← Quay lại trang sách

Chương một

Tặng hai người phụ nữ xuất sắc nhất mà tôi biết - chị gái tôi Catherine Murdock

và bạn Deborah Luepnitz yêu quý của tôi.

Ảnh hưởng của hai người thật vô cùng.

***

Kết quả là nhờ vùng biên mà Trí Tuệ Mỹ có được những đặc trưng nổi bật. Sự thô mộc và mạnh mẽ kết hợp với sự sắc bén và tính ham hiểu biết; lối tư duy thực tế, đầy sáng tạo, nhanh nhạy trong tìm mưu kiếm kế; tinh tường những thứ vật chất, thiếu óc thẩm mỹ nhưng đầy sức mạnh để tạo ra kết quả vĩ đại; cái sinh lực năng động, không yên; chủ nghĩa cá nhân chi phối, làm việc bất luận xấu tốt, và cả tinh thần hăng hái cùng nhựa sống căng tràn sinh ra từ sự tự do - đây là những nét tiêu biểu của vùng biên...

-Frederick Jackson Turner [1]

Chương một

Một cuộc sống xiết bao hoang dại! Một kiểu tồn tại vô cùng mới mẻ!

- Henry Wadsworth Longfellow [2], suy ngẫm về khả năng viết một thiên sử thi về nhà thám hiểm người Mỹ John Frémont [3].

Khi Eustace Conway lên bảy, anh có thể ném dao đủ chính xác để găm phập một con sóc chuột vào thân cây. Lúc lên mười, anh có thể hạ một con sóc đang chạy cách xa mười lăm mét bằng cung tên. Lên mười hai, anh đi vào rừng, một mình với hai bàn tay không, dựng cho mình một cái chòi và sống được ở vùng đất ấy suốt một tuần. Bước sang tuổi mười bảy, anh rời hẳn khỏi ngôi nhà của gia đình mình đi thẳng vào núi, sống ở đó trong một túp lều vải tự tay thiết kế, đánh lửa bằng cách chà hai thanh củi vào nhau, tắm trong những con suối lạnh ngắt, mặc đồ bằng da của con thú anh đã săn và ăn thịt.

Nhân tiện xin nói, chuyến ra đi này diễn ra năm 1977. Đó cũng là năm bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao công chiếu.

Năm sau, mười tám tuổi, Eustace Conway ngao du sông Mississippi trên một chiếc xuồng gỗ tự đóng, chống chọi với những xoáy nước dữ dội đến nỗi có thể nhấn chìm một thân cây cao hơn chục mét, lôi nó đi xa cả dặm về phía hạ nguồn rồi mói chịu thả lên mặt nước. Năm sau, anh bắt đầu hành trình hai ngàn dặm trên Đường mòn Appalachia, đi bộ từ bang Maine tới bang Georgia và hầu như chỉ sống bằng những gì săn bắn thu lượm được dọc đường. Rồi trong những năm sau đó, Eustace độc hành qua dãy Alps ở Đức (đi giày đế mềm), băng xuồng qua Alaska, trèo những vách đá ở New Zealand, và sống với người Navajo ở bang New Mexico. Khoảng hai mươi lăm tuổi, anh quyết định nghiên cứu một nền văn hóa nguyên thủy kỹ lưỡng hơn, để học được những kỹ năng còn xưa hơn. Thế nên anh bay sang Guatemala, xuống máy bay là cất tiếng hỏi ngay, “Người nguyên thủy sống ở đâu?” Người ta chỉ cho anh về hướng khu rừng nhiệt đới, ở đó anh lặn lội bao ngày trời cho tới khi tìm thấy ngôi làng hẻo lánh nhất của thổ dân Maya, nhiều người trong làng trước đây chưa từng nhìn thấy người da trắng. Anh sống với người Maya độ năm tháng, học ngôn ngữ của họ, nghiên cứu tín ngưỡng, hoàn thiện tay nghề đan dệt.

Tuy nhiên cuộc phiêu lưu tuyệt vời nhất của anh có lẽ là vào năm 1995, khi Eustace nảy ra ý tưởng cưỡi ngựa xuyên nước Mỹ. Em trai của anh là Judson và một người bạn thân của gia đình đi cùng anh. Đó là một hành động ngẫu hứng điên rồ. Eustace không rõ cưỡi ngựa xuyên nước Mỹ có khả thi hay thậm chí có hợp pháp hay không. Anh vừa ăn xong bữa tối Giáng sinh thịnh soạn với gia đình, khoác súng, thắng chiếc yên ngựa tám mươi năm tuổi của Kỵ binh Hoa Kỳ (ở nhiều chỗ lớp cao su đã mỏng tới nỗi khi cưỡi anh có thể cảm nhận được hơi ấm của ngựa giữa hai chân), phóc lên lưng ngựa, khởi hành. Anh dự tính rằng anh và hai người bạn đồng hành sẽ tới được Thái Bình Dương vào lễ Phục sinh, dù ai nghe anh nói vậy cũng đều cười vào mặt anh.

Ba kỵ sĩ phi nước đại suốt chặng đường, ngốn gần năm mươi dặm một ngày. Họ ăn xúp nấu từ thịt hươu nai và sóc bị xe cán dọc đường. Họ ngủ trong các nhà kho, chuồng trại và nhà của những người địa phương nhìn họ đầy kính sợ, nhưng sang tới miền Tây khô ráo và quang đãng, hằng đêm cứ xuống ngựa ở đâu là họ ngủ luôn trên mặt đất tại đó. Một chiều nọ, họ suýt chết vì những chiếc xe tải mười tám bánh lạc tay lái khi ngựa của họ lồng lên trên một cây cầu đông nườm nượp nối giữa hai bang. Ở b Mississippi, họ suýt bị bắt giam vì ở trần. Ở San Diego, họ buộc ngựa ven một vạt cỏ ngăn giữa một khu buôn bán sầm uất và xa lộ tám làn. Đêm ấy họ ngủ lại đó và rồi chiều hôm sau tới Thái Bình Dương. Eustace Conway cưỡi ngựa phi thẳng vào con sóng. Lúc ấy là mười tiếng đồng hồ trước lễ Phục sinh. Anh đã đi xuyên đất nước trong 103 ngày, lập một kỷ lục thế giới vào thời điểm đó.

Từ bờ này tới bờ kia đất nước, người Mỹ thuộc mọi trình độ nhận thức đều ngước nhìn Eustace Conway trên yên ngựa mà thốt lên đầy thèm muốn, “Ước gì tôi làm được điều anh đang làm.”

Và với từng người như vậy, Eustace trả lời, “Làm được chứ.”

Tuy nhiên ở đây tôi đang đưa câu chuyện đi trước nhiều rồi.

Eustace Conway sinh năm 1961 tại Nam Carolina. Gia đình Conway sống trong một ngôi nhà ngoại ô tiện nghi ở một khu mới lập toàn những ngôi nhà tương tự nhau, chỉ khác là ngay cạnh nhà họ có một khoảnh rừng đẹp vẫn chưa bị phát quang lấy đất xây dựng. Đó thật sự là một khu rừng nguyên sinh hoang dã, chưa bị ai chạm tới, không có đến cả đường mòn chạy qua. Một khu rừng già vẫn còn đầy rẫy đầm lầy và gấu. Chính tại nơi đây, cha của Eustace Conway - ông cũng tên là Eustace Conway và là người am hiểu mọi điều - thường đưa cậu con nhỏ vào để dạy cách nhận dạng các loài thực vật, chim chóc và động vật có vú cư trú ở vùng miền Nam nước Mỹ. Hai cha con thường lang thang trong khu rừng ấy hàng giờ, ngước nhìn cây cối mà thảo luận về hình dạng của lá. Vậy nên đây là những ký ức đầu đời của Eustace Conway: cái bao la của khu rừng; chùm ánh nắng xuyên nghiêng qua tấm thảm thiên nhiên xanh mướt; giọng nói khai minh của người cha; vẻ đẹp của những từ bồ kết, bulô, hoàng dương; niềm vui mới mẻ được mở mang trí tuệ càng tăng thêm nhờ cảm giác đặc biệt khi cái đầu của cậu con trai mới chập chững biết đi lúc nào cũng ngửa ra sau tới nỗi cậu có thể ngã nhào vì cố sức ngước nhìn mãi quá nhiều loài cây.

Những cái còn lại, trong suốt nhiều năm, thì chính mẹ Eustace là người dạy cho cậu. Bà dạy cậu cách dựng trại, móc mồi vào lưỡi câu, nhóm lửa, đối phó với các loài hoang dã, bện cỏ thành thừng, tìm đất sét dưới đáy sông. Bà dạy cậu đọc những cuốn sách có nhan đề vô cùng hấp dẫn, như Davy Crockett: Chàng trai phiêu lưu và Trí tuệ rừng hoang. Bà dạy cậu cách khâu đồ từ da hoẵng. Bà dạy cậu cách thực hiện từng công việc bằng sự hoàn hảo đầy nhiệt huyết đam mê. Mẹ Eustace Conway không hẳn giống như các khác thời ấy. Bà có phần gan lì hơn những người mẹ bình thường ở miền Nam nước Mỹ vào đầu những năm 1960. Bà đã được nuôi dạy như một cậu con trai tại một trại hè của gia đình ở vùng núi Asheville, Bắc Carolina. Thuở ấy bà là một cô bé nghịch ngợm, bướng bỉnh, một kỵ sĩ thuần thục trên lưng ngựa, và là một người đi rừng tài giỏi. Năm hai mươi hai tuổi, bà bán cây sáo bạc làm lộ phí đi Alaska, ở đó bà sống trong một túp lều bên sông cùng khẩu súng và chú chó của mình.

Khi Eustace lên năm, khu rừng sau nhà cậu đã bị san bằng vì thị trường bất động sản, nhưng không lâu sau đó gia đình cậu chuyển tới sống trong một căn hộ bốn phòng ngủ ở một vùng ngoại ô đang phát triển khác. Vùng đó thuộc thành phố Gastonia, Bắc Carolina, và nó cũng có một khu rừng rậm án ngữ ngay phía sau. Bà Conway để Eustace cùng các em cậu chạy nhảy trong rừng từ khi bọn họ mới biết đi - chân không, cởi trần, chẳng ai quản - từ bình minh cho tới hoàng hôn, suốt thời thơ ấu, trừ một đôi lần gián đoạn vì phải tới trường và đi nhà thờ (bởi hoàn toàn chẳng phải bà đang nuôi nấng người man rợ).

“Mẹ nghĩ mẹ đã là một bà mẹ tồi,” giờ đây bà Conway vẫn thường nói vậy, bằng giọng không mấy thuyết phục.

Những bà mẹ khác ở Gastonia hẳn nhiên đã kinh sợ cái lối nuôi con này. Nhiều người trong số họ, lòng đầy lo lắng, gọi điện cho bà Conway mà nói, “Bà không để bọn nhỏ chơi trong những khu rừng đó được đâu! Có rắn độc ngoài đó đấy!”

Ba mươi năm sau bà Conway vẫn thấy nỗi lo lắng của họ thật buồn cười và đáng yêu.

“Trời ạ!” bà thốt lên. “Con tôi luôn phân biệt được rắn độc và rắn thường! Chúng ở ngoài đó chẳng sao cả.”

Nói một cách ngắn gọn thì lịch sử nước Mỹ diễn ra thế này: thoạt tiên có vùng biên, rồi sau đó không còn vùng biên nữa. Tất cả diễn ra khá mau chóng. Ban đầu chỉ có thổ dân, rồi xuất hiện người khai hoang, rồi người định cư, rồi thị trấn, rồi thành phố. Chẳng ai thực sự để tâm cho tới lúc chốn hoang dã chính thức bị chế ngự, lúc đó ai cũng mong nó trở lại như trước. Trong niềm hoài niệm chung sau đó (Chương trình biểu diễn Miền Tây Hoang dã của Buffalo Bill [4], các bức họa cao bồi của Frederic Remington [5]) có chứa đựng một nỗi hốt hoảng lo âu mang tính văn hóa hết sức đặc trưng, khởi nguồn từ câu hỏi. Rồi cậu bé của chúng ta sẽ trưởng thành ra sao?

Vấn đề là, trong khi câu chuyện cổ điển châu Âu về tuổi trưởng thành thường mô tả một cậu bé tỉnh lẻ chuyển tới sống ở thành phố rồi trở thành một quý ông tao nhã thì truyền thống của người Mỹ lại phát triển theo chiều ngược lại. Cậu bé Mỹ trưởng thành bằng cách rời khỏi nền văn minh và thẳng tiến về hướng núi rừng. Ở đó, cậu quẳng đi những phương thức sống thông thường mà trở thành người đàn ông cường tráng và tài giỏi. Không phải một quý ông, xin nhắc vậy, nhưng là một người đàn ông đích thực.

Đó là kiểu đàn ông đặc biệt, người Mỹ khôn trưởng giữa miền hoang dã ấy. Anh ta không phải thức giả. Anh ta không hứng thú chuyện học hành hay suy ngẫm. Anh ta có, như de Tocqueville[6] nhận thấy, “một kiểu thái độ chán ghét những thứ cổ lỗ”. Thay vào đó, có thể nhận ra anh ta qua một cung cách rất đặc trưng, như nhà thám hiểm John Frémont miêu tả người khai khẩn tiên phong siêu hạng Kit Carson [7], “ngồi trên con tuấn mã không thắng yên, đầu trần lướt qua thảo nguyên.” Hoặc là như vậy, hoặc là vung cây rìu đại bự qua vai mà thản nhiên “đốn hạ những cây sồi và cây tuyết tùng xuống đất,” như một du khách nước ngoài tới Mỹ thế kỷ mười chín đã thấy và lấy làm vô cùng ấn tượng.

Thực tình, trong suốt thế kỷ mười tám và mười chín, với tất cả du khách nước ngoài, tự bản thân Người Đàn Ông Mỹ đã thực sự là một món thu hút khách du lịch, hầu như cũng cuốn hút không thua gì quần thể thác Niagara hay hệ thống đường sắt mới [8] đầy tham vọng nọ hay những người da đỏ lạ lùng kia. Hẳn nhiên, chẳng phải ai cũng thích thú. (“Có lẽ chẳng có giống người nào, kể cả người Pháp, phù phiếm đến như người Mỹ,” một quan sát viên người Anh từng phàn nàn vào năm 1818. “Người Mỹ nào cũng cho rằng người nước ngoài không thể dạy bảo mình điều gì cả, và đầu anh ta chứa cả một bộ bách khoa thư hoàn hảo.”) Tuy nhiên, dù sao chăng nữa, dường như ai cũng đồng ý rằng đây là một kiểu người mới và rằng, hơn bất cứ gì, cái xác định Người Đàn Ông Mỹ là khả năng ứng phó tài tình, hình thành qua những thử thách trong cuộc kiến tạo Tân Thế Giới từ nền tảng là những vùng hoang dã chưa ai khai phá. Không bị ngăn trở bởi những hạn chế giai tầng, chế độ quan liêu, hay sự ô nhiễm của đô thị, những người Mỹ ấy mỗi ngày làm được nhiều việc ngoài sức tưởng tượng của bất kỳ ai. Đó chính là điểm mấu chốt: không ai tin nổi những người đàn ông này làm việc nhanh ra sao.

Gottfried Duden [9], một người Đức du hí tới miền Tây vào năm 1824 để xác định vùng đất phù hợp cho những gia đình Đức muốn di cư tới Mỹ, kinh ngạc viết thư về quê nhà: “Ở Bắc Mỹ, các công trình xây dựng mà ở các nước châu Âu phải mất hàng thế kỷ mới xong thì chỉ trong vòng vài năm là xong, nhờ sự hợp tác tự nguyện của các cá nhân.” Ví dụ như, vào thời điểm Duden viếng thăm, nông dân bang Ohio đang bận rộn đào con kênh dài 230 dặm mà không có sự trợ giúp của một kỹ sư có bằng cấp nào. Duden đã thấy “những thành phố tuyệt đẹp” phát triển thịnh vượng tại nơi mà hai năm trước thậm chí không có lấy một thị trấn nào. Ông thấy những con đường mớ những cây cầu mới, “hàng nghìn trang trại mới”, và “thêm một trăm tàu thủy”, tất cả đều mới tinh, làm thủ công, thiết kế khéo léo, và hoạt động hoàn hảo. Người Đàn Ông Mỹ cần một việc gì đó phải hoàn thành chăng? Chà, có gì đâu, anh ta chỉ việc làm cho chuyện đó thành sự thật.

Khái niệm về công dân Tân Thế Giới giỏi giang và táo bạo này là một ý tưởng thật hấp dẫn. Isabel Bird, nhà văn viết du ký người Anh, nổi tiếng có giọng văn điềm đạm và khách quan, dường như không tài nào ngăn nổi mình xuýt xoa đầy phấn khích khi hỏi chuyện những người đàn ông vạm vỡ cường tráng mà cô liên tục gặp trong suốt hành trình trên đất Mỹ vào những năm 1850:

“Quả thực chẳng thể nào đưa ra một ý niệm về 'Người Đàn Ông Miền Tây' với bất kỳ ai chưa từng thấy ít nhất một người làm hình mẫu... cao lớn, đẹp trai, ngực nở vòng cung và dáng người lực lưỡng, mũi khoằm, đôi mắt xám sắc bén, tóc và râu quai nón màu nâu quăn tít. Họ mặc áo khoác da, quần da ống bó, đi ủng to thêu hoa văn ở mũi và gắn đinh thúc ngựa bằng bạc, chít trên đầu tấm vải đỏ khâu bằng chỉ vàng óng ánh đã hơi xỉn màu rõ ràng là món quà của những người đẹp đem lòng yêu diện mạo điển trai và tác phong bạt mạng của những tay thợ săn này. Nơi nào họ hiện diện, nơi ấy sự tẻ ngắt không còn; họ biết kể chuyện; huýt sáo theo nhạc, ca hát… Tâm hồn ngập tràn thanh thản, vui tươi, họ kể những câu chuyện sinh động về đời sống miền Tây, lịch lãm trong phong cách và tự do như ngọn gió.”

Này! Tôi không sống vào thời đó. Khó mà biết những lời hoa mỹ này dựa trên sự thực mấy phần còn mấy phần là sản phẩm của một tờ báo ngoại quốc đầy phấn khích hăm hở chứng thực Thứ Mới Tuyệt Diệu (New Big Thing) này. Tuy nhiên, điều tôi biết chắc chắn là chúng tôi, những người Mỹ, đón nhận lời tán dương đó. Chúng tôi đón nhận và đặt nó thêm vào bàn tiệc thịnh soạn đã bày sẵn với những truyền thuyết nội sinh trong lòng nước Mỹ cho tới khi chúng tôi chế biến được một khái niệm vô cùng phổ biến về chuyện Người Đàn Ông Mỹ là ai và Người Đàn Ông Mỹ đã hình thành như thế nào. Anh ta là Pecos Bill [10]. Anh ta là Paul Bunyan[11]. Anh ta đổi dòng chảy của sông ngòi với sự giúp sức của con bò mộng to khỏe, anh ta dùng rắn chuông làm dây cưong để thuần ngựa hoang, và anh ta là người hùng có quyền năng vô hạn được tạo ra thông qua mối giao hảo đầy tính khai minh với vùng biên. Ai cũng biết điều đó.

Vậy nên Frederick Jackson Tumer không phải là người duy nhất thấy bức xúc khi vào năm 1890 có tin từ Bộ Thống kê Dân số là vùng biên giới nước Mỹ đột ngột chính thức đóng cửa. Tuy nhiên ông là người đầu tiên đặt ra câu hỏi sự bế quan này có ảnh hưởng thế nào tới những thế hệ tương lai. Nỗi bức xúc của ông nhân rộng; những trăn trở của ông lan xa. Không có vùng hoang dã làm mảnh đất thực nghiệm, rồi đây những cậu bé của chúng ta sẽ thành cái gì?

Ồ, chúng có thể thành ra bạc nhược, hư đốn, suy đồi.

Lạy Chúa, chúng có thể trở thành người châu Âu.

Tôi gặp Eustace Conway lần đầu tại thành phố New York. Đó là năm 1993.

Tôi gặp Eustace thông qua Judson, em trai anh, một chàng cao bồi. Judson và tôi từng làm việc cùng nhau ở một nông trại trên vùng núi Wyoming. Thời ấy tôi hai mưoi hai tuổi, thể hiện cứ như mình là một cô nàng cao bồi miền Tây - kể cũng làm bộ hơi thái quá, bởi cái sự thật phiền hà là tôi đã từng là vận động viên khúc côn cầu trên cỏ thời còn ở Connecticut. Nhưng tôi đến Wyoming bởi vì tôi đang tìm kiếm một nền giáo dục và một sự chân thực mà tôi nghĩ không thể tìm thấy ở bất kỳ đâu ngoại trừ vùng biên nước Mỹ hay những gì còn lại của vùng biên

Tôi tìm kiếm vùng biên nước Mỹ này hăm hở chẳng khác gì cha mẹ tôi từng tìm kiếm hai thập kỷ trước, khi họ tậu ba mẫu đất ở New England và làm như mình là những người khai khẩn - chúng tôi nuôi gà, dê và ong, tự trồng lấy mọi loại lương thực cho gia đình, tự may áo quần, gội đầu trong thùng nước mưa, và sưởi ấm căn nhà (chỉ có hai phòng) nhờ củi tự tay bổ lấy. Cha mẹ tôi cố hết sức dưỡng dục hai chị em tôi trong môi trường khắc nghiệt kiểu thế kỷ mười chín, mặc dù chúng tôi đang sống trong những năm cuối thời Reagan tại một trong những khu dân cư giàu có nhất Connecticut và trang trại nhỏ biệt lập kiểu vùng biên của chúng tôi thực ra nằm ngay bên một xa lộ chính cách câu lạc bộ của giới nhà giàu chưa tới hai cây số.

Nhưng mà, thế thì có sao? Chị gái và tôi được khuyến khích không để tâm tới thực tế này. Chúng tôi mặc váy tự khâu mà đi hái quả những cây mâm xôi mọc trong mương rãnh dọc con đường đó trong khi ô tô ào ào phóng qua và xe tải mười tám bánh chạy qua làm rung chuyển cả mặt đất.

Chúng tôi tới trường với dấu vết của công việc buổi sáng là sữa dê khô trên ống tay áo. Chúng tôi được dạy không quan tâm nhiều đến những giá trị của bối cảnh văn hóa bao quanh mà tập trung vào nguyên lý cổ xưa và thiêng liêng hơn của người Mỹ: Khả năng xoay xở chỉ đứng sau lòng ngoan đạo thôi.

Thế nên có lẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi, bước sang tuổi hai mươi hai, tôi quyết định mình sẽ không thỏa mãn với việc tiếp tục học hành trường lớp hay ổn định cuộc sống bằng một nghề đáng kính nào đó. Tôi có những nguyện vọng khác. Tôi muốn tìm hiểu những giới hạn của khả năng xoay xở của chính mình, và những giới hạn ấy, tôi tin mình chỉ có thể tìm ra ở một nơi như Wyoming. Tôi được khởi hứng từ hình mẫu là cha mẹ mình và bởi lời khuyên nhủ đầy khích lệ của Walt Whitman [13] dành cho thanh niên Mỹ thế kỷ mười chín: “Không tiến lên từ sách vở nữa! Hãy tiến lên từ đất nước của chính bạn! Hãy đi tới miền Tây và miền Nam! Sống giữa những người đàn ông, với tinh thần của những người đàn ông! Thuần ngựa, trở thành kẻ thiện xạ xuất sắc và tay chèo tráng kiện…”

Nói cách khác, tôi tới Wyoming để kiến tạo một người đàn ông trong chính mình.

Tôi yêu công việc nông trại. Tôi nấu ăn dọc đường. Tôi phi ngựa vào vùng hoang dã, tôi ngồi quanh lửa trại, tôi uống rượu rồi kể chuyện và chửi thề bằng giọng phát âm không chuẩn[12] và về cơ bản là khoác lên mình một phong cách chân thực giả hiệu điển hình. Khi có người lạ nào ở Wyoming hỏi tôi từ đâu tới, tôi sẽ nói, “Lubbock, Texas.” Chỉ cần không ai đặt thêm câu hỏi nào nữa thì nói chung tôi được chấp nhận là một cô nàng cao bồi đích thực. Những tay cao bồi khác ở nông trại thậm chí còn đặt một cái tên cao bồi thứ thiệt cho tôi. Tất cả bọn họ gọi tôi là Blaze.

Nhưng chỉ vì tôi yêu cầu họ làm vậy.

Tôi là một kẻ giả hiệu trăm phần trăm. Nhưng sự giả hiệu này, tôi biện hộ, đơn giản là quyền của tôi và là đặc quyền của một công dân Mỹ trẻ tuổi. Tôi đang đi theo truyền thống của đất nước. Tôi không giả tạo gì hơn so với Teddy Roosevelt [14] một thế kỷ trước, khi ông rời thành phố New York như một cậu công tử bột được nâng niu chiều chuộng mà thẳng tiến tới miền Tây để rồi trở thành một thanh niên tráng kiện. Ông viết gửi về nhà những lá thư hầu hết đầy tự mãn và tự thức, khoe khoang về các trải nghiệm gian truân cũng như quần áo cực kỳ nam tính của mình. (“Anh sẽ kinh ngạc khi thấy tôi cho mà xem,” Roosevelt viết cho một người bạn sống ở miền Đông, “đội chiếc mũ vành rộng này, mặc áo da hoẵng đính cườm và có tua rua, quần da ngựa hoặc quần ống bó, đi ủng da bò có dây thắt làm bằng thừng bện và gắn đinh thúc ngựa bằng bạc.”) Tôi biết lá thư này. Chính tôi cũng đã viết những lá thư như thế hàng tá lần, cho hàng tá người. (“Tuần trước con mới mua một đôi bốt da rắn,” từ nông trại tôi viết về cho cha mẹ vào năm 1991, “thế mà giờ con đã vầy nát nó khi làm việc trong bãi chăn thả gia súc, nhưng trời ạ, nó là để dùng vào việc này mà.”)

Tôi gặp Judson Conway ngày đầu tôi tới nông trại. Anh là thứ đầu tiên tôi để ý tới sau cả chặng đường dài chạy xe lên vùng núi Wyoming hùng vĩ đó, và tôi tựa hồ như đã phải lòng anh. Tôi không yêu Judson theo kiểu “Mình cưới nhau đi!” Tôi yêu anh theo kiểu “Ôi chao ơi!” Bởi vì khoảnh khắc ấy Judson Conway trông thế này: mảnh khảnh, đẹp trai, khuôn mặt hơi khuất dưới chiếc mũ cao bồi, và bụi bặm một cách cực kỳ quyến rũ. Tất cả những gì anh phải làm là đi dạo bên tôi với dáng vẻ phong trần đầy gợi cảm (thể hiện phong cách Hollywood kinh điển kiểu Xin lỗi quý cô, tôi vừa xuống ngựa sau chặng đường dài), tôi lập tức trở thành một tín đồ.

Tôi bị Judson cuốn hút bởi vì tôi là một cô gái mà anh thì quá đẹp trong khi tôi đâu có đui chột gì, nhưng tôi còn nhận thấy ở anh một sự tương đồng gần gũi. Giống như tôi, Judson hai mươi hai tuổi và cũng là một kẻ giả hiệu trăm phần trăm. Anh cũng chẳng phải dân miền Tây thứ thiệt gì hơn so với người bạn mới Blaze của anh. Và cả hai chúng tôi cũng không phải dân miền Tây thứ thiệt gì hơn so với Frank Brown, một chàng cao bồi hai mươi hai tuổi khác làm việc tại nông trại. Anh là chàng sinh viên từ bang Massachusetts đến, hiện thời lấy biệt danh là Buck. Và rồi cả Hank nữa, tay cao bồi đội trưởng của chúng tôi, kẻ mà cứ đến giờ phi ngựa ra ngoài đồng là lại hét lên, “tất cả các cậu, quất ngựa thôi!”, ấy thế mà hóa ra bố anh là tổng chưởng lý bang Utah. Tất cả chúng tôi đóng chung một màn trình diễn.

Nhưng Judson là người tôi yêu mến nhất, bởi vì anh có màn trình diễn ngon lành hơn bất kỳ ai. Anh có chút lợi thế văn hóa là ít nhất cũng sinh trưởng ở miền Nam nên anh có thể nói giọng lè nhè. Anh tuyệt không chê vào đâu được. Walt Whitman hẳn phải mê đắm cách Judson đang sống. Anh có tài thiện xạ và thành thạo thuật chèo thuyền, nhưng đồng thời anh cũng đã từng ngồi trong toa chở hàng hoặc quá giang trên thùng sau xe tải để đi chu du khắp nước Mỹ, đã hôn bao cô gái ở khắp mọi nơi, đã học được cách trở thành người kể chuyện tuyệt vời và tay thợ săn cự phách. Và là một kỵ sĩ cừ khôi! Anh đã tự học nhiều thủ thuật như đu lên mình ngựa và nhảy phóc xuống khi ngựa đang chạy, và rất nhiều trò tiêu khiển khác không hoàn toàn có ích cho công việc nông trại nhưng vô cùng thú vị.

Anh và tôi đã có khoảng thời gian hai năm liền vui vẻ làm việc bên nhau ở Wyoming đó, sau đấy mỗi chúng tôi đi con đường riêng của mình. Nhưng chúng tôi vẫn giữ liên lạc. Như một người lính đẹp trong cuộc Nội chiến, Judson kiên trì trao đổi thư một cách hùng hồn và thủy chung qua đường bưu điện. Không bao giờ gọi; luôn là viết. Và anh có bao nhiêu điều để viết, bởi vì đây là cuộc đời tuyệt diệu mà anh đã tạo dựng cho chính mình: anh dành trọn mùa xuân đi săn chim bồ câu ở quê nhà Bắc Carolina, mùa hè làm người hướng dẫn câu cá ở Alaska, mùa thu làm người hướng dẫn săn nai sừng tấm ở Wyoming, còn mùa đông thì giúp du khách bắt cá biển nhiệt đới tại quần đảo Florida.

“Dốc lòng học cách câu cá biển và hy vọng nhận được công việc trên tàu thuê bao” anh viết cho tôi, trong lần đầu tới Florida. “Tôi đang ở cùng với đôi vợ chồng mà có lần tôi dẫn đi cưỡi ngựa ở Wyoming. Trò chuyện qua lại, và giờ tôi ở đây… Đang dành rất nhiều thời gian ở Vườn Quốc gia Everglades, ngắm chim và vật nhau với cá sấu.”

“Không phải kiếm sống,” anh viết, trong lần đầu tới Alaska, “đơn giản là sống.”

Judson luôn hứa một khi nào đó anh sẽ tới thăm tôi ở thành phố New York nơi tôi chuyển tới sống từ dạo ấy. (“Sông Hudson có cá không?”) Nhưng nhiều năm rồi anh không tạt qua, và tôi cũng không khi nào thực sự mong đợi anh tới. (“Lấy chồng chưa vậy?” cuối cùng anh viết, sau một lá thư dài của tôi. “Chắc là tôi đã đợi quá lâu mà không tới thăm...”) Và rồi một hôm, nhiều năm sau lần cuối chúng tôi nói chuyện trực tiếp, anh gọi điện. Bản thân điều này thật đáng kinh ngạc. Judson không sử dụng điện thoại, không đâu, chừng nào còn có bao nhiêu con tem rất đẹp để dùng. Nhưng cuộc gọi rất khẩn. Anh bảo với tôi anh sẽ bay tới New York ngày hôm sau, để viếng thăm. Chỉ là ý thích bất chợt thôi, anh nói. Chỉ muốn xem một thành phố lớn trồng như thế nào, anh nói. Và rồi anh cũng nói thêm là anh trai anh, Eustace, sẽ đi cùng.

Quả nhiên, sáng hôm sau anh em nhà Conway đến. Họ bước ra khỏi chiếc taxi màu vàng ngay trước căn hộ tôi ở và tạo ra một hình ảnh thật hết sức tương phản, kỳ quặc. Một Judson điển trai, giống như một chàng thanh niên trong “Bonanza”[15]. Còn kia, ngay bên cạnh anh, là anh trai anh, Davy Fuckin' Crockett[16].

Tôi biết đây là Davy Fuckin' Crockett bởi đó là cái tên mà ai trên phố New York cũng liền cất tiếng gọi gã trai đó.

“Ôi trời ơi! Davy Fuckin' Crockett đấy!”

“Xem Davy Fuckin' Crockett này!”

“Vua của vùng biên hoang dã, quỷ thần ơi!”

Tất nhiên một số người New York nhầm anh với Daniel Fuckin' Boone[17], nhưng ai cũng có gì đó để nói về vị khách kỳ lạ này, một kẻ lẳng lặng đi qua những con phố Manhattan, mặc đồ da hoẵng tự khâu và giắt một con dao cực kỳ ấn tượng nơi thắt lưng.

Davy Fuckin' Crockett.

Vậy đấy, tôi đã gặp Eustace Conway như thế.

Trong suốt hai ngày sau đó, trên khung nền chẳng tương thích của thành phố New York, tôi được nghe toàn bộ cuộc đời Eustace Conway. Một đêm, Judson, Eustace và tôi đi uống ở một quán bar tuềnh toàng tại khu East Village, và trong khi Judson say sưa khiêu vũ với các cô gái xinh đẹp và tỉ tê những mẩu chuyện ly kỳ về cuộc đời trên trang trại ở Wyoming, Eustace ngồi trong một góc với tôi và khẽ khàng giải thích mười bảy năm qua anh đã sống trong một túp lều chóp nhọn, ẩn mình ở phía Nam dãy Appalachia thuộc Bắc Carolina như thế nào. Anh gọi nhà mình là Đảo Rùa, theo tên con rùa tráng kiện trong truyền thuyết sáng thế của thổ dân châu Mỹ đã mang trên lưng mình toàn bộ sức nặng của trái đất. Eustace kể với tôi, anh sở hữu một ngàn mẫu đất trong khu rừng đó - một vùng lòng chảo được rào chắn hoàn hảo và bất khả xâm phạm, với một đường phân nước [18] được bảo vệ.

Tôi cảm thấy thật lạ làm sao một người chuyên ăn thịt thú có túi và chùi đít bằng lá rừng lại có thể xoay xở có được một ngàn mẫu đất vùng hoang dã nguyên sơ. Nhưng như về sau tôi khám phá ra, Eustace Conway là một người đàn ông khôn ngoan vô cùng. Theo thời gian, anh đã tích lũy dần dần phần đất đó nhờ chỗ tiền anh kiếm được bằng cách đi tới các trường học địa phương mà trò chuyện với đám học trò đầy háo hức nghe về chuyện ăn thịt thú có túi và chùi đít bằng lá. Đất đai, anh tuyên bố, là phí tổn lớn duy nhất trong đời anh. Mọi thứ khác mà anh cần anh đều có thể làm ra, xây nên, nuôi trồng, hoặc giết. Anh săn bắn để có thức ăn, uống nước từ mặt đất, tự làm ra quần áo...

Eustace bảo với tôi là mọi người có xu hướng lãng mạn hóa lối sống của anh. Bởi vì khi mọi người lần đầu hỏi anh làm gì để sống, bao giờ anh cũng trả lời, “Tôi sống trong rừng.” Mọi người bèn hết sức mơ mộng mà thốt lên rằng, “Ôi! Rừng! Rừng! Tôi thích rừng lắm!” cứ như thể Eustace dành cả đời mình để nhấm sương từ hoa cỏ vậy. Nhưng đó không phải là kiểu sống trong rừng mà Eustace Conway muốn nói.

Mấy năm trước có chuyện thế này. Trong chuyến ra ngoài săn hươu nai vào mùa đông, anh bỗng thấy một con hoẵng tám đốm tuyệt đẹp đang phóng qua bụi cây. Anh bắn. Con hoẵng ngã xuống. Không biết mình đã giết chết con vật chưa, anh chờ hồi lâu xem liệu nó có thể gượng dậy mà cố chạy chăng. Không hề cựa quậy. Chầm chậm, khe khẽ, Eustace rón rén bước tới chỗ mà con vật đã ngã xuống thì thấy con hoẵng thật lớn, nằm nghiêng, thoi thóp thở, hơi máu đỏ lòm thoát ra từ mũi. Đôi mắt của con vật động đậy; nó vẫn còn sống.

“Dậy đi, người anh em!” Eustace quát lên. “Dậy đi để tao kết liễu mày!”

Con vật không nhúc nhích. Eustace không muốn phải nhìn nó nằm đó, vẫn còn sống và bị thương, nhung anh cũng không muốn bắn thẳng vào cái đầu xinh đẹp của nó, vậy nên anh rút con dao giắt ở thắt lưng ra đâm vào tĩnh mạch cảnh của con hoẵng. Con hoẵng giãy bật dậy, vẫn còn sống mạnh, và quật nhanh bộ gạc. Eustace nắm lấy những nhánh gạc, vẫn cầm chặt dao, và cả người lẫn thú bắt đầu một trận vật lộn, bật qua bật lại bụi cây, lăn xuống đồi, con hoẵng đâm nhào, Eustace cố lái những nhánh gạc nặng trịch của nó vào cây cối và đá tảng. Cuối cùng, anh thả một tay ra và dùng dao cứa ngang cổ con hoẵng, cắt rách toạc các tĩnh mạch, động mạch và khí quản. Nhưng con hoẵng vẫn tiếp tục chiến đấu, cho tới khi Eustace vùi được mặt nó xuống đất, dận gối lên đầu nó làm nghẹt thở con vật đang giãy chết. Sau đó anh vục hai tay vào cổ con vật rồi quẹt máu khắp mặt mình, vừa khóc vừa cười và dâng một lời cầu nguyện tạ ơn ngây ngất lên vũ trụ về sự hùng tráng phi thường của con vật, kẻ đã vô cùng quả cảm dâng hiến đời mình để duy trì sự sống của chính anh.

Đó mới là ý nghĩa của sống trong rừng đối với Eustace Conway.

Buổi sáng sau hôm nói chuyện trong quán bar, tôi đưa anh em nhà Conway đi dạo qua Công viên Quảng trường Tompkins. Ở đó, tôi lạc mất Eustace. Tôi tìm không thấy anh đâu cả, và tôi bắt đầu lo lắng, sợ rằng một khi không ở trong môi trường của mình, anh sẽ không xoay xở được và có thể bị hại. Nhưng khi tôi tìm được Eustace, anh đang trò chuyện rất vui vẻ với băng nhóm buôn ma túy đáng sợ bậc nhất mà ta chẳng bao giờ muốn đụng mặt. Bọn họ đã gạ Eustace Conway mua cocain và anh lịch sự từ chối, tuy nhiên anh lại đang trò chuyện với họ về những chủ đề khác.

“Này, anh bạn,” đám buôn ma túy đang hỏi anh khi tôi đi tới, “anh mua cái áo chết tiệt đó ở đâu thế?

Eustace giải thích với đám buôn ma túy rằng thực ra áo này anh không mua; anh tự làm ra nó. Bằng da nai. Anh miêu tả chính xác mình đã bắn con nai như thế nào bằng một cây súng hỏa mai màu đen, lột da con nai (“bằng chính con dao này!”), dùng óc của chính con nai ấy để làm mềm da, rồi khâu da lại thành chiếc áo, dùng gân dọc xương sống con nai làm chỉ. Anh bảo đám buôn ma túy rằng đó không phải việc quá khó, bọn chúng cũng làm được thôi. Và nếu bọn chúng tới thăm Đảo Rùa nhà anh trong núi, anh sẽ dạy bọn chúng đủ kiểu tuyệt diệu để sống được trong môi trường tự nhiên.

Tôi lên tiếng, “Eustace, chúng ta đi thôi.”

Mấy kẻ buôn ma túy bắt tay anh và nói, “Mẹ kiếp, Hustice. Anh thật khác người.”

Nhưng đó là cách Eustace vẫn luôn tác động tới cả thế giới - tận dụng mọi cơ hội để dạy mọi người về tự nhiên.

Điều đó cho thấy Eustace không chỉ là một tu sĩ hay một kẻ hippy hay ngay cả là một survivalist, kẻ muốn chứng minh khả năng sống sót của bản thân trong vùng hoang dã. Anh không sống trong rừng vì anh trốn tránh chúng ta, hay vì anh đang trồng loại cỏ kỳ diệu, hay vì anh đang tàng trữ súng ống cho cuộc chiến tranh chủng tộc sắp nổ ra. Anh sống trong rừng vì anh thuộc về nơi ấy. Không chỉ thế, anh còn cố thuyết phục người khác vào rừng sống cùng anh, bởi vì anh tin đó là thiên chức đặc biệt của mình - là cứu lấy linh hồn chung của dân tộc chúng ta bằng cách giúp người Mỹ làm quen lại với khái niệm về mối tương thông có tính khai minh giữa họ với vùng biên. Điều đó cho thấy Eustace Conway tin anh là Người Mang Sứ Mệnh.

Eustace sáng lập ra Đảo Rùa - vũ trụ hoàn hảo rộng một ngàn mẫu do chính anh thiết kế - như phương tiện dạy dỗ căn bản, một trường đại học thực tế, một tu viện hoang dã. Bởi vì, sau những năm nghiên cứu các xã hội nguyên thủy và sau vô số kinh nghiệm thay đổi bản thân trong thế giới hoang dã, Eustace đã hình thành được một chủ thuyết mạnh mẽ. Anh tin chắc rằng cách duy nhất để nước Mỹ hiện đại có thể bắt tay vào đảo ngược lại sự mục nát, thói tham lam và tình trạng bất ổn cố hữu là cảm nhận niềm hân hoan sảng khoái vô bờ có được từ những cuộc gặp gỡ trực diện với cái mà anh gọi là “nghệ thuật đỉnh cao và sự thần thánh của thiên nhiên

Anh tin rằng người Mỹ chúng ta, qua sự phấn đấu không ngừng để đạt được lợi ích vật chất, đang tiêu diệt mất vẻ đẹp hoang dã và khai trí của môi trường đích thực và thay thế vẻ đẹp đó bằng một “môi trường” an toàn nhưng hoàn toàn giả tạo. Điều Eustace thấy là một xã hội có thể nói là đang dần dần tự phá hủy bản thân bằng chính tài tháo vát thái quá của mình. Thông minh, đầy tham vọng, và luôn luôn tìm kiếm hiệu suất cao hơn, người Mỹ chúng ta, trong vòng hai thế kỷ ngắn ngủi, đã sáng tạo ra cả một thế giới tiện dụng bất tận cho mình. Những nhu cầu căn bản của con người - thức ăn, quần áo, nhà cửa, giải trí, giao thông vận tải, và thậm chí cả thú vui nhục cảm những thứ đó, con người không còn cần phải đích thân làm ra hay trọng thị hay thậm chí là hiểu nữa. Tất cả những thứ này giờ đây đã có sẵn cho chúng ta, chỉ cần có tiền là mua được. Hay thẻ tín dụng. Có nghĩa là không ai cần biết cách làm ra bất cứ thứ gì nữa, ngoại trừ một kỹ năng hạn hẹp duy nhất giúp kiếm đủ tiền để trang trải cho những tiện ích và dịch vụ của cuộc sống hiện đại.

Nhưng bằng cách thay thế mọi thách thức bằng một giải pháp đơn giản, chúng ta dường như đã đánh mất cái gì đó, và Eustace không phải là người duy nhất cảm thấy nỗi mất mát đó. Chúng ta là những con người ngày càng bị trầm uất và hay âu lo - mà chẳng vì điều gì cả. Có thể cho rằng tất cả tiện ích này được chúng ta tiếp nhận là để tiết kiệm thời gian cho chúng ta. Nhưng thời gian để làm gì? Sau khi đã sáng tạo ra một hệ thống lo cho mọi nhu cầu mà không đòi hỏi ở chúng ta quá nhiều nỗ lực hay sức lao động, giờ đây chúng ta có thể lấp đầy những giờ ấy bằng...?

Thì đây, một ví dụ, xem ti vi - nhiều, rất nhiều giờ xem ti vi, nhiều ngày và tuần và tháng xem ti vi trong đời mỗi người Mỹ. Và nữa, làm việc. Người Mỹ mỗi năm lại dành nhiều và nhiều giờ hơn nữa cho công việc, hầu như gia đình nào cũng có cả bố lẫn mẹ (nếu có đủ bố mẹ) phải ra ngoài làm việc cả ngày để trang trải cho mọi hàng hóa và dịch vụ này. Điều đó đồng nghĩa với đi lại liên tục. Điều đó đồng nghĩa với stress. Mối liên hệ với gia đình và cộng đồng giảm đi. Những bữa toàn thức ăn nhanh trong ô tô trên đường đi làm rồi từ chỗ làm về nhà. Sức khỏe không ngừng suy giảm. (Chắc chắn Mỹ là xã hội ít vận động và béo phì nhất trong lịch sử, và mỗi năm chúng ta một tăng cân thêm. Dường như chúng ta có thái độ coi thường cơ thể của mình cũng y như chúng ta xem thường các tài nguyên thiên nhiên vậy; rốt cuộc, nếu một bộ phận cơ thể quan trọng suy yếu thì chúng ta vẫn tin chúng ta chỉ việc mua một cái mới. Một ai khác sẽ lo chuyện đó. Hệt như cách chúng ta tin một ngày nào đó một ai khác sẽ trồng thêm rừng sử dụng rừng đến cạn kiệt. Đó là nếu chúng ta còn để ý chúng ta đang sử dụng nó cạn kiệt.)

Trong thái độ đó có sự ngạo mạn, nhưng - quan trọng hơn - có cả sự xa lánh sâu sắc. Chúng ta đã lạc khỏi tổng thể. Đơn giản là vậy. Nếu không tự nuôi trồng lấy nguồn cung lương thực thực phẩm cho chính mình nữa, chúng ta có còn cần phải để tâm tới khái niệm ví như mùa không? Có gì khác biệt giữa mùa đông và mùa hè chứ, khi mà ngày nào ta cũng có thể ăn dâu tây? Nếu có thể giữ nhiệt độ trong nhà ổn định ở mức 20°C dễ chịu quanh năm, chúng ta có còn cần để ý rằng mùa thu đang tới? Chúng ta có còn phải chuẩn bị cho điều đó? Coi trọng điều đó? Nhiệt độ giảm mạnh khiến vạn vật trong tự nhiên chết đi mỗi khi thu đến, song chuyện đó có ý nghĩa gì đối với sự tồn vong của chúng ta? Và khi mùa xuân lại về, chúng ta có cần để ý tới sự hồi sinh đó? Ta có cần dành chút thời gian cám ơn ai vì điều đó? Chào mừng nó? Nếu chẳng khi nào bước ra khỏi nhà trừ lúc lái xe đi làm, chúng ta có cần nhận thức dù chỉ rất mơ hồ về cái lực sống mãnh liệt, lớn lao, phi thường và bất tận không ngừng dâng rồi hạ hạ rồi dâng quanh chúng ta không?

Rõ ràng là không. Bởi vì chúng ta dường như đã thôi không còn bận tâm nữa rồi. Hoặc giả đó là điều Eustace Conway nhận thấy khi anh nhìn quanh nước Mỹ. Anh thấy một dân tộc đã lạc nhịp với những chu trình tự nhiên vốn định hình văn hóa và sự tồn tại của nhân loại hàng thiên niên kỷ. Đánh mất đi mối liên hệ sống còn với tự nhiên, dân tộc này đang có nguy cơ đánh mất nhân tính. Xét đến cùng, chúng ta không phải là những du khách xa lạ tới hành tinh này mà là cư dân tự nhiên và là quyến thuộc của mọi sinh thể sống ở đây. Trái đất này là nơi chúng ta sinh ra và cũng là nơi chúng ta kết thúc tất cả khi chết đi, và trong suốt khoảng thời gian giữa hai mốc ấy thì đây là nhà của chúng ta. Chẳng cách nào chúng ta mong hiểu nổi bản thân nếu không hiểu được dù chỉ một chút xíu mái nhà của mình. Đó là sự thấu hiểu mà chúng ta cần có để đặt cuộc đời của chúng ta vào một cảnh huống trừu tượng nào đó lớn lao hơn.

Nhưng Eustace chỉ thấy một cảnh tượng đáng buồn - tất cả công dân đều xa rời nhịp điệu tự nhiên tới nỗi chúng ta đi qua đời mình chỉ như những kẻ mộng du, không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì và không cảm nhận được gì. Tồn tại một cách vô cảm trong môi trường đã được tiệt trùng, trí tuệ chúng ta tê liệt, cơ thể chúng ta bạc nhược và tâm hồn chúng ta hao mòn. Nhưng Eustace tin chúng ta có thể có lại nhân tính. Khi chúng ta suy ngẫm về tuổi thọ đáng kính của một ngọn núi, chúng ta có nó. Khi chúng ta quan sát vẻ đẹp tráng lệ của nước và ánh nắng, chúng ta có nó. Khi chúng ta tự mình trải nghiệm chất thơ bạo tàn của hệ sinh vật mà ở đó lớp trên ăn thịt sinh vật lớp dưới, chúng ta có nó. Khi tràn ngập trong tâm trí chúng ta là mọi sắc thái của thế giới tự nhiên, rốt cuộc chúng ta sẽ hiểu ra: mỗi chúng ta chỉ được trao cho một khoảnh khắc sống huy hoàng tại đây trên Trái đất, và đứng trước thực tại đó chúng ta phải vừa khiêm cung hơn vừa cao quý hơn, chấp nhận mọi quy luật của vũ trụ và biết ơn về sự tham dự ngắn ngủi nhưng căn bản của mình trong đó.

Cứ cho đây không phải là một khái niệm cấp tiến. Mọi nhà môi trường trên thế giới đều hoạt động theo một triết lý dựa trên chính những giả thuyết này. Nhưng điều khiến Eustace Conway khác biệt với mọi nhà môi trường khác là niềm tin lạ thường anh đã có từ thời thơ ấu rằng sứ mệnh dành riêng cho anh là đưa những người đồng hương của anh ra khỏi giấc mộng du. Anh luôn tin chỉ một mình anh có quyền năng và nhiệm vụ này, anh là con đường dẫn đến thay đổi. Một người đàn ông, một mộng tưởng.

Và đây chính xác là mộng tưởng của anh - từng người từng người một, người Mỹ sẽ tới thiên đường bí ẩn trong rừng của anh. Ở đó, dưới sự hướng dẫn của anh, họ sẽ rũ bỏ sự bạc nhược, dốt nát và nhỏ nhen mà lối dưỡng dục của xã hội ngày nay đem lại cho họ. Sử dụng khả năng lãnh đạo của mình để thu hút, anh sẽ dẫn dắt mọi người trở lại vùng hoang dã, tháo khăn bịt mắt ra cho họ, chỉ họ nhìn về phía khung cảnh hùng vĩ choáng ngợp của vùng biên còn nguyên vẹn, và nói, “Nhìn kìa!” Rồi anh sẽ đứng lui lại quan sát sự thức tỉnh.

Eustace luôn mường tượng những nhóm trẻ tới tham gia vào các trại hè tại vùng đất nguyên sơ, nhưng anh cũng sẽ chào đón cả người lớn - những người học việc - những kẻ mà, trong khoảng thời gian dài, sẽ nghiên cứu nghiêm túc một lối sống tự nhiên dưới sự dẫn dắt của anh. Tất nhiên anh biết lôi kéo mọi người Mỹ vào rừng cùng mình là điều bất khả, đó là lý do vì sao anh cũng cam kết xuống núi cùng thông điệp của anh và tự mình đưa rừng trực tiếp tới mọi người - mang chính mùi của miền hoang dã trong tóc, trên da và trong lời ăn tiếng nói. Anh sẽ trình bày và giảng dạy học thuyết của mình ở mọi trường học, tại mọi hội chợ toàn bang, trong mọi trung tâm thương mại, điểm đỗ xe và trạm xăng mà anh bắt gặp. Anh sẽ say sưa trình bày với bất kỳ doanh nhân, người trông trẻ, bà nội trợ, gái đêm, tỉ phú hay kẻ nghiện nào trên nước Mỹ.

Với năng lượng và thông qua tấm gương của mình - Eustace vẫn luôn tin chắc điều đó – người Mỹ sẽ dần dần thay đổi. Họ sẽ khôn trưởng và học hỏi rồi sẽ lại một lần nữa tháo vát và khỏe mạnh. Sau đó họ sẽ chia tay Eustace và đi phổ biến kiến thức vừa lĩnh hội được giữa anh em bằng hữu của mình. Với phương thức đầy tính mặc khải này, mộng tưởng của Eustace Conway về sự hòa hợp hoàn hảo với tự nhiên sẽ mở rộng và mở rộng thêm mãi qua bao mái nhà, thành phố, hạt rồi bang, cho tới khi tất cả chúng ta sẽ sống như Eustace - tự nuôi trồng lấy lương thực thực phẩm, tự làm quần áo cho mình, đánh lửa bằng cách chà hai que củi vào nhau, và nhận ra nhân tính thiêng liêng của mình. Bằng cách đó, cả dân tộc vĩ đại chúng ta lẫn hành tinh thiêng liêng này sẽ được cứu.

Dẫu sao thì đó cũng là dự tính của anh.

Quá ngông cuồng? Chắc rồi. Tuy nhiên, có một điều gì đó ở gã trai này...

Không dễ gì coi nhẹ Eustace. Như cậu em Judson thường xác nhận trong niềm kính sợ, và như tôi sau này cũng đã được tận mục sở thị, những kỹ năng ở rừng của Eustace quả thực là nhiều vô kể. Anh cực kỳ giỏi giang. Trí tuệ và thể lực của anh như được định mệnh ưu đãi để có thể đạt đến độ tuyệt hảo. Anh có thị giác hoàn hảo, thính giác hoàn hảo, cân bằng hoàn hảo, phản xạ hoàn hảo, độ tập trung hoàn hảo. Anh có những bắp thịt dài trên một thân hình nhẹ nhàng song chắc chắn, giống như một vận động viên chạy cự ly trung bình thiên bẩm. Cơ thể anh có thể làm bất cứ việc gì anh đòi hỏi nó. Trí tuệ của anh cũng vậy. Anh chỉ cần thấy một ý tưởng hoặc xem một tiến trình đúng một lần là có thể làm được, ghi nhớ, và lập tức bắt tay hoàn thiện những nguyên lý của nó. Anh quan tâm sâu sắc tới môi trường xung quanh hơn bất kỳ ai tôi từng gặp. Trí óc anh hoạt động, như Henry Adams[19] từng viết về trí tuệ của những người định cư đầu tiên tại Mỹ, giống “một công cụ cắt xén đích thực, trực tiếp, sắc bén, hiệu quả và thực dụng.”

Và kiểu trí tuệ đó đồng hành với đức tính trung thực thẳng băng. Thế nên khi có lần tôi hỏi anh, “Có việc gì anh không làm được không?” Eustace trả lời, “À, tôi chưa bao giờ thấy việc gì đặc biệt khó cả.” Nói cách khác, anh có lòng tự tin hậu thuẫn cho niềm xác tín vững chắc rằng anh có thể thay đổi. Điều đó, cộng với ý chí vững như bàn thạch và thế giới quan kiên định của một nhà cải cách bẩm sinh. Và anh còn có cả tư chất thủ lĩnh mà anh chẳng ngần ngại thể hiện ra trong quan hệ với bất kỳ ai.

Tôi tới thăm Eustace tại Đảo Rùa lần đầu hồi năm 1995. Giữa chừng chuyến thăm ấy Eustace phải xuống núi, thế là tôi đi cùng anh. Anh phải xa rừng, như thường vẫn thế, để thuyết giảng về rừng, để kiếm ít tiền và truyền bá đức tin. Thế là chúng tôi lái xe qua Bắc Carolina tới một trại hè nhỏ chuyên về giáo dục môi trường. Một nhóm thiếu niên đi vào phòng ăn của khu trại để dự sự kiện tối hôm đó, và với tôi tất cả chúng trông như bọn ngốc - ồn ào, bất kính, xô đẩy, la hét, cười đùa ầm ĩ. Eustace có nhiệm vụ làm cho bọn trẻ này hứng thú với thiên nhiên.

Tôi nghĩ, Chuyện này sẽ chẳng đi tới đâu.

Eustace, mặc quần jean và áo sơ mi kẻ, không phải bằng da hoẵng, bước qua sân khấu về phía micro. Cổ anh đeo hai cái răng chó sói to tướng. Nơi thắt lưng anh là con dao.

Xô đẩy và la hét và cười đùa ầm ĩ vẫn tiếp diễn.

Eustace, mảnh khảnh và nghiêm trang, đứng bên micro, hai tay đút túi quần. Sau một lúc lâu, anh nói, “Tôi là một người nói khẽ, vì thế tối nay tôi sẽ phải nói khẽ.”

Xô đẩy và la hét và cười đùa tắt ngấm. Đám thiếu niên bất kính nhìn Eustace Conway, chăm chú. Đúng là thế - im phăng phắc. Tôi xin thề là vậy. Hệt như trong phim Giáo viên sát nhân[20].

“Tôi chuyển vào rừng sống khi tôi mười bảy tuổi,” Eustace bắt đầu. “Không lớn hơn các bạn bây giờ là bao…” Rồi anh kể về cuộc đời mình. Những đứa trẻ kia chết lặng đi, ta có thể phẫu thuật chúng mà chúng cũng chẳng nhận ra. Eustace nói với chúng về sự sinh tồn trong rừng hoang và những cuộc phiêu lưu của anh, đồng thời anh cũng trình bày về sự khác nhau giữa thế giới hình hộp và thế giới hình tròn.

“Tôi sống giữa thiên nhiên,” Eustace nói, “ở đó mọi thứ có liên hệ với nhau, luân lưu. Các mùa tuần hoàn. Hành tinh hình tròn, và đường đi của nó quanh mặt trời cũng thế. Chu trình của nước trên trái đất là vòng tròn, từ trời đổ xuống rồi luân chuyển khắp thế giới để trải rộng sự sống rồi lại bốc hơi lên. Tôi sống trong lều vải tròn và tôi dựng củi đốt lửa trong một hình tròn, và khi người thân của tôi tới thăm, chúng tôi ngồi quây quần thành vòng tròn mà trò chuyện. Chu trình sống của cây cối và động vật là vòng tròn. Tôi sống giữa thiên nhiên nơi tôi có thể thấy điều này. Người xưa đã hiểu rằng thế giới của chúng ta tròn, nhưng ngày nay chúng ta không còn thấy được điều đó. Tôi không sống trong nhà cao tầng, bởi vì nhà cao tầng là địa điểm chết, ở đó chẳng thứ gì mọc lên, ở đó nước không trôi chảy, ở đó sự sống ngưng lại. Tôi không muốn sống trong một nơi chết. Mọi người nói tôi không sống trong thế giới thật, nhưng chính người Mỹ hiện đại mới sống trong thế giới giả, bởi vì họ đã bước ra ngoài vòng đời tự nhiên.

“Tôi thấy vòng đời rõ nhất là khi bắt gặp xác một con chó sói mới chết khi tôi đang trên đường phi ngựa xuyên nước Mỹ. Xác con vật bị cái nóng hoang mạc làm khô quắt lại, nhưng khắp xung quanh nó, trong một vòng tròn căng tràn nhựa sống, là một dải cỏ xanh mơn mởn. Ở đó đất đai đang vay mượn dưỡng chất từ con vật để tái sinh. Đây không phải là cái chết, tôi nhận ra vậy; đây là sự sống vĩnh hằng. Tôi lấy răng của con chó sói đó và làm cho mình chiếc vòng cổ này đây, nó luồn vòng quanh cổ tôi để tôi không bao giờ quên bài học ấy.

“Ngày nay mọi người có sống trong hình tròn không? Không. Họ sống trong hình hộp. Họ thức dậy mỗi sáng trong cái hộp phòng ngủ bởi vì một cái hộp bên cạnh họ bắt đầu kêu bíp bíp báo cho họ là đã đến giờ dậy. Họ ăn sáng từ một cái hộp và rồi họ ném cái hộp đó vào một cái hộp khác. Rồi họ rời khỏi cái hộp họ sống và chui vào cái hộp có bánh xe để lái tới chỗ làm, lại là một cái hộp to đùng khác chia ra thành nhiều ngăn hộp nhỏ, nơi một đám người cả ngày ngồi chú mục vào cái hộp máy tính ngay trước mặt. Khi hết ngày, mọi người lại chui vào cái hộp có bánh xe để về hộp nhà và dành cả tối chằm chằm nhìn vào cái hộp ti vi để giải trí. Họ chọn nhạc từ hộp, họ lấy thức ăn từ hộp, họ cất quần áo trong hộp, họ sống đời mình trong một cái hộp! Điều đó nghe có giống với ai đấy mà các bạn biết không?”

Đến đây thì đám trẻ cười lớn và vỗ tay tán thưởng.

“Hãy thoát khỏi cái hộp!” Eustace nói. “Các bạn không phải sống như thế này bởi vì người ta bảo các bạn đó là con đường duy nhất. Các bạn không bị còng tay vào nền văn hóa của mình! Đây không phải là cách nhân loại đã sống hàng nghìn hàng nghìn năm mà cũng chẳng phải con đường duy nhất các bạn có thể sống ngày nay!”

Thêm một giờ như thế nữa, rồi đến tràng pháo tay không ngớt, giống như trong một buổi mít tinh thức tỉnh lại lòng mộ đạo. Sau cuộc nói chuyện, Eustace ngồi bên mép sân khấu, uống nước suối Đảo Rùa trong lành đong đầy cái bình thủy tinh mà anh mang theo bên mình khắp mọi nơi. Đám thiếu niên tiến lại gần với vẻ khiêm cung, kính sợ, trong khi đó giám đốc trại bắt tay Eustace đầy cảm kích và trao cho anh một tờ séc hào phóng đựng kín đáo trong phong bì. Bọn trẻ xúm lại gần hơn. Cậu con trai ngỗ ngược, ngông cuồng nhất trong đám tới đứng ngay bên cạnh Eustace. Thằng bé đặt nắm tay lên ngực và tuyên bố, với sự long trọng chân thành, “Anh cừ lắm. Tuyệt bỏ xừ.” Eustace ngửa đầu ra sau cười vang. Các trại viên khác xếp hàng bắt tay anh và rồi nổ ra hàng loạt câu hỏi.

“Nếu phải đánh lửa ngay bây giờ anh làm được không?”

“Được chứ.”

“Nếu ai đó thả anh trần truồng giữa Alaska, anh có thể sống sót không?”

“Tôi nghĩ là có. Nhưng nếu tôi có con dao thì sẽ dễ hơn nhiều.”

“Lần đầu tiên vào rừng sống anh có sợ không?”

“Không. Thế giới văn minh đáng sợ hơn rừng nhiều.”

“Cha mẹ anh có phát rồ với anh khi anh chuyển vào rừng không?”

“Bố tôi không hiểu sao tôi lại muốn ngôi nhà hiện đại thoải mái, nhưng mẹ tôi hiểu.”

“Có bao giờ anh ốm không?”

“Hiếm khi.”

“Anh đã bao giờ đi bác sĩ chưa?”

“Chưa từng.”

“Anh có biết lái xe không?”

“Thế cậu nghĩ tối nay tôi đến đây bằng gì?”

“Anh có sử dụng công cụ hiện đại nào không?”

“Tôi thường xuyên sử dụng cưa máy để coi sóc vùng đất của mình. Tôi dùng điện thoại. Xô nhựa nữa. Chúa ơi, xô nhựa tuyệt thật! Tôi đã làm nhiều giỏ và thùng chứa bằng vỏ cây và cỏ - ý tôi là tôi biết cách làm việc đó và tôi vẫn thường dùng những phương tiện thô sơ ấy đi lấy nước - nhưng tôi nói các bạn nghe, để làm được việc nhanh hơn thì chẳng có gì hơn xô nhựa đâu. Ôi! Xô nhựa! Tuyệt diệu! Tôi thích xô nhựa!”

“Anh có bàn chải đánh răng không?”

“Ngay lúc này thì không.”

“Anh có lược không?”

“Tôi từng có một cái lược nhím. Nhưng giờ tôi không còn nó nữa.”

“Lược nhím là cái gì?”

“Một cái lược làm từ lông nhím.”

“Anh kiếm được thứ ấy ở đâu?

“Có lần một con nhím đã cứu mạng tôi khi tôi đang cuốc bộ trên đường mòn Appalachia, thế nên tôi làm một chiếc lược bằng lông của nó, để ca ngợi công ơn nó.”

“Một con nhím thì có thể cứu mạng anh thế nào được?”

“Bằng cách cho tôi cái gì đó để ăn khi tôi đang đói sắp chết.”

Đến đây thì có một khoảng lặng kéo dài, trong khi bọn trẻ cố gắng hiểu được điều đó. Rồi tất cả bọn chúng đồng thanh kêu lên, “Ôôôiii...”, và những câu hỏi lại tiếp tục.

“Tại sao anh lại đói sắp chết?”

“Bởi vì không có gì để ăn cả.”

“Tại sao không có gì để ăn?”

“Bởi vì lúc đó đang là mùa đông.”

“Khoảng thời gian anh không được ăn uống gì lâu nhất là khi nào?”

“Có lẽ hai tuần trước khi tôi giết con nhím đó.”

“Anh cho bọn em xem cái lược lông nhím ấy được không?”

“Tôi không còn nó nữa. Tôi mang nó tới một sự kiện giống thế này đây, để cho mấy cô cậu tuổi tầm các bạn xem, và ai đó đã chôm mất. Các bạn có thể tưởng tượng chuyện đó làm tôi bu?