấy nhỏ ghi trước dàn bài, có lẽ đúng, vì Chủy thấy càng sâu vào tiệc ông nói càng thao thao, nhất là trong tiệc này chắc các đồng chí đều hiểu tính ông nên cũng đủ sơn hào hải vị, rượu hảo hạng và xì gà, y hệt bữa tiệc của một đế quốc tư bản. Chủy còn nhớ mãi một câu ông ta nói: “Diệt tiểu tư sản thì ta cứ diệt, nhưng gái tiểu tư sản thì ta không nên chê chút nào, “bồồng” lắm!

Tiệc tan, Chủy chếnh choáng trở về. Gió rừng đêm lành lạnh lùa vào tận chân tóc và lúc đó Chủy mới dám so sánh thầm Chủy lấy Vân cũng giống như ông tướng kia lấy cô con quan, Chủy còn hơn vị đồng chí đó là tuổi không quá chênh lệch với Vân. Về tới nhà đã tới mười hai giờ khuya, Vân còn thức. Chủy đi rửa mặt nước lạnh, đánh răng thay bộ quần áo cánh nâu mới giặt lòng phơi phới tưởng như khi bước vào phòng chính Chủy quyến rũ Vân đêm đó. Sự thực Vân nằm thao thức nhớ đến Kha, nhớ đến ngày Kha bất chợt về đồn điền; nàng đã là vợ Chùy được nửa tháng, nhớ đến buổi sáng hôm sau Kha ra đi và nàng xách lẵng tất tả lên đồi chè, nói là chè tươi nhà uống đã gần hết cần phải đi hái thêm, sự thực nàng lên đồi ngồi phệt dưới một gốc chẫu ôm mặt khóc nức nở... Chủy về... Vân nằm lắng nghe tiếng nước giội... rồi tiếng guốc Chủy kéo lệt sệt vào buồng (Chủy vẫn còn say), tiếng guốc đó sao mà giống tiếng guốc của Kha. Hồi còn ở Định Quyết, Vân vẫn chê Kha là “vua lười”, nhất là khi Kha đã quen thân với Hãng, mỗi chủ nhật về làng, hai người đi bên nhau, Kha dựa vào Hãng xiêu đổ cả người, tiếng guốc lê quèn quẹt, Vân trông mà phát phì cười. Chủy đã chui vào chăn nằm bên Vân, Chùy đem vào trong chăn hơi sương lạnh bên ngoài làm cảm giác Vân nhớ Kha càng thêm phần tê dại. Chủy nghiêng người ôm Vân, bất giác Vân quàng tay ôm lại. Vân ghét hơi thuốc lá nhưng lần này mùi xì gà làm nàng dễ chịu, nàng nhớ đến một lần Hãng bóc gói Philip mời Kha một điếu. Kha rất ít khi hút, thoạt mân mê điếu thuốc rồi đưa lên mũi ngửi khen thơm như sữa. Hãng quẹt que diêm thứ hai tiếp lửa cho và khi hút Kha thở khói nhìn lên trời dáng điệu thưởng thức cũng thành thạo chẳng kém gì Hãng, đó lại là một điều nữa làm Vân muốn phì cười, vừa khi đó Kha nhìn về phía Vân, nàng bèn mím môi rồi đánh trống lảng hỏi Kha một chữ khó, Kha tiến lại cúi nhìn cuốn truyện chữ Pháp đọc cả câu rồi mới tìm nghĩa cho đúng, lần đó mùl thuốc lá làm Vân thấy dễ chịu. Chủy đã ghì chặt nàng nói những gì bên tai, nàng nào có nghe rõ nhưng nàng cũng ghì lại say mê. Vân ôm Chủy theo hình ảnh Kha, đó là lần đầu tiên Chủy thấy Vân có thái độ cộng hưởng. Nàng có mang rồi sinh ra Du.

III

- Cậu ơi no quá à!

Đạo bế bổng thằng bé út lên vừa hôn liên tiếp ầm ĩ lên hai má nó vừa nói:

- Ừ sắp ăn cơm đây thằng hồn nhiên của cậu ạ.

Vợ Đạo gắt chồng:

- Hôn gì mà như xúc thịt con!

Đạo cười nói với Chủy khi đó vừa trong buồng tắm ra:

Cái thằng hồn nhiên này biết rất nhiều ngữ vựng rồi, những toàn nói ngược. Đấy rồi chú xem, vừa rồi nó nói “no quá” ấy là nó kêu “đói quá” đấy.

Chủy cười lớn cố xua đuổi hình ảnh Vân đầy ắp trong trí từ lúc Chủy đem Vân ra so sánh với vợ Đạo trong buồng tắm. Chủy giơ hai tay ra nói với bé Minh cũng trạc tuổi Du:

- Cháu Hồn Nhiên ra đây chú bế đi ăn cơm nào.

Bé Minh theo ngay, Chủy bỗng thấy sung sướng như được bế bé Du. Vợ Đạo nói:

Về phía con trai thằng này thiệp liệp hơn thằng Quang nhiều. Bạn của cậu nó tới nhà tự ý nó ra là quen.

Mọi người ra bàn ăn, Bé Minh ngồi giữa Đạo và Chủy. Đạo xoa đầu thằng Quang, cũng ngồi sát một bên và nói đùa:

Con tuy mồ hôi chua nhưng là trưởng nam con ạ, về sau này các chị mà lôi thôi, nó đóng cửa nhà thờ.

Liễu cong cớn:

- Nó đóng cửa nhà thờ con “oánh”!

Thúy đã mười hai nên tinh khôn nhớ lại lời người lớn thường nói, nó vung tay làm điệu không cần:

- Nó đóng cửa nhà thờ thì chúng con cúng ngoài giời, con đâu cha mẹ đấy.

Vợ Đạo đã xới cơm cho cả nhà, thốt lên:

- Ôi chao, chúng nó về sau này Tây Tàu, đã chắc gì chúng nghĩ đến giỗ với tết!

Đạo quay hỏi Chủy:

- À, giỗ ông bà nhà vào tháng nào chú nhỉ?

Cũng may Chủy nhớ ra ngay:

- Dạ giỗ thầy tôi vào mười hai tháng chín, giổ mẹ tôi vào mùng ba tháng hai.

Kể ra Chủy có thể lúng túng khi bất chợt bị hỏi về ngày giỗ cha mẹ. Suốt thời hoạt động bí mật rồi thời đầu kháng chiến, Chủy đâu có thời giờ rỗi để nhớ đến ngày giỗ. Kịp khi cưới Vân ít bữa sau tới ngày giỗ mẹ. Chủy sực nhớ và bảo Vân làm giỗ. Ông bà Phán hỏi thêm về ngày giỗ ông Đồ. Từ năm sau Vân tự nhớ hai ngày giỗ lớn đó, cận ngày công tác thì Vân nhắc Chủy nhớ về, xa ngày công tác khi Chủy về đã xong ngày giỗ thì Vân nhắc lại. Thái độ đó của Vân ảnh hưởng đến tâm hồn sắt đá của Chủy đương thời thẳng tay tàn sát các đảng viên quốc gia đối lập.

Trong bữa ăn vợ Đạo hỏi Chủy về vợ con. Hình ảnh Vân vừa lãng quên lại ùa vào tràn đầy trong trí. Chùy đáp:

- Cám ơn chị, chúng tôi được một cháu giai bằng cỡ cháu Minh đây.

Đạo hỏi:

- Sao chú thím muộn thế?

Chủy lúng túng không biết trả lời ra sao chỉ biết “dạ” một tiếng. Lý do: nuôi con ở vùng hằng ng0y lo chạy bom đạn là một điều cực nhọc vô cùng, dù Chủy là đảng viên cốt cán được nhiều đặc ân. Thương Vân, Chủy đã nhờ các đàn em công tác nội thành mua hộ một số đồ cao su dự trữ để tránh cho Vân khỏi sinh nở nữa.

Con sen bưng lên một đĩa lớn, bé Minh bỗng thét lớn:

- Mợ ơi nó cắp con!

Vợ Đạo đón lấy đĩa cua bể lột tẩm bột trứng tự tay con sen, đặt xuống bàn rồi vừa cười vừa nói:

- Cua mợ đã rán chín cắp con sao được?

Rồi giải thích với Chủy:

Tuần trước tôi chả mua cua bể thả vào chậu nước vo gạo, cháu tới thò tay nghịch, bị nó cắp cho chảy máu.

Vợ chồng Đạo chuyển sang chuyện hồi tản cư ở cống Thần, Chợ Đại, nơi vui nhất mọi miền kháng chiến.

Thúy hỏi mẹ:

- Ngày đó cậu cũng kháng chiến ư hở mợ.

Vợ Đạo “ừ” đáp lời con và bỗng nhiên chuyển sang lời tâm sự:

Mợ có linh tính lạ lắm kia. Mỗi lần cậu đi làm việc tại cơ quan thường lâu lâu mới về, nhiều hôm linh tính báo cho mợ hay là cậu sắp về, mợ ra ngoài vườn thơ thẩn nhìn con đường đất đỏ phía trước, quả nhiên cậu con về thật, từ xa đi lại, thoáng nhìn mợ nhận ra ngay.

Liễu hỏi:

- Linh tính là gì hở mợ?

Vợ Đạo còn đang lúng túng chưa biết trả lời ra sao, Quang đã hỏi:

- Ngày đó con có đi với Cậu không hở mợ?

Đạo bật cười đặt bát xuống xoa đầu nó:

- Ngày đó mày còn ở nước nam nứ nào!

Vợ Đạo nói với Chủy:

- Thật ra ngày đó tôi mới có mang cháu Quang này, rồi vào Thành thì đẻ cháu.

Câu chuyện trong mâm cơm cứ dìu dịu như vậy cho đến khi dùng đồ tráng miệng.

Con sen đã dọn xong căn buồng dành cho Chủy.

Căn nhà gia đình Đạo ở khá sâu: gian ngoài cùng bày biện làm phòng khách; buồng kế tiếp - buồng vợ chồng Đạo dành riêng cho Chủy - có kê chiếc giường nhỏ, chiếc bàn viết và một chiếc ghế dựa; vào trong, qua cái sân hẹp có bể trữ nước mưa, tới căn phòng vợ chồng Đạo với chiếc giường xinh cho đứa nhỏ, bên trên là căn gác xép vừa làm phòng học, vừa làm phòng ngủ cho ba đứa lớn, trong cùng là bếp và giường cho con sen mới chừng mười lăm tuổi.

Đạo thân mật bảo Chủy:

- Chú nghỉ trưa một chút cho lại sức. Buồng này dành riêng cho anh em bà con hay khách khứa đấy. Chú ở đây với chúng tôi ít nhất một tuần đi, nghỉ ngơi cho thật khỏe rồi hãy tính chuyện ra ngoài ấy với thím và cháu.

Chủy bỗng chớp mắt, vừa lúc bé Minh vào, Chủy bế bé lên và nói:

- Tôi nhớ cháu lắm, tôi phải ra ngoài ấy sớm anh ạ.

- Điều đó tôi không dám giữ chú, nhưng chú nên ở đây vài ngày cho thật lại sức.

Đạo giơ tay đón bé Minh, bế qua sân nhỏ sang phòng mình. Chủy chui vào màn nằm ruỗi thẳng cẳng, mùi chăn, mùi áo gối mới giặt thơm phức làm Chủy thấy tâm thần sảng khoai hẳn.

Tiếng Đạo bên phòng vọng sang cùng với tiếng cười khanh khách từng đợt chấm câu của bé Minh:

- A cái thằng tròn của cậu - (bây giờ lại là thằng tròn) - cái đầu tròn này, cái trán tròn này, hai con mẳt tròn này, hai cái tai tròn này, hai cái má tròn này, cái mũi tròn này, cái mồm tròn này, cái cầm tròn này, cái cổ tròn này, hai cái tay tròn này, cái bụng tròn này, con. ể. chim tròn này...

Tiếng vợ Đạo gắt:

- Con nó vừa ăn no để nó nghỉ, ông!

Chủy vươn vai một lần nữa nhìn lên đỉnh màn cười bâng quơ, rồi nhắm mắt lại nghĩ đến Vân và Du.

Thằng Du càng lớn càng bụ bẫm, nước da bánh mật khỏe mạnh giống bố, đôi mắt to và đen của mẹ. Chủy yêu vợ thương con nhưng có thừa khôn ngoan giấu kín thứ tình cảm đó để đoàn thể không thể coi đó là một nhược điểm mà phê bình. Thì trước khi cưới Vân đoàn thể chẳng đã ưng và cho phép? Từ sau ngày cưới Vân, Chủy có làm điều gì sơ xuất khiến đoàn thể phải phê bình đâu? Trái lại Chủy càng tỏ ra đắc lực trong công tác luôn luôn thẳng lời “chỉnh” đồng chí nào còn nặng óc tiểu tư sản, luôn luôn dòi thẳng tay trừng trị những tên phản động tại các tòa án nhân dân mà Chủy có mặt trong đoàn bồi thẩmđể ngầm điều khiển cho đến ngày viên thẩm phán tuyên án. Còn Du, việc Chủy yêu nó thật nhẹ nhõm vì đâu đã phải bận tâm uốn nắn tư tưởng cho nó, và yêu đứa trẻ còn nhỏ dại như thế đâu có phạm đến gương mẫu làm giảm uy tín cán bộ?

Ý nghĩ Chủy nghiêng rất nhanh về Vân, phút chốc hình ảnh Vân lại đầy ắp, độc chiếm. “Thôi mai mình phải ra ngoài đó ngay!” - Chủy tự nhủ thầm thế. Cho đến ngày Vân đã là mẹ, thái độ Vân theo sự nhận xét của Chủy, vẫn là thái độ ngập ngừng giữa e dè và dâng hiến, Vân như ôm trong lòng một dĩ vãng nào - (Chủy làm sao biết được điều đó) - sinh lực nàng vẫn tràn đầy, thân thể nàng vẫn đậm đà tuyệt mỹ. Một đêm trên bước đường công tác, đã hai tuần Chủy chưa gặp Vân, chợt nhìn một vì sao đổi ngôi phóng mình mất hút vào sâu vũ trụ, Chủy liên tưởng những giây phút ân ái với Vân và thấy rằng mình trong những phút đó cũng là một thứ sao đổi ngôi với những tư tưởng rồ dại mà thành sự thực. Còn về sức lực, trừ những cơn sốt rét bất ngờ hai ba tháng một lần làm rã rời cơ thể và tinh thần hai, ba ngày liền, Chủy vẫn thuộc loại sức lực vạm vỡ, lại thêm công tác lưu động dưới nắng gió phơi phới, sức lực đó càng dẻo dai thêm. Kể từ ngày bị bắt ở bờ sông Lụộc, bị giam giữ ở trại ở trại lộ thiên, về camp Hải Dương chịu máy trận đòn phủ đầu rồi được tha, Chủy xa Vân đã trên một tháng rồi. Mấy trận đòn của phòng nhì Pháp không làm cho Chủy yếu đi, trái lại có tác động kích thích giây thần kinh, khiến Chủy càng khao khát khoái cảm nhục thể.

IV

Buổi chiều vợ chồng Đạo xin lỗi không ở nhà ăn cơm cùng Chủy được vì phải đi dự tiệc tiếp tân tại tòa tình trưởng.

Trước khi đi Đạo giao hẹn các con phải ngoan với “chú Chủy”. Vợ Đạo quắc mắt bảo bé Quang:

Nhất là thằng Quang này hay hoẵng lắm, chốc nữa về chú Chủy mách là chết đòn nghe không.

Quang thỏ thẻ:

- Mợ phải nói “Quang con của mợ”, mợ không được nói “thằng Quang”.

Cả nhà bật cười. Chợt Đạo hỏi:

- Chết chưa cái bật lửa của tôi sao mất nắp thế này?

Vợ Đạo đáp:

Ấy ban sáng “Quang con của mợ” nghịch đấy, chắc lại mang ra hè phố chơi rồi để rơi mất nắp chứ có gì lạ đâu.

Đạo nghe chừng đã quen những loại bực mình nho nhỏ như vậy, chỉ lắc đầu:

- Chết thật nhà lắm con, đồ dùng cái gì cũng “thiên tiên bất túc”.

Liễu nói liến láu:

Cái thằng Quang là cái gì cũng nghịch kia, sáng nay thằng Quang nó đứng đái, nó đố thằng Minh tóm được rồi thằng Minh tóm nước đái, rồi chị Thúy phải rửa tay cho.

Cả hai vợ chồng Đạo cùng thốt:

- Trời ơi!

Liễu nói tiếp:

Sáng nay lúc cậu đi làm nó nằng nặc xin mợ tiền, rồi ra đầu phố mua bánh rán, rồi ăn không hết vứt ra giường, rồi mợ ăn thừa, mợ bảo tao đã ăn thừa bánh sữa lại ăn thừa bánh rán, bụng tao như cái thùng rác của chúng mày...

Đạo ngắt lời con:

Thôi thôi, con bà nàng đáo để, mày, tao thì cứ khâu nửa cái miệng, chỉ cho nói nửa miệng!

Chủy phì cười vì cách mắng con khôi hài của Đạo. Đạo làm ra vẻ hầm hầm trịnh trọng, khiến Liễu im thin thít, kỳ thực Đạo rất khoái thỉnh thoảng được mắng đứa nhỏ như vậy, vừa là một cách biểu lộ tình thương con, vừa để giải trí.

Vợ chồng Đạo đi, căn nhà vắng hẳn, Chủy trở về với trạng thái tâm hồn của tỉnh ủy viên muốn đi quan sát tình hình sinh hoạt vùng địch. Chủy hỏi:

- Có cháu nào đi chơi với chú không?

Cả Quang và Minh đều giơ tay nói:

- Cháu! Cháu!

Chủy giắt Quang, Minh cùng ra phố làm bình phong ngụy trang. Trời đã ngả về chiều, máy phóng thanh tại mấy tiệm lớn tỏa ra một điệu nhạc buồn miền Trung, nhịp nhạc như nhịp chèo hò khoan, có tiếng đàn tranh lẫn với tiếng phách. Qua mấy phố buôn bán, thấy cái gì hay hay Quang, Minh cũng đòi mua mà Chủy thì không có đồng nào trong túi, Chủy dắt chúng rẽ vào một đường vắng, qua một trại lính. Một dãy G.M.C đậu theo dọc dài, xe nào cũng chật ních lính. Chắc họ sắp đi chiến dịch. Những người đàn bà ôm con từ trong trại lính ra tiễn chồng lên đường. Viên chỉ huy chưa có vợ nên đợi giờ khởi hành có phần thanh thản; những người lính có vợ con đứng đấy thì cố làm ra vẻ vui cười để yên lòng người ở lại. Đoàn xe chuyển bánh, những người vợ vẫy, có người cầm tay con vẫy, bầu không khí se lòng đó làm cho Chủy hả hê. Xe đã đi khỏi, mùi xăng tan dần trong không khí buổi chiều, con bò vàng buộc ờ gốc dừa gần đấy rống lên một tiếng ngơ ngác. Những người đàn bà đã dắt trẻ em vào trại ôm trong lòng mối sầu lo riêng tư. Không khí trở nên vẳng lặng yên tĩnh một cảnh thê lương, không một tiếng kêu, không một tiếng than, nhưng tựa như có tiếng nói thầm của tuyệt vọng đâu đây. Chủy thấy mát ruột và dắt Quang, Minh theo đường về.

Chú ơi đi chậm quá à!

Nghe Minh nói Chủy sực nhớ trong phút hào hứng đã đi quá nhanh với hai đứa trẻ, bèn khoan bước lại nói:

- Bây giờ ba chú cháu mình về ăn cơm, mai chú mang tiền đi các cháu muốn mua gì chú cũng mua cho, nghe.

Cơm nước đã xong, Chủy chơi với bé Minh ngoài phòng khách đèn bật sáng trưng. Nói chuyện chán rồi bé Minh vào nhà trong chơi với anh chị, bé dừng lại trước chiếc gương lớn rồi sừng sộ với bóng trong gương: “A mày nhìn tao hả, mày trợn mắt hả, muốn đánh nhau với tao hả?”

Chủy nghiêng đầu cười, nghĩ thầm: “Đúng là thằng hồn nhiên!”

Chợt có tiếng ai ngoài cửa:

- Ống bà Tư có nhà không? (Đạo là con trai thứ tư cụ huyện Từ.)

- Rước cụ vào chơi - Chủy nói - hai bác cháu đi dự tiệc vắng ạ.

Bà cụ đầu tóc bạc phơ, nhưng dáng còn khỏe mạnh bước vào. Cụ hỏi:

- Ồng là người nhà ông Tư?

- Thưa cụ vâng ạ.

- Quý hóa quá, ông bà Tư đây có phúc (cụ ngồi xuống) nhà tôi thật vô phúc ông ạ... (cu lắc đầu chép miệng)...

Chủy nghĩ thầm: “ô hay, cái miền này người ta thật dễ tâm sự!”

- ... Cơm chồng thì ngọt, cơm con thì đắng! Tôi nuôi nó từ ngày nó còn đỏ hỏn, tôi lo cưới xin cho nó hết bạc vạn, nó nghe vợ đi ở riêng, vợ chồng hú hí, chẳng thăm hỏi gì đến mẹ! Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng! Lương nó tháng tháng lĩnh năm sáu ngàn, hai vợ chồng một đứa con, biếu mẹ được năm trăm đồng, thế mà con vợ nó kêu ra kêu vào lương tháng nào hết tháng ấy, ông tính tôi nuôi chồng nó từ thuở còn đỏ hỏn bây giờ tôi không có quyền tháng tháng nhận của chồng nó năm trăm bạc biếu hay sao? Tôi trông cửa hàng cũng thừa đủ ăn, nhưng ông tính tôi cứ nhận chứ.

Chủy mỉm cười kín đáo, nhưng cũng đáp:

- Dạ, cụ nhận là phải.

- Nhà tôi vô phúc, cả dòng họ nhà tôi vô phúc, tôi có con cháu họ vừa lấy chồng được một tháng thì thằng chồng “rinh” một con gái nhảy về. Con cháu hiền quá kia ông ạ, bằng lòng nhận con đĩ làm chị làm em cho vui, con đĩ được đằng chân lân đằng đầu, bảy bắn vợ cả ra khỏi nhà, lúc đẻ tôi phải trông nom, giờ đây một mẹ một con nuôi nhau lần hồi, tháng tháng tôi vẫn phải chu cấp cho, tôi vừa bắt đi học nghề may cắt đồ trẻ em để mà sau này lấy kế sinh nhai, tôi chết đi trông cậy vào ai? Đấy ông xem tình đời có khốn nạn không kia chứ, ấy là lấy chồng có cưới có xin, có giá thú hẳn hoi mà thế đấy. Mà nhà tôi là nhà có giáo dục chứ không đâu. Hồi còn mồ ma cụ cố chúng tôi, trời ơi, toàn đợi đến tối đóng cửa lại rồi cụ mới hỏi tội con cháu. Nhà nho chả thâm mà! Đứa nào biết mình trót có lỗi gì là nơm nớp lo suốt ngày hôm đó, tối đến nghe cụ chợt gọi tên mình, sợ vãi đái. Cụ bắt đứa có lỗi nằm xuống, tất cả những đứa khác khoanh tay đứng xung quanh nghe và xem. Cụ hạch tội trước, rồi quất cho ba roi sau, chỉ ba roi thôi, không nhiều, nhưng ông ơi, đòn cụ cố bốc mộ còn thâm xương...

Cụ thở dài đánh phào, suy nghĩ một giây rồi đứng dậy cáo từ ra về. Chủy không dám nói đưa đà câu nào, sợ cụ lại tâm sự thêm một tràng nữa. Ra khỏi cửa cụ còn ngoái lại nhắc:

- Ông bà Tư đây thật là nhà có phúc! À ông này, một trăm rưởi một lạng vây bây giờ đấy, còn yến thì chịu không mua đâu được!

Chủy chỉ dám khẽ đáp:

- Dạ vâng!

Lũ trẻ lớn đã lên gác xép. Bé Minh đã được con sen bế lên giường, lúc Chủy vào thì thằng bé đã ngủ, miệng hé, một chút răng trước cửa hiện ra trắng nhởn, hai tay giang hai bên, một chân co một chân duỗi thò mấy ngón qua khe thành giường, háng giạng, chiếc si líp xinh xộc xệch để hở chim.

“Chắc giờ này Du cũng ngủ rồi” - Chủy nghĩ vậy rồi cúi xuống khép môi cho bé vì Chủy bỗng nhớ rằng hồi nhỏ khi chợt ngủ mơ màng mẹ vẫn khép môi cho như thế, sợ gió độc. Trở ra phòng mình nằm, hình ảnh Vân, Du có trở lại ám ảnh nhưng vì quá mệt, đầu óc rừng rực, Chủy thiếp đi... chìm rất sâu trong giấc ngủ không mộng;..

Tiếng lách cách ngoài cửa làm Chủy sực dậy. Vợ chồng Đạo, có mang theo chìa khóa riêng đã mở cửa vào. Đầu dịu, đôi mắt mở tỉnh táo, Chủy biết mình đã ngủ được một giấc khá dài. Vợ chồng Đạo rón rén đi qua. Chủy lặng thinh vờ ngủ say. Vợ chồng Đạo thay đồ lên giường ngủ còn rúc rích nói chuyện. Chủy nhổm dậy ra áp tai bên khung cửa sổ, hy vọng nhận được vài tin về tình hình chính quyền bù nhìn tại tỉnh này. Nhưng không, họ chỉ vừa nhắc lại mấy lời phê binh bữa tiệc, rồi sau một tiếng thở dài vợ Đạo nói:

- Tội nghiệp cho con sen!

- Sao tội nghiệp? - Đạo hỏi.

- Lẽ ra tuỗi đó phải ở gần mẹ mới đúng.

Vợ Đạo thuật lại sáng nay nó thấy tháng lần đầu tiên, loay hoay không biết làm thế nào, vợ Đạo phải chỉ dẫn mọi cách.

- Thế ngày xưa - Đạo hỏi - em thấy tháng đầu tiên thì sao?

- Em là con thứ nên không còn lạ gì, lại có mẹ bên cạnh.

Câu chuyện một lần nữa chuyển hướng bất ngờ, vẫn do người vợ dẫn dắt.

- Ông còn nhờ cái dạo ông tằng tịu với con Nga?

Giọng Đạo đau khổ muốn gạt đi:

- Ôi dào... cứ đùa!

- Đùa cái gì, miệng ông xoen xoét ra... Còn con Nga con gái gì mà thối thây!

Đạo cười xòa:

- Khốn nhưng con Nga nó hao hao giống bà, dạo đó tôi cũng có trót dại một tí nhưng quả là nó hao hao giống bà, thành thử tôi định ngoại tinh một cách... chung tình.

- Thôi đi ông, nói chó nó cũng không nghe được! “Còn định...” đứt đuôi đi rồi còn kêu là “còn định...”

Chủy lắc đầu thất vọng trở về giường nằm. Tiếng xì xào của vợ chồng Đạo tiếp tục một lát nữa mới êm hẳn.

Câu chuyện “thấy tháng” có khuấy động trong tiềm thức Chủy một kỷ niệm nào... Chủy nghĩ đến Vân... đôi mắt lơ mơ... Có tiếng gà gáy nửa đêm vọng từ xa, rất xa... Chủy nhắm mắt lại.. Câu chuyện “ngoại tình một cách chung tình” chắc có ảnh hưởng đến giấc mơ của Chủy.

Chủy mơ thấy mình đi công tác với một nữ cán bộ người cùng quê (Bắc Ninh). Nàng có nước da đen giòn, nhất định là không đẹp bằng Vân nhưng giá chiếm hữu được cũng hay. Hai người ngồi trên một bánh xe ô tô, bánh xe tự lăn trên đường công tác. Bánh xe bỗng đảo nghiêng đưa hai người vào một đường hẻm, lên dốc có bậc rồi lăn kềnh sau một khúc quành, trước mặt là một sườn đồi - đồi Bắc Ninh - thoai thoải, đằng sau là hàng rào nứa một căn nhà tranh không bóng người, trên đỉnh dốc là cổng vào một căn nhà gạch cũng không bóng người, đường vắng tanh một cách khiêu khích. Chủy ôm người nữ cán bộ mắt đảo nhìn xung quanh ý sợ có người bất chợt tới, hình như người nữ cán bộ nói “Có đi qua người ta cũng không cười đâu”. Chủy cúi xuống kề má lên mái tóc rậm của nàng, cảm thấy từng cọng tóc cứng đâm lên đồng thời mùi mồ hôi thoảng tới - Chủy nhớ lắm, trong mơ mà cảm thấy mùi hôi đó - mùi hôi kích thích lạ, gần hưởng thụ ái ân thì sực tỉnh.

Chủy mở mắt nhìn trừng trừng lên đình màn như nhìn vào giác mơ, thoạt đầu óc trì trệ nhưng rồi sáng sủa dần, Chủy nhớ ra rằng bối cảnh sườn đồi gần hàng rào nứa một căn nhà tranh, và trên đỉnh dốc, chiếc cổng vào một căn nhà gạch chính là bối cảnh một đồi sắn Phú Thọ, nơi chỉ đã ân ái ngấu nghiến một nữ cán bộ cấp dưới vào một chiều nhòa nhòa, nữ cán bộ đó rất có thể đã là vợ Chủy nếu sau đó Chủy không gặp Vân. Chùy lắc đầu trên gối xua đuổi những hình ảnh đó, nghiêng đầu nhìn ra phía cửa sổ, một khoảng trời vuông đục lờ lờ cắt ngang với nóc nhà hàng xóm, tiếng gà gáy báo sáng vọng lại từ xa. Giấc mơ vừa qua làm Chủy nhớ lại giấc mợ bốn năm hôm trước đây hồi còn trong camp Hải Dương, -(thành thử cố tâm trốn giấc mơ này thì lại rơi vào giấc mộng nọ).

Ngày đó Chủy mơ thấy một cảnh đẻ ngược. Viên bác sĩ nói với người mẹ: “Thưa bà cô ấy đẻ ngược.” Người mẹ vẫn bình tĩnh giặt giũ quần áo, coi như việc đó không nguy hiểm. Nhớ rằng xưa mình có người vợ đẻ ngược chết, Chủy nhìn về phía người bác sĩ và đặc biệt chú ý người đàn bà đẻ ngược thì có thấy một bàn chân xinh nhô ra. Người bác sỉ cố xoa nắn bụng cho người đàn bà đỡ đau, thoắt thôi chiếc chân nhỏ của đứa trẻ có ống quần chấm gót - đứa nhỏ trong bụng mẹ đã mặc quần!

người sản phụ vẫn cố rặn đẻ mà đứa trẻ xem chừng không chịu ra. Chủy cùng nhiều người xung quanh quan sát những điều đó một cách bình thản không coi đó là một cái gì ghê rợn và nguy hiểm. Tất cả những hình ảnh đó tan biến đi... Chủy đi tảo mộ mẹ khi bốc mộ người vợ đầu thì thấy khoảng giữa hai xương hông có cái đầu lâu xinh. Lần này Chủy rùng mình tỉnh dậy...

Sáng hôm sau Chủy hỏi người bạn tù binh ngồi bên cạnh:

- Người mẹ đẻ ngược chết, đứa trẻ còn trong bụng, thì ngày bốc mộ chắc có xương đứa trẻ ở khoảng đó, anh nhỉ.

Người kia cười:

- Làm gì ra! Xương đứa trẻ sơ sinh nhão nhoét, tiêu hết ngay mà!

Chủy lại nhắm nghiền mắt lắc lắc đầu. Phải dời khỏi ngay miền này! Chủy là một cán bộ cốt cán tư tưởng dứt khoát, tinh thần cảnh giác khá sâu xa, Chủy muốn rời khỏi miền này ngay không phải vì sợ mình sẽ trở chiều tâng bốc ca ngợi “miền thối nát nô lệ cho tình cảm cá nhân” này, nhưng vì thấy mình như cái cây bỗng loãng đất phía dưới và trở thành lủng liểng? Gốc cây nào phải bám chắc vào khoảng đất náy không thể sống lủng liểng được! Tại sao miền này kỷ niệm cũ dễ đua nhau xuát hiện lắm thệ?

Chiếc đồng hồ trầm cầm ngoài phòng khách, sau khi dạo đủ câu nhạc, thong thả buông năm tiếng. Có tiếng vợ Đạo dậy, không bật đèn sợ ánh sáng hắt sang phòng Chủy, chỉ bật đèn bếp và đánh thức khẽ con sen. Chủy từ từ ngồi dậy nhìn qua cửa sổ ánh sáng vàng yếu từ nhà bếp chui qua hai khung cửa lối đi in thành một vệt chéo lên khoảng góc sân. Đạo đã dậy. Tiếng ngọn đèn cồn réo lên đều đều và ấm cúng trong bầu không khí mát lạnh ban mai làm nền cho câu chuyện rì rầm của họ, Chủy thấp thoáng nghe được vài mảnh, học đương ôn vài chuyện đã qua, những chuyện làm ăn đứng đắn. Thốt nhiên Chủy nhớ rằng đó là thói quen của chẳng riêng gì những ngươi quê làng Lại Vũ mà là thói quen của hầu hết dân quê miền xuôi. Phải, ngoài những ngày làm mùa hay vào vụ gặt, người dân miền xuôi vẫn giữ thói quen dậy sớm, họ đi ra đồng hưởng cái thú sau “cái thú làm Quận Công, họ ngồi bài tiết giữa khoảng gió đồng buổi sớm mát rời rợi và thơm nhẹ mùi mạ, chất bài tiết rơi tõm xuống ruộng nước, rồi dưới ánh nắng gay gắt từ mười giờ trở đi, chất đó sẽ trương ra, tản đi lắng xuống bổ cho mạ (thỉnh thoảng một trận mưa đổ xuống rửa sạch cho những bờ bãi trở lại nõn nà thơm mát). Sau khi ở đồng trở về họ tạt vào nhà nhau uống chén trà sớm, ôn lại chuyện làm ăn trong vụ mùa vừa qua, ôn lại một vài thiên tai lớn trong dĩ vãng, phê bình một vài nhân vật trong làng; nếu là bậc cha chú tạt vào thăm con cháu thì thường là kiểm điểm lại mọi công việc làm ăn, đồng áng, kèm theo những nhận xét và những lời khuyên răn. Chủy nhớ lại, nhớ hết và nhớ rõ như người bất chợt mở đọc trang sách cũ.

Vợ chồng Đạo đang nói chuyện về đứa con gái lớn. Vợ Đạo than phiền tính nó lười, ngồi đâu bỏ đấy, chính mẹ phải đi dọn dẹp. Đạo chậc lưỡi:

Ấy thế mà số nó về sau sướng đấy. Bu nó có thấy không, thi tiểu học nó đỗ ngay, thi vào đệ thất năm ngoái cũng đỗ ngay, suốt năm học lơ là nhưng được cái thông minh nên vẫn thừa điểm lên lớp.

Vợ Đạo muốn cáu:

- Thôi đi ông, bố như thế thì dạy thế nào được con.

Đạo cố tình trêu vợ:

Đứa nào sau này có phúc mới lấy được con gái thằng này, mà gọi là chứ phải hầu nó mỏi, mắng nó ư, nó về với bố với mẹ nó làm gì nó tốt?

Con gái ông thế có chó nó đến rước đi, ghếch chân lên thành giường nó cũng để gối lót ở dưới. Lộn ruột!

- Thôi đi, bà có ra trường đón nó mới thấy chẳng đứa nào ăn đứt con mình.

- Cứt ai vừa mũi người ấy!

Nó xinh như vậy, học hành nhẹ nhàng như vậy, đáng lẽ bà phải thấy... mát rời rợi mới phải.

Chủy vội bậm miệng để khỏi bật tiếng cười. Đạo quả còn giữ được truyền thống cùa những người miền quê, đặc biệt những người quê làng Lại Vũ, là luôn luôn xen vào lời luận thuyết những châm ngôn tục ngữ để chứng minh, nếu tục thì nói nửa úp nửa mở. Chủy lạ gì câu đó, trước đây hồi còn nhỏ chẳng ngày nào là bà đồ không mắng Chủy bằng câu “Cha tiên nhân nhà mày, đẻ con khôn mát... rời rợi. đẻ con dại thảm hại cái...”

Chủy đã đứng dậy xỏ chân vào guốc cố tình khua động thành tiếng lớn.

- Chú Chủy đã dậy đấy à? - Đạo hỏi.

- Vâng.

Vợ Đạo nói:

Để hai anh em vào nhà trong rửa mặt, tôi mang ấm đồng nước sôi này ra phòng khách pha nước. Hôm nay chủ nhật mà, thong thả!

Vừa thoát cảnh tù tội ở trại giam ra, đã hơn một tháng giời qua tạm xa mọi hoạt động của Đảng, không có chuyện Đảng để đối phó, không có việc Đảng để bố trí, dầu sao Chủy cũng muốn tận hưởng giây phút nghỉ ngơi này trước khi đi.

Ngồi uống trà sớm thế này - Chủy nói với Đạo - làm tôi nhở lại thuở bé lắm hôm vừa sực dậy còn mắt nhắm mắt mở trời sáng sớm lạnh căm căm, tôi đã nghe thầy tôi đương ngồi nói chuyện với ông chú bà bậc bên chiếc hỏa lò có ấm đồng nước bắt đầu sôi réo. Các cụ hay ôn lại những biến cố...

Phải, chú nói đúng, các cụ ôn lại năm nào vỡ đường (vỡ đê sông Hồng), nào những năm có giặc Cờ Đen, năm nào cháy hai phần làng, ô, chú chắc có được nghe thuật lại vụ hỏa hoạn năm đỏ? Dĩ nhiên chú chưa đẻ, tôi mới lên hai gì đó.

Lòng thấy thanh bình, Chủy có nhớ đôi chút chuyện hỏa hoạn này vì bà đồ thuở sinh thời thường nhắc tới luôn. Chùy đáp:

Về sau này mỗi lần ông già bà cả nhắc lại vẫn thường bảo là từ sau vụ hỏa hoạn đò làng ta làm ăn phát đạt hẳn, có sát rồi mới phát!

Đạo vừa nhấp xong ngụm trà:

Ây ông cụ tôi vốn sành địa lý nói rằng người để hướng đình làng mình là học trò cụ đốc họ Hoàng. Người học trò biết rằng cắm hướng đình đó mình sẽ chết, đặt trên đầu con hoàng xà mà, tát nó quật lại, vì vậy phần kim đặt hướng xong ông lên ngựa đi liền, nhưng không chạỵ kịp, được nửa đường thì hộc máu chết. Thôi thế cũng là cách đền ơn thầy. Đình cất được năm xảy tới vụ hỏa hoạn.

Vợ Đạo theo dõi câu chuyện hỏi:

- Chắc chuyện có thật?

Đạo cười lờn:

- Thì cũng thần thoại hóa đi, nhưng tình thầy trò xưa chu đáo như thế thật đó.

Chủy vui vẻ tiếp theo:

Tôi lại còn nhờ các cụ nói khúc lạch ngay đầu làng uốn theo hình miệng rồng, giữa có một gò nhỏ bên trên có cây si cổ thụ, bên dưới cỏ mọc rậm rì, đó là thế đất: rồng ngậm ngọc!

Phải, phải - Đạo tiếp - các cụ nói vì có cảnh trí miệng rồng ngậm ngọc như vậy nên người làng Lại Vũ hễ đi ra ngoài là làm nên vì nói ai cũng nghe. Hơ hơ, mà đúng, con giai làng Lại Vũ đi đâu nói con gái nghe cũng được cả.

Vợ Đạo nguýt:

Người gì mà chẳng bao giờ nói chuyện tử tế được lâu, câu trước câu sau là dở trò lục sở!

- Hơ hơ, thì đã sao?

- Người vô duyên mà lại cứ tưởng là mình có duyên.

- Hơ hơ!

Vợ Đạo vùng vằng đi vào, vì nhà trong đã có tiếng lũ trẻ lục đục dậy. Đạo trở lại nói chuyện đứng đắn với Chủy:

- À này, chú còn nhớ ông đô Cán ngày xưa bên làng Liên Phú?

- Dạ tôi nhớ mang máng, ông có họ xa với mẹ tôi.

Chú không nhớ rõ là phải, dạo đó chú còn nhỏ quá. Ông đô Cán vừa là bạn đồng song vừa là bạn khảo sát tử vi với ông đồ nhà. Chính tôi cũng có biết anh Khóa đâu, mới ba tháng trước anh đến đây nhận thầu việc xây trường trung học, giao thiệp với tôi tại tòa tỉnh trưởng, thấy tôi là người làng Lại Vũ bèn hỏi đến ông đồ nhà. Anh ta nhớ hết bởi hồi còn sinh thời hai vị thì lần nào ông đô Cán đến đằng ông nhà đều có mang Khóa đi theo.

- Con ông đô Cán là Khóa?

- Vâng.

- Trạc tuổi anh?

- Trên một chút. Khoảng mười giờ mai cu cậu sẽ đến đây?

- Để làm gì thế anh?

Để dự lễ khánh thành ngôi trường, có nhiều quan khách Hà Nội tới và có tiệc trà. Lẽ ra lễ khánh thành tổ chức từ hai tuần trước, nhưng đúng vào lúc ngôi trường xây gần xong thì Khóa bị sốt định kỳ... ông tỉnh trưởng bảo chờ, ông quý Khóa lắm. Ngôi trường Khóa trông nom cho xây cất đã đẹp lại bền và rẻ.

Suy nghĩ giây lâu Chùy nói:

- Con nhà thầu biết đâu là bền và rẻ?!

Nhưng Khóa làm chu đáo được như thế đấy chú à, tôi cũng thật thơm lây vỉ đã hú họa giới thiệu Khóa với ông tỉnh trưởng, hiện Khóa đảm nhận việc xây thêm một trường mẫu giáo bên trường tiểu học cũ. Tôi được biết thêm, đây là lần đầu tiên Khóa vào nghề thầu, trước đó anh chàng làm hội viên hội đồng thành phố Hà Nội, mới từ chức...

Chủy muốn bĩu môi vì chức đó hẳn chỉ để làm bù nhìn cho thực dân. Bỗng nhiên Chủy thấy ghét lây cả Đạo. Chủy muồn nguyền rủa cả “lũ tiểu tư sản thành thị tôi tớ cho thực dân”, chúng hưởng lợi trong khi con minh ngoài vùng kháng chiến chỉ có chiêc ống bơ rỉ làm đồ chơi.

- Chú Chủy cầm cái này này.

Chủy giật mình ngẩng đầu. Đạo đưa Chủy tờ giấy một trăm màu gạch, tiếp:

- Chú cầm tạm, ngộ có cần tiêu vặt gì chăng.

Thốt nhiên Chủy giơ tay lên sờ mái tóc. Đạo cười:

- Đúng đấy như húi đầu chẳng hạn.

Chủy nhận tiền và cám ơn. Chủy nhớ chiều qua còn hứa với Quang, Minh là hôm nay sẽ đưa chúng đi phố lần nữa. Chủy vui vẻ nói với Đạo:

- Bây giờ tôi phải đi húi đầu cái đã, tóc dài quá anh ạ.

- Chú lấy sơ mi và quần của tôi...

Chủy gạt đi:

- Thôi anh cứ để tôi bận bộ quần áo của tôi đã giặt hôm qua.

Chủy vào nhà thay bộ ka ki đã cũ. Đạo dặn:

- Chú cứ đi thẳng dến cuối phố này có hiệu thợ cạo đấy.

- Vâng!

V

Húi đầu vừa xong thì trời mưa như đổ cóng nước. Chủy lấy tiền thối rồi ra cửa đứng nhìn trời đất chìm ngập trong màn nước trắng xóa, dãy nhà ngay bên kia đường cũng chỉ thấy lờ mờ. Có tiếng lọc cọc, một xe bánh tây bán rong xuất hiện từ góc ngã tư sát đấy, chiếc xe được đẩy mạnh hơn để tiến nhanh vào trú dưới ô văng khá rộng của hiệu thợ cạo. Đó là một người trạc ngoại tứ tuần tóc đã hoa râm, da đen xạm. Người đó vuốt mặt nước mưa, đôi mắt ngỡ ngàng, nụ cười hiền, lắc đầu nói với Chủy:

Mưa bất ngờ và to quá, có quãng đường ngắn từ chợ vào đây mà chạy không kịp.

Chủy gật đầu:

- Phải, ông hãy trú tạm đây, đợi ngớt hãy đi.

Chủy vừa nhận thấy đầu một thằng bé con thò ra, nó nằm giữa khoảng sàn xe và phần tủ bánh bên trên. Nó cũng cỡ tuổi bé Minh, hai mắt mỡ thao láo, tay cầm chiếc bánh dẻo thủng thẳng đưa lên miệng ăn. Chủy cười:

- Chà, chú bé nằm trông ấm cúng nhỉ.

Người bố cũng cười:

Ẫy cháu nó theo mẹ ra chợ mua thức ăn bất chợt mưa, tôi cho chui vào đấy nằm, mẹ cháu đội mưa về trước.

Hạt mưa đã nhẹ, màn mưa đã loãng, người hàng bánh cúi chào Chủy rồi đẩy xe đi.

- Ông nán lại thêm chút nữa có được không - Chủy nói.

Ông ta cười:

- Thôi ạ, nhà tôi cũng ở cuối ngã này thôi.

Chiếc xe đã được ẩn ra đường, mưa tuy nhẹ nhưng còn mau hạt, người bố cúi xuống nhìn con, thằng bé cũng vừa cho lên miệng nốt miếng bánh dở vừa ngước nhìn bố, cả hai bố con cùng cười cả hai cùng sung sướng