← Quay lại trang sách

Chương bốn

Chúng ta có phần lộn xộn ở đây với vô số dự án cải cách xã hội. Không phải người đọc rộng nhưng cũng có bản dự thảo về một tổ chức cộng đồng mới nhét trong túi áo gi lê.

- Ralph Waldo Emerson [1]

Khi quay trở về Bắc Carolina vào mùa thu năm 1981, Eustace Conway bắt đầu đi tìm một nơi mới để dựng lều vải. Anh biết mình có thể tìm thấy một địa điểm tuyệt vời nếu bỏ thời gian tìm kiếm. Suốt những năm đầu tuổi trưởng thành, cứ khi nào cần ổn định cho một giai đoạn quan trọng nào đó, Eustace đều thấy thật dễ dàng khi sống nhờ trên (và dựa vào) mảnh đất của những người đủ hào phóng cho anh chiếm dụng.

“Tôi là người độc nhất vô nhị ở điểm tôi sống trong một cái lều vải thổ dân,” Eustace trình bày trong một lá thư tự nguyện viết để giới thiệu bản thân với một chủ đất ở Bắc Carolina sở hữu thửa đất rộng bao la mà anh vừa âm thầm xem xét. “Trong khi tìm kiếm một mảnh đất để sống vào mùa thu sắp tới, tôi tình cờ thấy điền địa của ông và tôi muốn biết liệu ông có thể chiếu cố cho tôi cắm trại bên cạnh con lạch trên đất của ông không. Tôi không có nhiều tiền, nhưng có thể trả một khoản thuê nho nhỏ. Tôi có thể chăm sóc đất đai của ông như một người trông đất. Tôi sẽ vô cùng trân trọng và thấu hiểu những mong muốn của ông. Tôi gửi kèm theo đây tới ông một phong bì đã dán tem có đề địa chỉ của tôi để ông tiện hồi âm. Tôi cũng gửi kèm một bài báo để ông có thêm thông tin về phong cách sống của tôi.”

Quyết cho được nên gửi bài báo nào tới người chủ đất ấy hẳn chỉ là một việc vặt đối với Eustace; dạo đó có rất nhiều bài báo viết về anh. Anh đang nhận được sự quan tâm rất lớn của cộng đồng và đang là cục cưng của giới phóng viên Bắc Carolina, họ thích viếng thăm “chàng thanh niên lặng lẽ, khiêm tốn, vô cùng mộc mạc” sống “giản tiện hơn cả một chiến binh Sparta, thậm chí không cho phép bản thân hưởng cái xa xỉ là dùng diêm nhóm lửa trại.”

Báo chí yêu mến anh bởi vì anh hoàn hảo. Hùng biện, thông minh, lịch lãm, hấp dẫn, cực kỳ ăn ảnh, chàng thanh niên Eustace Conway trong cái lều vải là mơ ước của bất kỳ tay chủ bút chuyên trang giới thiệu nhân vật đặc biệt nào. Anh sống tự cung tự cấp như một sơn nhân thời xưa, nhưng anh không phải kiểu người theo chủ nghĩa ưu việt chủng tộc đáng sợ từ chối trả thuế và ưa ba hoa về sự tuyệt chủng trong nay mai của người da trắng. Anh khiêm nhường trước tự nhiên và có quan điểm lý tưởng chủ nghĩa về tự nhiên, nhưng anh không phải là một kẻ lập dị yếu đuối, khuyến khích mọi người lột bỏ quần áo chạy ra với rừng. Anh sống biệt lập với xã hội theo một kiểu cách quyến rũ, nhưng anh không phải kẻ ẩn dật trốn chạy, bởi lúc nào anh cũng chào đón giới báo chí hết sức hòa nhã. Phải, anh thách thức những người đồng tuế của mình hãy đặt nghi vấn về những gì người ta thcho là đặc trưng của người Mỹ hiện đại, nhưng anh lịch sự và diễn thuyết hay, có khả năng tự thể hiện là một sinh viên luôn đạt điểm A để chứng minh tư cách đáng trọng của mình.

Chính thế - một sinh viên luôn đạt điểm A. Thật thú vị, Eustace đã quyết định vào trường cao đẳng sau khi kết thúc chuyến đi bộ trên Đường mòn Appalachia. Một lựa chọn lạ lùng đối với một người vốn ghét trường lớp đến như Eustace từng ghét. Nhưng anh đã luôn tin rằng anh có thể trở thành học sinh giỏi nếu anh thoát khỏi cảnh đè đầu cưỡi cổ của cha, và sự thật đúng như vậy, anh đạt toàn điểm ưu ở trường cao đẳng ngay từ ngày đầu, kể cả trong môn toán. Có lẽ không sai khi cho rằng không có sinh viên nào khác tại Cao đẳng Cộng đồng Gaston giống như Eustace. Anh nổi tiếng khắp trường, bởi cái lều vải và trang phục kiểu vùng biên, giọng nói điềm tĩnh cùng những câu chuyện phiêu lưu trên rừng núi và dọc sông Mississippi. Từ những người bạn ở trường, anh bắt đầu nhận được kiểu phản ứng mà có lẽ anh mong đợi trong suốt phần đời còn lại. Các cô em, tôi không biết có từ nào hay hơn ở đây, chết mê chết mệt anh; các cậu trai muốn được giống y như anh. Anh đang ngày càng ra dáng, trở nên vừa đặc biệt vừa tuyệt diệu hơn ở vẻ bề ngoài - khung xương mặt rộng và khuôn miệng khỏe khoắn, đôi mắt đen dày mí rộng quầng và cái mũi khoằm dài. Thân hình anh tuyệt vời - một người bạn gặp Eustace sau khi anh rời Đường mòn Appalachia đã nói anh trông giống “một phiến đá rắn chắc, cao lớn” - và tóc anh màu đen thì đúng hơn là nâu. Da anh sậm màu; răng trắng. Chẳng có nét mơ hồ nào trên khuôn mặt này, chỗ nào dốc ra dốc, tối ra tối, phẳng ra phẳng. Anh là một tạo vật có sức mạnh thể chất đầy ấn tượng, một người trông như được tạc từ cây đại thụ. Anh có mùi như loài thú, nhưng là một con thú sạch sẽ. Ai cũng phải ngoái nhìn anh. Anh vô cùng nổi bật và lôi cuốn.

Scott Taylor, một sinh viên học cùng với Eustace trong suốt những năm cao đẳng, nhớ đã thấy anh đi trong trường với “nụ cười tươi rói và thứ trang phục da hoẵng ấy, cậu ta dường như là chàng trai tuyệt diệu nhất trên đời. Tôi thèm được xem cái lều vải của cậu ấy đến chết được, nhưng ta chẳng thể cứ thế không mời mà đến lều của người ta.” Thế rồi, Scott cũng giành được cho mình một lời mời vào “một ngày mưa thu tuyệt đẹp”, Eustace bảo Scott ra ngồi bên con lạch thái rau làm món hầm. Scott chưa từng làm việc gì như thế trước đây nên cảm thấy cực kỳ kinh ngạc. Cậu là một chàng trai thành phố quen sống trong bảo bọc, kết hôn sớm và đang học cao đẳng ngành hóa chất, cậu sửng sốt và được thức tỉnh bởi mọi điều Eustace nói và làm.

Scott nhớ lại, “Tôi mười chín tuổi và vợ tôi cũng thế, chúng tôi có một căn hộ nhỏ mà chúng tôi đang cố xây đắp sao cho trông giống nhà của một cặp vợ chồng Mỹ trung lưu điển hình. Chúng tôi đang bắt chước theo cha mẹ mình, thậm chí không nghĩ sâu sắc chút nào về đời mình. Rồi một ngày kia tôi mời Eustace Conway tới, và cậu ấy lặng lẽ đi loanh quanh, nhìn ngắm mọi thứ rồi nói, ‘Trời ơi, các cậu có nhiều của cải vật chất quá.’ Tôi chưa từng một lần nghĩ trên đời này còn có cách sống nào khác. Eustace nói, ‘Hãy thử tưởng tượng nếu các cậu gom hết chỗ tiền các cậu đã chi cho những thứ này và thay vào đó đi chu du vòng quanh thế giới bằng số tiền ấy hoặc mua sách về đọc xem nào. Nghĩ coi các cậu sẽ hiểu nhiều về cuộc đời biết bao nhiêu.’ Tôi nói chị nghe, tôi chưa bao giờ nghe những ý tưởng như thế. Cậu ấy cho tôi mượn sách về nghề mộc, nghề thuộc da, chế tác gỗ, để giúp tôi thấy mình có thể học các kỹ năng và tự mình làm nên nhiều thứ. Cậu ấy thường nói, ‘Cậu biết không Scott, có rất nhiều thứ cậu có thể làm khi nghỉ hè chứ không chỉ là làm việc văn phòng. Cậu có thể đi nhờ xe xuyên nước Mỹ hoặc cậu có thể đi thăm thú châu Âu.’ Châu Âu! Đi nhờ xe! Đây là những từ kỳ lạ nhất tôi từng nghe!”

Trong hai năm học tại Cao đẳng Cộng đồng Gaston, Eustace nhận toàn điểm tốt và được chuyển lên học bốn năm tại Đại học Bang Appalachia, tọa lạc tại thành phố núi Boone, Bắc Carolina. Ban đầu anh lo lắng không biết anh sẽ ra sao tại Đại học Bang Appalachia, vì biết trường này sẽ đòi hỏi trí tuệ ở anh nhiều hơn trường cao đẳng cộng đồng, và vẫn còn cảm thấy hơi ức chế bởi những năm tháng chịu sự chỉ trích của người bố, và cũng khiếp sợ cả cái viễn cảnh có quá nhiều bạn học.

Ngày đầu tới lớp, anh thậm chí còn không mặc bộ đồ da hoẵng; anh sợ thu hút sự chú ý của mọi người. Anh mặc quần áo ra phố, nhảy lên xe mô tô, rời lều sớm đủ để có thời gian tìm hiểu khu trường đại học và định hướng cho mình. Tuy nhiên, khi đang phóng xe xuống Boone, anh để ý thấy một con thỏ mới bị xe cán chết bên vệ đường, và, theo thói quen, anh dừng lại nhặt nó lên. (Eustace đã từ lâu lấy thịt thú bị cán dọc đường làm món chính trong thực đơn ngày thường. Theo kinh nghiệm của anh thì nếu lũ bọ vẫn sống và nhảy nhót trên da con thú thì thịt nó hãy còn tươi và ăn được.) Anh cho con thỏ vào ba lô, chạy xe đi tiếp, và là người đầu tiên đến lớp, lớp Khảo cổ học 101. Thật ra anh là người đầu tiên tới lớp, sớm cả tiếng đồng hồ, bởi vì anh đã rất hứng thú với việc đến thật sớm để làm quen. Có một khoảng thời gian dài rỗi rãi mà lại không chịu được chuyện ngồi không, anh tự hỏi liệu anh có nên bắt tay ngay vào lột da con thỏ không.

Rồi anh chợt nảy ra một ý! Anh nhớ mẹ anh trước đây thường bảo anh rằng “trường học chỉ là trường học khi con làm được gì từ đó.nh quyết định làm đôi điều. Anh hỏi quanh và tìm gặp được giáo sư của lớp anh sắp vào học rồi tự giới thiệu. Chắc hẳn anh đã khiến cô vô cùng kinh ngạc. Cô là Giáo sư Clawson, vừa tốt nghiệp Đại học Harvard, và đây không chỉ là ngày đầu cô dạy lớp học này mà còn là lần đầu tiên cô đứng lớp, và cũng là lần đầu tiên cô sống ở miền Nam.

“Thưa cô,” Eustace nói, “em biết lớp học này do cô dạy, nhưng em có một ý tưởng. Em nghĩ có lẽ hôm nay cô trò ta có thể cùng nhau dạy điều gì đó thú vị về khảo cổ học nếu em trình bày rằng em sống theo lối truyền thống, nguyên thủy, cô hiểu chứ ạ? Em có một con thỏ mà em vừa thấy chết bên vệ đường, nó cần được lột da để tối nay em còn ăn thịt. Cô có thể cho em lột da thỏ trước lớp làm một bài giảng không? Em sẽ sử dụng các công cụ em làm từ đá, y như người cổ đại sử dụng. Em thậm chí còn có thể chế tạo công cụ ngay trước lớp. Đó sẽ là một bài học khảo cổ học rất tuyệt, cô có nghĩ thế không?”

Giáo sư nhìn anh đăm đăm một lúc lâu. Rồi khi trấn tĩnh lại được cô liền nói, “Được. Cứ làm thế đi.”

Họ xuống phòng thí nghiệm khoa địa chất, tìm thấy mấy viên đá lửa tốt, rồi trở về lớp học. Khi những sinh viên khác đến, Giáo sư Clawson tự giới thiệu, phát một số bài tập về nhà làm, rồi nói, “Còn giờ tôi sẽ giao lớp lại cho một bạn sinh viên đồng khóa của các em, cậu ấy sẽ cho các em thấy cách lột da thỏ theo phương thức nguyên thủy.”

Eustace bật dậy khỏi ghế, lôi con thỏ trong ba lô ra với vẻ tao nhã của một pháp sư lão luyện, nhặt đá lên và cất tiếng say sưa trình bày trong khi đẽo gọt làm công cụ. “Cẩn thận đừng để mẩu đá bắn vào mắt đấy nhé, mọi người!” anh nói, và giải thích cách người nguyên thủy mài đá để có được cạnh sắc đến mức có thể cắt xẻ một con nai lớn chỉ bằng hai viên đá nhỏ; bản thân Eustace đã làm thế nhiều lần. Thực tế thì người Aztec, anh nói với cả lớp, thường chế tạo công cụ đá bén ngọt và tỉ mỉ đến độ có thể thực hiện phẫu thuật não cho người khác - “Phẫu thuật não thành công!” Với các nhà khảo cổ học, Eustace nói, việc nghiên cứu các công cụ đá này là thiết yếu, không chỉ vì tầm quan trọng của chính các công cụ đó, mà còn bởi vì một con vật nếu được mổ xẻ bằng công cụ ấy thì sẽ mang theo mình một kiểu dấu vết trên xương rất riêng biệt, và điều đó có thể giúp các nhà nghiên cứu xác định xem một sinh vật thời cổ đại chết tự nhiên hay đã bị con người giết thịt.

Rồi Eustace móc gọn gàng con thỏ bị xe cán ven đường vào một cái thòng lọng treo trên dây tấm mành cửa sổ màu be cũ kỹ trong lớp học. Anh vừa mổ bụng con thỏ hết sức nhanh chóng vừa bàn về chuyện ruột già của nó thường khá sạch bởi ruột già chỉ chứa mấy viên phân đen cứng ngắc, nhưng ta phải cẩn thận với ruột non và dạ dày, bởi vì những bộ phận này chứa chất dịch tiêu hóa mặn và thối hơn. Nếu ta vô tình rạch rách những bộ phận này, “thứ bẩn thỉu kia sẽ tràn khắp phần thịt, như thế thì kinh lắm.”

Vừa làm Eustace vừa nói về sinh lý của thỏ hoang, về chuyện da nó mỏng manh như giấy kếp thế nên xử lý mà không làm rách là cả một thách thức. Nó không giống với da nai, anh giải thích trong khi thực hiện một đường rạch mảnh từ một bên chân sau xuống hậu môn rồi vòng sang chân kia. Da nai dẻo dai nên có ích cho hàng chục mục đích chứ da thỏ thì không, Eustace nói tiếp. Ta không thể lột da thỏ hoang lành tấm và rồi cứ thế gập đôi lại để làm găng tay. Cẩn thận lột lớp da thỏ dễ rách như miếng khăn giấy ướt, anh chỉ ra rằng nghệ thuật xử lý thỏ là lột da thành một sợi dài duy nhất, như thể ta đang gọt táo. Bằng cách đó, cuối cùng ta có thể có một dải lông dài hai mét rưỡi từ một con thỏ, y như thế này!

Eustace chuyền tấm lông quanh khắp lớp để mọi người cầm. Các sinh viên hỏi người ta có thể làm gì với một dải lông mỏng mảnh như thế. Tất nhiên là anh có câu trả lời. Thổ dân sẽ dùng dải lông thỏ này quấn chặt quanh một sợi cói bện, phần da hướng vào trong còn phần lông hướng ra ngoài. Khi thứ này khô, cói và lớp da sẽ quyện vào nhau hoàn hảo, rốt cuộc người ta sẽ thu được một sợi thừng dài, dẻo dai. Nếu đan mấy chục sợi thừng như thế này vào với nhau, ta có thể làm nên một tấm chăn không chỉ mềm mại và nhẹ nhàng mà còn vô cùng ấm áp. Và nếu ta thám hiểm những nơi trú ẩn trong hang động cổ xưa tại New Mexico, như Eustace Conway đã từng thăm dò rất nhiều lần, ta có thể tìm thấy một mảnh chăn như thế khuất lấp trong góc tối, được bảo quản qua hàng nghìn năm trong khí hậu sa mạc khô hạn.

Sau hôm đó, Eustace Conway lại trở nên vô cùng nổi tiếng. Anh lấy lại sự tự tin và thậm chí còn bắt đầu mặc đồ da hoẵng đến trường. Thật ra, chính đêm đầu tiên đó, Giáo sư Clawson đã tới lều vải của Eustace và ăn một bát to thịt thỏ hầm với anh.

“Mà cô vốn là một người ăn chay nghiêm ngặt cho đến thời điểm đó!” Eustace nhớ lại. “Nhưng chắc chắn là cô thực sự thích món thỏ ấy.”

Chào mừng đến với miền Nam, Giáo sư.

Eustace sống trong lều vải suốt những năm học cao đẳng, ngày càng thông hiểu hơn về khoa học sống ngoài thiên nhiên, đồng thời anh cũng được củng cố nhiều tri thức hơn trong các giờ học ở Đại học Bang Appalachia. Hầu hết các kỹ năng cần thiết để được an nhiên trong rừng hoang anh đã thành thục từ thời thơ ấu và tuổi mới lớn. Tất cả những giờ chăm chú khám phá và thám hiểm những khu rừng phía sau nhiều ngôi nhà khác nhau mà gia đình Conway từng sống đã mang lại nhiều lợi ích cho anh, các trải nghiệm trên Đường mòn Appalachia cũng vậy. Điều mà bản thân Eustace gọi là “sự tập trung quan sát cao độ” bẩm sinh của anh đã mang đến cho anh sự tinh thông ngay từ khi còn rất nhỏ.

Anh cũng đã dành rất nhiều thời gian trong những năm tháng ấy để hoàn thiện kỹ năng săn bắn. Anh trở thành một người nghiên cứu lối sống của hươu nai, nhận thức được rằng càng biết nhiều về loài vật này anh sẽ càng tìm bắt chúng được dễ dàng hơn. Nhiều năm sau, khi đã trở thành một thợ săn thật sự lão luyện, anh thường nhìn lại những ngày tháng học cao đẳng và nhận ra rằng anh hẳn đã bỏ lỡ hàng chục con nai; rằng vô số lần anh hẳn chỉ ở cách con nai trong khoảng sáu mét mà không hay biết. Eustace đã phải học cách không chỉ cứ lùng sục khắp rừng tìm kiếm “một đôi gạc và một con vật lớn tướng đứng giữa khoảng đất trống với một tấm biển to đùng chỉ vào nó đề CÓ MỘT CON NAI NGAY ĐÂY NÀY, EUSTACE!” Thay vào đó, anh học được cách phát hiện ra nai như anh đã từng một thời phát hiện ra rùa - bằng cách chú ý tìm kiếm những khác biệt nhỏ xíu trong màu sắc hoặc chuyển động trong các bụi cây thấp. Anh học được cách nhận biết một góc tai khẽ rung của một con nai; cách bắt gặp những mảng nhỏ, mờ nhạt của cái bụng trắng nổi bật trên đám cây mùa thu dùng làm ngụy trang và nhận ra đâu là con nai. Giống như nhà đạo diễn âm nhạc, người có thể phân biệt từng sắc thái của từng nhạc cụ trong một dàn nhạc, Eustace cũng đạt tới trình độ có thể nghe tiếng gãy tách của một cành con trong rừng và qua âm thanh đó mà biết đường kính của nó, điều ấy cho anh biết cành cây đã bị một con nai lớn hay một sóc giẫm lên. Hay tiếng gãy kia đơn thuần là âm thanh của một cành khô lìa cây trong làn gió sớm? Eustace đã học được cách nhận ra sự khác biệt.

Trong suốt những năm sống trong lều vải, anh cũng trở nên tôn trọng và trân quý mọi loại hình thời tiết mà thiên nhiên gửi xuống mái nhà anh. Nếu trời mưa ba tuần liên tiếp, chẳng việc gì phải thấy khó chịu với mưa; rõ ràng đó là điều thiên nhiên đang cần ngay lúc ấy. Eustace sẽ cố thích nghi và dùng thời gian ở để khâu quần áo, đọc sách, cầu nguyện, hoặc tập xâu cườm. Anh đạt tới chỗ hiểu thấu đáo rằng mùa đông cũng tuyệt đẹp và quan trọng chẳng kém gì mùa xuân; bão tuyết cũng thích đáng và cần thiết y như nắng hè ấm áp. Khi nghe bạn bè trang lứa ở trường kêu ca về thời tiết, anh thường về lều vải và viết vào nhật ký một bài dài về chuyện anh khám phá ra rằng “chẳng có cái gì gọi là ngày ‘tồi tệ’ trong tự nhiên. Ta không thể chỉ trích tự nhiên như thế vì tự nhiên luôn làm điều nó cần làm.”

“Ngọn lửa của tôi đêm nay đã được tiếp cho cháy đượm,” Eustace Conway, sinh viên cao đẳng, viết trong nhật ký vào một ngày giá lạnh tháng Mười hai, “và tôi đang thu hoạch một vụ mùa NHIỆT tuyệt vời. Yêu quá. Tôi đang sống theo một cách hẳn sẽ khó chịu đựng được đối với nhiều người hiện đại. Ví như, tối hôm qua khi màn đêm buông xuống, tôi nhóm lửa và thêm củi vào để đun nước và nấu bữa tối. Khi nước nóng, tôi cởi áo (trong nhiệt độ đóng băng) mà tắm gội. Chuyện này hẳn quá sức chịu đựng đối với bọn bạn cùng lớp của tôi!”

Điều này có lẽ đúng. Tuy nhiên, công bằng mà nói, một số thanh niên hiện đại có thể diễn được cảnh này không khó. Donna Henry chẳng hạn. Mặc dù cái tên Donna không xuất hiện thường xuyên trong các cuốn nhật ký, cô thực sự đã có rất nhiều thời gian ở bên Eustace, ngay kia trong lều vải bên cạnh anh, cũng cởi áo và gội đầu trong cùng nhiệt độ lạnh giá như thế.

Donna quấn lấy Eustace kể từ khi họ cùng nhau chinh phục xong Đường mòn Appalachia. Mùa hè sau đó, hai người đã cùng nhau đi bộ qua những công viên quốc gia ở miền Tây, lại với tốc độ kinh hoàng (anh dẫn trước; cô cố theo sau), và sau ngần ấy thời gian bên nhau trong rừng hoang, cô nhận ra cô vô cùng khao khát được kết hôn với chàng trai này. Cô thẳng thắn với anh về điều đó. Cô nói thẳng ra rằng “chúng ta có một mối ràng buộc, chúng ta là tri kỷ, chúng ta là bạn đồng hành. Đây là mối quan hệ chỉ-có-một-lần-trong-đời.” Nhưng Eustace cảm thấy anh còn quá trẻ chưa thể tính chuyện hôn nhân. Có lẽ chỉ đứng sau khả năng chuyển về sống với bố, hôn nhân là thứ Eustace không hề nghĩ đến hồi anh hai mươi tuổi. Toàn bộ hành trình đi học và chu du và sống trong lều vải này với Eustace là hoàn toàn đối lập với hôn nhân; nó là tìm kiếm sự tự do tuyệt đối.

Tuy nhiên, anh yêu Donna và coi trọng sự đồng hành của cô, nên anh để cô ở bên mình. Cô tới sống trong lều vải cùng anh trong một khoảng thời gian khi anh học cao đẳng và cô đón nhận những sở thích của anh như của chính mình. Cô học cách khâu đồ bằng da hoẵng, tiếp tục nghiên cứu văn hóa thổ dân Mỹ, và bắt cùng anh tới các buổi tế lễ của thổ dân, gặp gỡ bạn bè anh và đóng vai nữ chủ nhân lều vải.

Donna Henry dần trở thành Donna Reed[2]. Và cô cảm thấy cô đơn, bối rối về điều này. Sự thật là, cô không được gặp Eustace nhiều lắm. Anh đang bắt đầu dành hết nỗ lực cho một chuyên đề gồm hai môn nhân học và Anh văn, còn khi không đi học thì anh cũng bận trở thành nhà hoạt động xã hội và nhà giáo, anh ngày càng cảm thấy mình sinh ra với trọng trách đóng những vai trò đó. Eustace Conway, trong những năm đầu tuổi hai mươi, là Người Mang Sứ Mệnh Tập Sự, điều đó khiến anh không dư dôi nhiều thời gian cho bạn gái. Anh đã khởi hành chu du khắp miền Nam, giảng dạy trong các trường công lập, phát triển cái mà sau này anh gọi là “màn trình diễn cầu kỳ” - một chương trình tương tác, thực nghiệm về giáo dục và nhận thức về tự nhiên. Anh rất xuất sắc trong việc này. Anh có thể khiến một hội nghị toàn những doanh nhân mệt mỏi rã rời phải đứng dậy nhiệt liệt hoan hô. Còn bọn trẻ? Bọn trẻ yêu mến Eustace như thể anh là ông già Noel của núi rừng: “Anh Conway, anh quả là người hết sức dễ thương... Cảm ơn anh đã đến dự Ngày Di sản... Em rất thích tìm hiểu về thổ dân da đỏ. Em đặc biệt thích nghe về cách họ sống và thứ họ ăn… Thật thú vị khi thấy anh có thể khâu quần áo... Khi lớn lên em sẽ cố được như anh... Em nghĩ chỉ trong một ngày anh đã dạy em nhiều hơn những gì em học được ở trường tám năm qua.”

Eustace còn mải mê nỗ lực thống nhất các chi tiết triết lý sống cá nhân của mình thành một mối. Anh biết rằng định mệnh của mình là trở thành người thầy, nhưng chính xác thì anh cần dạy thế giới điều gì? Anh muốn cảnh báo mọi người về nhịp điệu buồn tẻ mà đời sống tiêu thụ đem lại cho trái đất. Dạy mọi người cách đạt được tự do từ cái mà ông ngoại anh từng gọi là “ảnh hưởng của thành thị gây hạn chế tầm nhìn và làm nhu nhược con người.” Rèn luyện họ tập trung chú ý vào những lựa chọn của bản thân. (“Tự giảm thiểu, Tái sử dụng và Tái chế đều là những ý tưởng hay,” anh thường giảng, “nhưng ba khái niệm đó chỉ nên là giải pháp sau cùng. Cái bạn thật sự cần tập trung vào là hai từ khác cũng bắt đầu với chữ cái T - Tái xem xét vừ chối. Thậm chí trước cả khi bạn kiếm được một món hàng dùng một lần, hãy tự hỏi mình tại sao bạn lại cần thứ sản phẩm tiêu dùng này. Và rồi gạt bỏ nó đi. Từ chối nó. Bạn có thể.”) Ý tưởng chung quy lại là con người cần phải thay đổi. Họ phải trở lại sống trực diện tự nhiên, nhược bằng thế giới sẽ kết thúc. Eustace Conway tin rằng anh có thể chỉ cách cho họ.

Thế là trong những năm học cao đẳng anh cũng dành thời gian cặm cụi viết bản thảo một cuốn sách - một cuốn sách hướng dẫn, vì tôi không tìm thấy cách diễn đạt nào tốt hơn - tên là Đi giữa cái đẹp: sống giữa thiên nhiên. Nó là một kế hoạch hành động chi tiết cho người Mỹ để chuyển đổi từ nền văn hóa hiện đại nghèo nàn sang cuộc sống tự nhiên phong phú hơn, nơi họ và con cái có thể phồn thịnh, thoát khỏi “khói bụi, đồ nhựa và tiếng ồn ào vô nghĩa không ngớt làm loạn óc, tăng huyết áp, gây ra ung nhọt và tạo điều kiện cho bệnh tim”. Anh hiểu một chuyến đi vào rừng không được chuẩn bị đầy đủ sẽ làm khiếp sợ hầu hết người Mỹ, nhưng anh cảm thấy chắc chắn rằng, nếu anh viết được một cuốn sách hướng dẫn tỉ mỉ, anh có thể giúp ngay cả những gia đình sống trong nhung lụa nhất trở về với rừng một cách thoải mái và an toàn. Đi giữa cái đẹp có giọng điệu tuyệt diệu của chủ nghĩa lạc quan bạn-có-thể-làm-được. Mỗi từ đều cho thấy Eustace tự tin đến thế nào, ở cái tuổi hai mươi mốt, không chỉ tự tin mình có những câu trả lời, mà còn tự tin mình sẽ được người ta chăm chú lắng nghe.

Cuốn sách được sắp xếp thành các chủ đề đâu ra đó như Nhiệt, Ánh sáng, Sảng khoái, Giường chiếu (“Hiểu được các nguyên lý của cuộc sống một mình là điểm khởi đầu tốt”), Sạch sẽ, Quần áo, Công cụ, Nấu nướng, Trẻ em, Nước, Động vật, Cộng đồng, Lửa, Cô đơn, Tìm thức ăn, Tâm linh và Thế giới quan. Văn phong của anh sáng sủa và đầy uy lực. Thông điệp xuyên suốt của anh là càng thông hiểu thiên nhiên hoang dã thì con người càng “sống giản tiện” hơn và do đó cuộc đời có thể càng thoải mái hơn. Không lý gì ta bị tổn hại trong rừng thẳm một khi ta biết rõ mình đang làm gì, anh thuyết phục độc giả.

“Khốn khổ trong rừng hoang thì chẳng vui vẻ gì cả! Đi giữa cái đẹp có nghĩa là hòa mình với khung cảnh thiên nhiên, làm nên khoảng thời gian hạnh phúc, mãn nguyện, đáng nhớ. Không phải đáng nhớ theo kiểu làm cháy giày trong đống lửa và bị bệnh lỵ do uống nước bẩn! Mà đáng nhớ theo nghĩa làm cho thiên nhiên êm ả và khiến nó trở nên dễ thương, tốt đẹp, thanh bình, hữu ích và thoải mái - cái cảm giác một ngôi nhà nên mang lại.”

Hãy từ tốn,trấn an chúng ta. Thực hiện từng bước một. “Sử dụng sân sau nhà bạn làm nơi phát triển các kỹ năng cơ bản.” Khi học cách làm chỗ ngủ ấm áp bằng vật liệu tự nhiên, “trước tiên hãy cố ngủ ngoài trời lạnh ở hiên sau nhà bạn, nơi bạn có thể rút vào phòng ngủ nếu cần và nghĩ xem chuyện gì không hay sẽ xảy ra nếu bạn buộc phải ngủ ngoài trời.” Chuẩn bị tinh thần để bắt đầu tìm kiếm thức ăn và nấu trên bếp lửa ngoài trời rồi chứ? Thử làm việc đó trong công viên địa phương trước đã rồi hẵng chuyển tới thực hiện tại một vùng xa xôi hẻo lánh ở Úc. “Bạn luôn có thể gọi bánh pizza nếu bạn lỡ làm khét khê bữa tối. Hoặc bạn có thể bắt đầu lại và làm đúng vào lần thứ hai hoặc thứ ba, mỗi lần một đạt hơn.” Quan trọng hơn cả, dù chi tiết có vẻ nhỏ nhặt ra sao, “Phải chú ý! Tôi phải mất tới ba năm rưỡi ở trong rừng mới nhận ra sự khác biệt to lớn khi ta có một cái bóng đèn dầu thật sự sạch tinh. Chẳng phải là trước đó tôi chưa từng lau bóng đèn dầu, chỉ là tôi chưa làm việc ấy đúng mức. Nhưng giờ khi giữ nó sạch tinh, tôi có thể thấy rõ hơn nhiều trong đêm.”

Eustace hứa hẹn rằng tất cả những gì bạn cần là thực hành, kiến thức thông thường, và chút nhiệt huyết vốn có của người Mỹ luôn sẵn sàng thử cái gì đó mới. Chuyên tâm vào nó, tin tưởng ở bản thân, rồi thì bạn và gia đình sẽ sớm được sống trong một “ngôi nhà ẩn náu giữa rừng thanh bình tuyệt diệu [như]” nhà của Eustace Conway.

Phần khó khăn nhất là việc học hành trường lớp cùng các hoạt động và chuyện viết lách tất tật kết hợp lại khiến cho chàng sơn nhân hoang dã bậc nhất này rất hay phải xa rừng. Ngồi trong một cái lều vải thì ta chỉ có thể làm được bấy nhiêu thôi. Nếu muốn dốc lòng thay đổi thế giới, ta phải dấn thân ra giữa lòng thế giới. Ta không được để cho bất kỳ cơ hội vận động nào trôi qua. Eustace nhìn thấy cơ hội vận động khắp mọi nơi, gần như đến độ làm sao nhãng. Anh viết trong nhật ký một quan sát đầy hạnh phúc vào một ngày tháng Giêng: “Sáng nay tôi rất vui khi trông thấy ngôi sao mai qua làn khói tỏa.” Nhưng anh vội thêm vào, “Tôi đang bắt tay thử viết một bài báo về cuộc sống trong lều vải cho một cuốn tạp chí.”

Anh đang gom góp nhiều trách nhiệm và cuộc hẹn đến độ anh thường xuyên đi xa khỏi ngôi nhà ẩn náu trong rừng mỗi bận nhiều ngày. Điều đó có nghĩa là bỏ lại người bạn gái và cũng là bạn đồng hành cũ Donna Henry trong lều vải hoàn toàn một mình gần như cả ngày, ngày nối ngày. Cô mới là người ngồi đó quan sát thiên nhiên trong khi chàng trai của cô đang bận dạy hoặc nghiên cứu hoặc nhảy múa tại một cuộc tế lễ nào đó hoặc được những người hâm mộ bao quanh, và cô đang cảm thấy càng ngày càng mất đi sự bình an tuyệt diệu trong tất cảy. Donna (người mà ngày nay thừa nhận cô chỉ biết trách mình vì đã không xây dựng một cuộc sống độc lập với người đàn ông mà cô tôn thờ) chẳng biết làm gì cho hết thời gian ngoài cố năn nỉ Eustace và trông nom cái lều vải khi anh đi vắng.

Và thỉnh thoảng khi gặp Donna, Eustace có thể rất gay gắt với cô. Tính cầu toàn khiến anh chẳng nhịn được. Anh có thể nổi đóa vì cô không hoàn thành hết công việc hoặc không biết làm bánh kếp cho đúng trên lửa hoặc không giữ bóng đèn dầu đủ sạch. Và anh quá bận rộn với các nghĩa vụ của mình nên không thể thường xuyên chỉ cho cô cách làm đúng mọi việc. Cô nên tự mình học lấy tất cả những thứ này. Cô nên biết chủ động!

Nhiều tháng trôi qua, Donna ngày càng cảm thấy cô luôn làm sai việc gì đó và những nỗ lực hết mình của cô sẽ không bao giờ đủ để làm vừa lòng con người này. Ngày nào cô cũng nơm nớp không biết sắp tới anh sẽ chỉ trích mình về việc gì. Và rồi, một chiều tháng Giêng lạnh lẽo cuối cùng cô không chịu đựng thêm được nữa. Hôm đó Eustace vào lều với mấy con sóc chết anh vừa tìm thấy ven đường. Anh quẳng chúng giữa đất và nói, “Làm xúp bằng mấy con này cho bữa tối nhé.” Rồi anh đi luôn vì đã muộn cho cuộc hẹn sắp tới.

“Giờ đây nhớ lại,” ngày nay Donna nói, nghĩ về câu chuyện ấy. “Cuộc sống này là mơ ước của anh ấy, tôi đang theo đuôi anh ấy và sống trong lều vải bởi vì tôi yêu anh ấy. Nhưng tôi không biết làm món xúp sóc. Nghe này, tôi là dân Pittsburgh phải không nào? Anh chỉ dặn tôi là giữ đầu sóc lại để không lãng phí tí thịt nào. Thế là tôi cố lóc thịt khỏi xương, đâu biết là cần phải luộc cả con vật để thịt rã khỏi xương. Tất nhiên, cầm dao thì khó lòng lóc được chút thịt nào. Nhưng tôi đã cố hết sức, để đầu lại trong món xúp và rồi chôn xương trong rừng phía sau lều vải. Khi Eustace về nhà và nhìn vào nồi xúp với những cái đầu sóc trôi lềnh bềnh, anh hỏi, ‘Phần thịt đâu cả rồi? Và phần xương còn lại ở đâu?’ Tôi kể lại anh nghe việc tôi đã làm, thế là anh nổi giận đùng đùng với tôi. Điên cuồng tới mức anh bắt tôi đi ra ngoài đó, giữa tháng Giêng, giữa đêm khuya, đào mấy cái xương sóc chết tiệt đó lên đưa cho anh để anh chứng minh tôi đã lãng phí bao nhiêu thịt. Rồi anh bắt tôi rửa sạch sẽ chỗ xương và nấu lên. Bốn ngày sau, tôi rời bỏ anh.”

Tròn sáu năm sau Donna và Eustace mới nói chuyện lại. Donna vùi mình vào nghiên cứu văn hóa thổ dân Mỹ. Cô chuyển tới sống ở một vùng đất dành riêng cho người da đỏ và kết hôn với một người Lakota Sioux, chủ yếu vì cô nghĩ anh ta sẽ là người thay thế Eustace. Nhưng cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Vì thương yêu Tony, cô vực bản thân dậy và bắt đầu cuộc sống độc thân. Cuối cùng cô lại kết hôn - lần này với một người tốt - khởi nghiệp một công ty xuất bản thành công và có thêm một đứa con.

Nhưng hai mươi năm sau, Donna vẫn yêu Eustace. Cô nghĩ trong một chừng mực nào đó họ sinh ra là để dành cho nhau, và anh thật ngốc vì đã không cưới cô. Bất kể “mối quan hệ tình cảm vô cùng quan trọng” cô chia sẻ với người chồng thứ hai (người đã hào hiệp chấp nhận cho vợ mình giữ gìn tình cảm bền chặt với người yêu cũ như một phần của Donna Henry) và bất kể nỗi lo sợ của cô rằng Eustace “không biết cách yêu, chỉ biết ra lệnh” cô tin cô được sinh ra trên trái đất này là để trở thành “người đồng hành xuất sắc nhất” của Eustace Conway. Và có thể chuyện của họ vẫn chưa kết thúc. Một ngày nào đó, cô nghĩ, cô có thể lại sống trên núi cùng anh. Trong lúc này, năm nào cô cũng gửi con trai tới trại hè của Eustace tại Đảo Rùa để học trở thành một người đàn ông.

“Eustace Conway là anh hùng trong mắt con trai tôi,” cô nói. “Tôi không biết liệu Eustace có khi nào có con không, nhưng nếu anh có những đứa con trong trái tim mình, Tony của tôi là một trong số đó.”

Còn với Eustace, anh có những hồi ức đẹp nhất về Donna, “vận động viên điền kinh thiên bẩm xuất sắc nhất mà tôi từng gặp - một người đồng hành vô cùng sung sức và giàu ý chí.” Cô ấy rất tuyệt vời, anh nói, và có lẽ sẽ trở thành người vợ tuyệt vời, nhưng khi ấy anh còn quá trẻ cho hôn nhân. Khi tôi hỏi liệu anh có nhớ vụ xương-sóc trứ danh không, (câu hỏi chính xác của tôi là, “Làm ơn nói với tôi thật ra anh không làm thế đi, Eustace!”), anh liền thở dài mà nói đó chuyện không những đúng là như vậy mà chính xác ra thì còn là kiểu chuyện lặp đi lặp lại trong suốt cuộc đời anh “hết lần này tới lần khác, với nhiều người khác nhau”. Giọng anh có vẻ vô cùng hối hận về điều đó, về những kỳ vọng cao chất ngất của anh về mọi người và về chuyện bản tính không khoan nhượng của anh đôi khi khiến cho người vốn dĩ tốt tự thấy mình không tốt ra sao. Rồi chúng tôi đổi chủ đề và kết thúc buổi chuyện trò.

Nhưng khi tôi về nhà tối hôm đó, tôi thấy lời nhắn của Eustace trong máy trả lời. Anh đang suy ngẫm về vụ xương-sóc và “không muốn nghĩ” là tôi không hiểu sự tình. Giờ đây anh vẫn nhớ chuyện ấy. Anh nhớ lý do anh buộc Donna phải đào xương sóc lên giữa đêm khuya là bởi đó là cơ hội tuyệt vời để anh dạy cho cô đầy đủ hơn về chuyện xử lý một bộ xương sóc thì phải làm sao cho

“Mà tại sao lại lãng phí chỗ thịt ngon tuyệt hảo chứ?” anh tiếp tục. “Và chuyện khi đó đang tháng Giêng thực ra lại là cái lợi cho chúng tôi, bởi vì nhiệt độ rất thấp. Điều đó có nghĩa là thịt sẽ được bảo quản tuyệt vời trong đất lạnh. Ngược lại, nếu khi đó đang giữa mùa hè thì có thể tôi cho qua rồi, bởi vì chắc chỗ thịt đã thối rữa dưới ánh nắng và bị giòi bọ bu đầy. Tôi hẳn đã cân nhắc về mọi lẽ và nhận ra thịt vẫn còn tốt và đây là cơ hội giảng dạy tốt thế nên tôi hẳn đã quyết định sẽ là rất hoang phí nếu cứ thế vứt chỗ thịt đi, hiểu chứ? Thế nên khi tôi yêu cầu cô ấy lấy lại chỗ xương, chỉ là tôi đang hành động hợp lý.”

Cuối cùng Eustace nói anh hy vọng kể ra như vậy thì giờ tôi hiểu rõ chuyện hơn, đoạn anh chúc tôi có một buổi tối vui vẻ rồi gác máy.

“Sơn Nhân thời hiện đại này đang cố chứng minh điều gì vậy?” một trong số rất nhiều nhà báo đến thăm đã hỏi khi tới thăm Eustace Conway tại lều vải trong những năm học cao đẳng ấy. Rồi anh ta trích một câu trả lời của Eustace: “Không gì cả. Hầu hết mọi người đều thích sống trong nhà xem ti vi rồi đi xem phim. Tôi thích sống trong lều của tôi và ngắm nhìn mưa hay tuyết rơi và lắng nghe ngôn ngữ của thiên nhiên. Nếu họ cảm thấy tiền bạc và chủ nghĩa vật chất là những phẩm chất chính của cuộc sống, làm sao tôi có thể phán xét họ được? Tất cả những gì tôi đòi hỏi lại là sự coi trọng tương đương dành cho cuộc đời tôi.”

Nhưng mọi chuyện không đơn giản thế. Eustace đang đòi hỏi nhiều hơn rất nhiều chứ không chỉ mỗi quyền không bị xâm phạm, được yên ổn một mình sống tách biệt khỏi con mắt phán xét của xã hội. Được để yên có thể là khá dễ - không trò chuyện cùng bất kỳ ai, không đi ra ngoài với công chúng, không mời cánh nhà báo vào nhà, không nói với thế gian tiếng mưa rơi lặng lẽ ra sao, và không viết những bài báo chỉ bảo cho mọi người cách thay đổi cuộc sống của họ. Nếu bạn muốn được yên thân, hãy vào rừng và ngồi ở đó, tĩnh tại và lặng lẽ. Như thế được gọi là trở thành một ẩn sĩ, và chừng nào bạn chưa bắt đầu gửi đi những lá bom thư, đây là một phương tiện cực kỳ hữu hiệu để tránh được mọi chú ý. Nếu đó thực sự là điều bạn muốn.

Nhưng đó không phải điều Eustace muốn. Điều anh muốn thì ngược lại những gì anh nói với tay phóng viên ấy: anh muốn mọi người đánh giá anh, bởi vì anh tin anh biết một lối sống tốt hơn cho tất cả người Mỹ, lối sống mà mọi người nên xem xét hết sức cẩn trọng ngõ hầu hiểu được chân lý trong mộng tưởng của anh. Anh muốn những ai xem ti vi và phim ảnh thấy anh sống như thế nào, đặt những câu hỏi về cuộc đời anh, chứng kiến anh mạnh khỏe và mãn nguyện ra sao, nghiền ngẫm thật nghiêm túc các ý tưởng của anh và thử thực hiện chúng. Anh muốn đến được với họ - tất cả họ.

Bởi vì đó là điều Người Mang Sứ Mệnh làm, và Eustace Conway vẫn luôn lưu tâm đến danh hiệu Người Mang Sứ Mệnh đó. Mẹ anh cũng vậy. Khi anh tốt nghiệp trường cao đẳng năm 1984, được vinh danh, bà Conway viết thư chúc mừng thành công của con và nhắc nhủ anh rằng áp lực hãy còn nguyên đó.

“Con vừa tới được một mốc quan trọng mới trong hành trình của mình - một cột mốc thành tựu phi thường từ quá trình lao động lâu dài và chăm chỉ,” bà viết. “Là người hiểu rõ nhất và đánh giá đúng đắn nhất về những hoàn cảnh con đã phải vượt qua để đạt được tấm bằng đại học với hai môn nghiên cứu chính, mẹ hoan hô và chúc mừng con với niềm tự hào và nể phục vô cùng! Nhưng hãy nhớ, học vấn phải là một quá trình không ngừng không nghỉ cho tới khi con lìa đời. Con vừa mới hoàn thành một chặng xây dựng nền móng vĩ đại - hy vọng con cũng tìm kiếm được cả sự hiền minh, thứ còn vĩ đại hơn tri thức. Mẹ cầu Chúa dẫn dắt, bảo vệ và ban phước lành cho con khi con tiếp tục hành trình trên trái đất tươi đẹp này. Người mẹ đầy tự hào và tận tâm của con.”

Thật ra Eustace không cần được nhắc nhở. Bản thân anh cũng đã nôn nóng lắm rồi. “Tôi muốn làm một điều gì đó vĩ đại, để cảm thấy tôi đã làm được, tôi đã tới nơi,” anh viết trong nhật ký.

Và anh càng trở nên bực bội trước những điều anh thấy. Một đêm nọ, có một vụ việc đặc biệt đáng buồn xảy ra: một nhóm dân quê địa phương đi xuống lều của anh mà hỏi liệu bọn họ có thể mượn của anh mấy viên đạn 5,56 li để kết liễu một con gấu mèo lớn mà họ dồn cho trèo lên cây ở trên rặng đồi sau chỗ Eustace đang sống. Có vẻ như bọn họ đã ra ngoài đi uống rồi đi săn và bù khú. Nhưng họ là những tay thợ săn cực kỳ kém cỏi, họ thừa nhận với Eustace, thế nên họ bắn con gấu hơn hai mươi phát mà chẳng giết được nó và buộc nó rơi xuống khỏi cây. Chắc chắn là con vật chết tiệt cứng đầu đã bị thương trên đó. Eustace có thể cho họ ít đạn để giúp họ kết liễu con vật khốn kiếp đó một lần cho xong

Eustace ghét mọi thứ trong cái cảnh này - tiếng chó sủa nhặng xị, tiếng súng ầm ĩ (“Nghe cứ như chiến tranh nổ ra ngoài đó,” sau này anh than thở trong nhật ký), sự vụng về của mấy gã đàn ông và sự coi thường của bọn họ đối với linh hồn con vật. Làm sao họ có thể bắn liên hồi một sinh vật còn sống như thể đó là cái bia nhựa trong trò chơi dịp lễ hội và rồi để nó phải chịu đau đớn trong khi họ luẩn quẩn loanh quanh suốt một tiếng đồng hồ để tìm thêm đạn? Và kiểu người ngu ngốc cẩu thả tùy tiện nào có thể bắn trượt tới hai chục lần? Vả chăng, tại sao anh phải đối phó với một bọn người đần độn xâm phạm sự riêng tư của anh lúc nửa đêm, khi anh đang cố sống lánh xa xã hội loài người?

Không nói gì về tất cả những mối phiền hà này, Eustace trở dậy, mặc quần áo. Anh chẳng có viên đạn 5,56 li nào, nhưng anh lấy khẩu súng trường nhồi thuốc súng và theo đám đàn ông cùng lũ chó đi trên con đường rừng sáng trăng tới chỗ cái cây. Chỉ một phát với khẩu súng cổ, anh đã kết liễu con gấu gọn ghẽ.

“Mãi đến khi lột da con gấu,” anh viết, “tôi mới nhận ra rằng vết đạn của tôi là cái lỗ duy nhất trên da nó.”

Đám người ngu ngốc đó thậm chí còn không bắn sượt qua con vật lần nào. Không một lần nào trong hai mươi phát bắn. Nhưng đám dân quê chẳng bận tâm. Tất cả những gì bọn họ muốn là bộ lông, thứ mà Eustace lột rồi đưa cho họ để họ có thể đem bán. Anh suýt khóc khi lột da con vật, và anh giữ chỗ thịt lại để ăn sau, nghiêng mình cảm tạ con gấu vì đã hiến dâng cuộc đời nó. Đám dân quê ấy không mảy may định ăn thứ thịt gấu kinh khủng đó.

Toàn bộ sự việc khiến anh đau khổ. Coi thường tự nhiên. Sự tham lam. Sự ngu ngốc. Sự phí phạm. Sự coi thường linh hồn của sinh vật khác, sự thiếu tôn trọng những quy luật của tự nhiên - tất cả làm Eustace phát ốm, bởi sứ mệnh trên trái đất của anh là bảo vệ những ý niệm cổ xưa về tính thiêng liêng vốn có của sự sống. Nhưng ta bắt đầu từ đâu được với những kẻ ít kinh nghiệm và thờ ơ đến như vậy? Những kẻ đem động vật ra làm trò tập bắn khi say rồi thậm chí không thèm lấy thịt nó?

“Trời đất ơi,” anh viết vào nhật ký. “Tôi phải làm gì đây? Họ chắc chắn sẽ cho tôi là một kiểu Adams Gấu[3] đồng bóng mê muội thiên nhiên nếu tôi cố giải thích cho họ

[3] James Adams “Gấu” (1812-1860): một sơn nhân nổi tiếng với tài huấn luyện gấu xám Bắc Mỹ.

Và đó là một điều nữa khiến Eustace buồn bực. Anh đang trở nên cảm thấy có phần chán nản vì bị xem như một kẻ lập dị, một dạng Adams Gấu đồng bóng mê muội thiên nhiên, khi mà anh còn có rất nhiều điều nữa để dâng tặng thế gian. Anh ngày càng đăm chiêu nghĩ ngợi hơn, và anh không còn cảm thấy mãn nguyện khi tự khâu quần áo cho mình hay khi đi săn bằng ống xì đồng. Anh đã sẵn sàng cho một điều gì đó lớn lao, một điều gì đó táo bạo hơn.

“Tôi cần một cái gì đó mới mẻ, tươi rói, sống động, náo nức,” anh viết trong nhật ký. “Tôi cần cuộc đời, sự thân mật, răng và móng vuốt. Sống động, chân thực, sức mạnh, nỗ lực. Có nhiều việc chân thực, làm ta thỏa nguyện và mãn ý để làm hơn là ngồi nói chuyện với một đám dân quê trì độn về cùng những thứ cũ rích ấy hết năm này qua năm khác. Tôi không muốn nói về chuyện làm việc này việc nọ, tôi muốn làm việc này việc nọ, và tôi muốn biết những thực tế, muốn biết những giới hạn của đời sống thông qua thước đo là những thực tế ấy! Tôi không muốn cuộc đời tôi vô nghĩa, không tạo nên được sự thay đổi nào. Mọi người vẫn nói với tôi suốt rằng tôi đang làm được rất nhiều, nhưng tôi cảm thấy mình thậm chí còn chưa bắt đầu. Chưa hề, tôi chưa hề! Mà cuộc đời thì quá ngắn, tôi có thể chết ngày mai. Mộng tưởng, chú tâm, trung tâm... gì chứ? Làm sao làm được? Phải làm gì? Có thể được chăng? Tôi phải đi đâu? Trốn chạy không phải là câu trả lời. Chỉ có một con đường duy nhất - sứ mệnh, sứ mệnh. Tin vào sứ mệnh.”

Nói cách khác, anh không thể thỏa mãn với việc ngồi trong lều vải làm giày da đanh và nghe mưa rơi. Và, nói về cái lều, anh không muốn dành cả phần đời còn lại để dời nó từ mảnh đất của người này tới mảnh điền trang của người khác. Tất cả những chỗ anh từng dựng lều đều đã bị bán đi trong sự bất lực của anh và phát triển thành khu dân cư ngay trước mắt anh. Thật khủng khiếp khi chứng kiến chuyện này xảy ra. Chẳng khác gì đứng trên một dải cát mà nhìn thủy triều dâng. Nơi nào anh có thể đến mà sẽ không bị tổn hại trước sự phát triển thương mại? Và anh vẫn muốn tiếp tục giảng dạy, nhưng theo cách của riêng anh và không nhất thiết là bốn lăm hiệu trưởng của bất kỳ trường công lập nào quy định cho anh khi anh tới viếng thăm hồi đó. Anh cần thêm thách thức, thêm quyền uy, thêm người anh có thể tiếp xúc. Anh cần thêm đất.

Nhiều năm sau, khi có ai hỏi Eustace Conway tại sao anh sống ở Đảo Rùa và dành quá nhiều sinh lực để giữ gìn hàng ngàn mẫu đất, anh sẽ đưa ra lời giải thích. Câu trả lời ấy cuối cùng đã trở thành một trong những đoạn văn hùng hồn nhất trong các bài phát biểu trước công chúng của anh.

“Có một cuốn sách tôi rất yêu thích khi còn nhỏ,” anh mở đầu, “tên là Trở về Rừng Bóng Mát. Nó viết về những con vật sống trong một khu rừng tuyệt diệu. Cuộc đời hoàn hảo, hạnh phúc và an toàn với chúng, cho đến một ngày những chiếc xe ủi xuất hiện phá tan nhà của chúng để làm đường cho con người. Chúng chẳng có chỗ nào để đi trong khi nhà đã bị phá hủy. Nhưng rồi một ngày kia bầy thú nhảy lên toa chở hàng của một con tàu đi về miền Tây. Khi đến đó, chúng tìm thấy một khu rừng mới, hệt như quê hương chúng đã mất và từ đấy tất cả bọn chúng sống hạnh phúc mãi mãi.

“Lúc nào tôi cũng có thể kể lại cuốn sách đó, bởi vì mọi nơi tôi từng sống đều đã bị phá hủy. Khi còn nhỏ xíu tôi sống ở Columbia, Nam Carolina, gần đất hoang, rừng rậm và đầm lầy. Rồi những tay chủ thầu tới cướp đi và phá hủy đất đai. Thế là gia đình tôi chuyển tới Gastonia, Bắc Carolina, ở đây chúng tôi mua một ngôi nhà nằm tiếp giáp với mảnh đất rộng hàng trăm mẫu có một dòng suối trong ngần tuyệt đẹp chảy qua. Tôi yêu khu rừng ấy. Tôi hiểu rõ về khu rừng ấy hơn từng hiểu rõ về bất kỳ nơi nào, bởi vì ngày nào tôi cũng ở trong ấy, chơi và khám phá. Tôi mê mảnh đất ấy suốt cả phần đời thơ trẻ của mình. Tôi xây các công sự, mở rộng các đường mòn, luyện tập để có thể chạy siêu tốc băng rừng và để lăn tròn khi không may bị ngã rồi bật dậy chạy tiếp. Tôi leo qua bụi cây và chuyền từ cành nọ qua cành kia, như Tarzan. Tôi biết kết cấu của các loại lá và độ ấm của đất. Tôi biết âm thanh, màu sắc và những cảm xúc của rừng.

“Thế rồi một ngày những cái cọc của người giám định đất đai bắt đầu xuất hiện khắp cả rừng. Tôi không biết mấy cái cọc ấy là để làm gì, nhưng tôi biết chúng xấu xa. Tôi biết đó là một sự xâm phạm tự nhiên, và hễ thấy những cái cọc xuất hiện ở chỗ nào là tôi lại cố nhổ đi. Nhưng khi đó tôi chỉ là đứa trẻ - làm sao tôi ngăn được chuyện ấy? Những tay chủ thầu xẻ khu rừng của tôi và từ từ xây lên khắp vùng ấy hàng trăm rồi lại hàng trăm ngôi nhà cho đến khi mảnh đất tôi yêu bị san bằng và dòng suối chỉ còn thứ nước ô nhiễm đặt tên vùng mới phát triển ấy là Rừng Gardner, nhưng đó là một sự dối trá. Chẳng còn chút rừng nào nữa. Rừng Gardner đã bị tiêu diệt. Thứ duy nhất còn lại của rừng là cái tên.

“Rồi tôi chuyển vào sống trong lều vải trên một mảnh đất của mấy người bạn nằm gần khu rừng cây lá rộng ở đồi Allen, và tôi sống ở đó cho đến khi những tay chủ thầu xóa sổ khu rừng để xây nhà. Rồi tôi gặp được một sơn nhân già ở Boone tên là Jay Miller, ông ấy cho tôi đặt lều trên mảnh đất vùng Appalachia tươi đẹp của ông. Tôi vô cùng yêu nơi ấy. Tôi sống trên sườn đồi Howard, một khu rừng còn đầy gấu, gà tây và nhân sâm. Có một con suối tự nhiên ngay ngoài lều của tôi, sáng nào tôi cũng ra đấy uống nước. Và ở đó đã thật tuyệt vời cho đến khi ông già Jay Miller quyết định chạy theo mãnh lực của đồng đô la, ông ta bán đất cho người ta khai thác gỗ. Rồi công ty gỗ đến đặt máy cưa ngay cạnh lều tôi - cái máy cưa ngày càng xích lại gần thêm khi họ hạ xuống mặt đất từng cái cây cuối cùng còn đứng ngăn giữa tôi và bọn họ. Tôi kết thúc năm cuối cao đẳng cùng thời gian đó, và tôi thực sự phải bịt nút tai để học thi, tiếng cưa thật quá sức ầm ĩ. Vào thời điểm tôi ra đi, khu rừng tôi đã từng yêu, nơi tôi đã có cuộc sống của mình và thức ăn và quần áo, chẳng còn gì ngoài một vùng rộng lớn trơ trụi gốc cây. Và con suối tuyệt đẹp nơi tôi thường uống đã trở nên bẩn thỉu tù đọng.

“Vậy tôi phải làm gì đây? Đó là khi tôi nhận ra bài học trong Trở về Rừng Bóng Mát chỉ là giả dối. Đó là một lời nói dối trơ tráo được tạo ra để trấn an trẻ con rằng luôn luôn có một khu rừng khác để dựng một ngôi nhà khác tại nơi nào đó ở miền Tây, chỉ ngay bên kia một ngọn đồi nào đó. Lời dối trá ấy bảo rằng máy ủi cứ xuất hiện cũng chẳng làm sao cả. Nhưng không phải chẳng làm sao cả, vậy nên chúng ta cần dạy bảo con người rằng đó là lời nói dối, bởi vì máy ủi sẽ cứ xuất hiện cho đến khi mọi cây cối biến mất. Chẳng có nơi nào là bình an. Thế tôi đã nhận ra điều đó khi nào? À, đó là khi tôi quyết định phải có một khu rừng của riêng mình và chiến đấu tới cùng với bất kỳ ai cố hủy diệt nó. Đó là câu trả lời duy nhất và là điều quan trọng nhất tôi có thể làm bằng đời mình trên trái đất này.”

Đã đến lúc đi tìm Đảo Rùa.

“Đất,” anh viết trong nhật ký của mình suốt những năm đầu thập niên 1980, như thể anh phải được nhắc nhở liên tục. “Tôi cần có đất. Đất! Tôi mơ về đất. Tôi muốn có đất. Tôi sẽ tận hiến cho đất.

Chú thích:

[1] Ralph Waldo Emerson (1803-1882) là nhà viết tiểu luận, nhà thơ, triết gia người Mỹ.

[2] Donna Reed (1921-1986): nữ diễn viên Mỹ từng đoạt giải Oscar. Bà đã giành giải Quả cầu vàng với vai diễn trong The Donna Reed Show, vào vai một người nội trợ luôn phải nỗ lực thoát ra khỏi sự vô vị, tìm kiếm công việc có ý nghĩa.