Chương 2
Ðứng trước cổng nhà ông Phan, tôi tự hỏi sẽ làm gì cho xong, cho hết cái phần thời gian còn lại của ngày. Tôi không chờ đợi Uyên, như cô đã hẹn tôi, mặc dù đôi mắt to đen, nụ cười mỉm chi, cái nốt ruồi duyên trên khóe miệng, cả cái dáng đi uyển chuyển của cô vẫn còn nguyên vẹn trong trí nhớ tôi.
Tại sao?
Có lẽ cái cảm giác ban đầu do sức hút của vẻ đẹp Uyên đang bị đẩy lui bởi cái ấn tượng mạnh mẽ của con người thời cuộc là ông Phan. Người ta nói sắc đẹp vốn là bạn đồng hành của dối trá và phản bội. Tôi không hoàn toàn tin như vậy. Nhưng ở Uyên, nhận xét ấy có phần đáng suy gẫm.
Ðêm xuống từ lâu trên những ngọn cây. Và ngôi biệt thự, nơi tôi vừa gặp gỡ những con người kỳ lạ vẫn còn sáng ánh điện.
Gió từ sông Saigon thổi luồng hơi lạnh len qua giữa những hàng cây chạy hoang trên những con đường vắng. Tôi cảm thấy gây gây ở sống lưng. Ðời sống tôi rối như một mớ bòng bong, giờ đây trong một quen biết mới, tôi thấy mớ bòng bong ấy chừng như càng rối ren thêm.
Tôi thả bộ dọc theo đường Lê Văn Duyệt. Phố xá vắng bóng người. Một vài chiếc xích lô máy chạy thục mạng như bị ma đuổi. Mấy chiếc xe nhà binh mui kín bóp còi inh ỏi trong một thành phố trống trải – âm thanh như lớn hơn và vang xa – càng làm tôi thấy mình như lẻ loi hơn.
Tôi chưa muốn về nhà. Không, tôi không muốn về lại căn phòng tối ám của tôi trên căn gác một chung cư. Với tôi, thời gian của đêm mấy lúc sau này sao quá dài, dài tưởng như vô cùng tận. Làm thế nào tôi có thể đốt hết cánh đồng cỏ khô của thời gian đăng đẳng này? Ðêm gặm nhấm tôi trong nỗi bứt rứt và chua xót thường trực của một người làm vườn thất bại. Người ta đâu thể phung phí cả tuổi thanh xuân trong việc trồng trọt vun xới cây thương yêu và tin cậy trên một mảnh đất – tưởng là màu mỡ – để chỉ gặt hái những bông hoa và trái cây của dối trá hận thù?
Tôi sợ những ý nghĩ lang bang của mình. Tôi sợ nghe chính tiếng chân tôi giẫm lên chiếc cầu thang bằng gỗ hơi dốc trong một chung cư dành cho những công chức hạng C, bủa quanh bằng sự nghèo nàn và bẩn thỉu.
Tôi sợ tiếng mưa ào ạt gõ vào thành cửa kính đã rạn nứt… Tôi sợ tiếng kêu rè rè của một chiếc máy thu thanh quên tắt khi chương trình nhạc đã chấm dứt. Tôi sợ chiếc cốc uống nước còn đọng dưới đáy cái màu vàng của xác trà bị bỏ quên nơi góc nhà…
Làm cách nào để rút ngắn được chiều dài của thời gian đe dọa dễ sợ kia? Ðến quán nước trên đường Tự Do, nơi sẽ có Tâm, Phùng, Nhật đang ngồi đấu láo bên những ly expresso nguội lạnh, nhạt nhẽo và chìm trong mịt mờ khói thuốc. Hay tấp vào cái quán nhậu ở đường Trần Quý Cáp, nơi sẽ có Ký, Nghĩa, Lộc ngất ngưởng giữa những chai bia và khóm ổi, cốc, xoài?
Nhưng hình như tôi đã suy nghĩ vớ vẩn. Chợ Ðũi nằm trên đường đến quán Cái Chùa, mà tôi thì đang lội bộ, việc gì phải tính toán vớ vẩn, phải không? Tôi đã có quyết định.
Chợ Ðũi vắng khách nhậu một cách kỳ lạ. Chỉ còn một bàn ở một quán gỗ nhỏ dựa sát cây me ở góc đường là có ánh đèn. Tất cả các bàn khác, ghế đã được xếp chồng lên trên. Ký, Lộc, Nghĩa là ba ông khách sau cùng trên chiếc bàn độc nhất kia. Trước mặt mỗi người là một ly bia. Dưới đất, quanh chân bàn la liệt những vỏ chai.
-A! Tên phá mồi đã đến!
Ký nhận ra tôi và anh la lên khi tôi đến sát bàn. Nghĩa ngó tôi cười cười một cách khó hiểu. Ðó là tôi nghĩ vậy. Nghĩa bao giờ cũng cười kiểu đó.
-Mồi hết rồi ông trời! Chỉ còn rượu thôi, ông trời nhậu được thì ngồi xuống đây!
Tôi tháo cà vạt nhét túi quần kéo ghế ngồi cạnh Ký, Lộc không nói gì, hắn đẩy ghế qua một bên, lảo đảo đứng lên, bước lạng quạng qua bên kia đường, thản nhiên vạch quần tiểu tiện dưới gốc me.
-Ê, cho mượn cái ly nữa chị Hai! Ký gọi.
Người chủ quán mang ly ra đặt trước mặt tôi và nói với Ký, giọng năn nỉ.
-Thầy hai, bữa nay đóng cửa sớm, thầy hai thông cảm nghen thầy hai?
Ký gạt ngang:
-Ðừng lo chị hai. Ðể tụi này tính cho. Không sao đâu mà!
Và anh nâng ly lên dừng ngang miệng, không uống:
-Ê, phá mồi! Ði đâu về mà ngon lành vậy?
-Chỗ ông Phan!
-A! Vậy mà tao tưởng mày không đi chớ!
-Thì cũng tính không đi. Nhưng…
-Thôi, dẹp! Nhưng nhị gì? Ông Phan chịu chơi không?
-Ai biết!?
-Vậy ăn nhậu gì mà tới?
Lộc trở về chỗ ngồi. Hắn lôi từ dưới bàn lên một chai bia lớn. Săm soi dưới ánh điện đường Lộc xuýt xoa:
-A! Trái thơm tụi bây! Có lý! Có lý!
Hắn dùng ngón tay cái bật cái nắp chai, rót đầy ly tôi và hắn:
-Ở đó rượu ngon không mậy?
-Ngon mà không ngon!
-Gì kỳ vậy?
-Không có bạn thì rượu gì ngon!
-Có lý! Có lý! Lộc vỗ đùi khen. Nhưng không để tôi nói, hắn hỏi tiếp:
-Vậy tới đó làm chi mậy?
Tới đó làm chi? Câu hỏi thật chí lý. Nhưng tôi đâu tới đó để uống rượu. Tôi cũng đâu tới đó để được bắt tay một ông lớn chịu chơi kiếm chút hơi hám quyền lực. Tôi tới đó giống như một người mắc bệnh tò mò muốn tìm xem có chút bí ẩn nào giấu sau cánh cổng của một ngôi nhà bỏ hoang. Và hình như tôi có được đôi chút thỏa mãn. Ông Phan soi chiếu cho tôi thấy đôi nét về cha tôi và về phần ông, ông cũng hé cho tôi thấy tầm mức của một quyền lực đang lớn.
Nhưng tôi có cần tìm cho mình một lời giải thích không? Tôi lảng sang một chuyện khác. Tôi hỏi Ký:
“Anh có nhớ bài Hồ Trường không?”
“Không!”
Tuy trả lời dứt dạt như vậy, nhưng liền đó Ký vung rộng tay đang bưng ly rượu làm sóng sánh nước bia vãi lên bàn.
“Hồ Trường! Hồ Trường! Ta biết rót về đâu? Rót về phương Ðông… ư… đếch nhớ!”
Ký đặt mạnh ly xuống bàn.
“Mà tại sao mày lại muốn nghe Hồ Trường?”
“Chẳng có lý do gì. Nhớ thì nhắc vậy thôi!”
“Ðể yên, tao sẽ đọc cho mày nghe một bài thơ khác. Ðồng ý?”
“Ðồng ý!”
Ký lại nâng ly lên, ngửa cổ tu một hơi. Xong anh cúi khom người xuống dưới bàn lôi ra một chiếc cặp da dầy cộm bị chôn giữa đám vỏ chai. Anh mở cặp, mò mẫm trong các ngăn đầy sách vở và lấy ra một cuốn tập. Anh dùng một ngón tay thấm nước bọt lật từng trang giấy. Nhưng anh lắc đầu. Ánh sáng ngọn đèn hột vịt không đủ sức soi rõ những chữ. Anh gập quyển tập lại, bỏ vào cặp, vất đại dưới chân bàn.
“Ðếch cần đèn! Tao đọc bằng trí nhớ cũng được. Này, tên phá mồi nghe đây!”
Ký lại đổ bia thêm vào ly, bưng ly lên và vung tay ra. Nước trong ly sóng sánh.
“Người con gái lội qua khe
“Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
“Nỗi niềm tưởng lại xưa sau
“Bàn chân với nước cùng nhau lại đè!”
…
“Tuyệt không? Thơ thế mới là thơ chớ! Tên phá mồi thấy thế nào?” Ký hỏi.
“Rất Bùi Giáng!” Tôi trả lời.
“Hay! Khá lắm! Phá mồi mà cũng biết được thơ của Trung Niên Thi Sĩ thì hơi lạ. Vậy còn bài này?”
Ký không đọc liền, anh rót thêm bia vào ly – đã tràn – bưng ly lên và vung tay ra. Nước trong ly sóng sánh đổ xuống mặt bàn.
“Em về mấy thế kỷ sau”
“Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
“Ta đi còn gửi đôi dòng
“Lá rơi có dội ở trong sương mù.”
“…”
“Sao?” Ký nhìn chăm chăm vào mặt tôi, dò hỏi.
“Chịu!” Tôi lắc đầu.
“Không biết à?”
“Thua!”
“Thế thì phá mồi kém thật!”
“Ai vậy?”
Ký đặt ly bia xuống bàn.
“Thì cũng là Bùi Giáng! Không hay à?”
“Không, không phải vấn đề hay hay dở”. Tôi chống chế. “Vấn đề là nó không có chất Bùi Giáng”.
Ký gật gù.
“Cũng được! Cũng được! Nhưng “dô” cái coi!”
Anh bưng ly lên và cụng vào ly tôi.
“Sao anh không đọc thơ anh?”
Bỗng dưng tôi hỏi Ký một câu lãng xẹt. Anh không trả lời. Tôi đã vô tình động mối thương tâm của anh. Còn nhớ có lần trong một bữa nhậu, cũng tại quán này, hôm đó có Nhật và Tâm, tôi đã nói với anh rằng tôi thích đời sống anh hơn là thơ anh. Và khi anh nghiêng tai về phía tôi yêu cầu tôi nhắc lại điều vừa nói, tôi nói rõ hơn: “Ðời sống anh thơ hơn là thơ anh!” Ký không giận, nhưng tôi thấy anh đang ồn ào bỗng trầm hẳn lại. Về sau Nhật trách tôi đã nói một điều không nên nói với một người bạn đặc biệt là Ký. Anh lớn tuổi hơn chúng tôi dễ chừng đến gần một giáp. Tôi nhớ hổi nhỏ khi anh tôi mang về những tờ tạp chí Ðời Mới, tôi có lần đã đọc thơ anh. Những bài thơ có vần có điệu nhưng chữ nghĩa là những gì có phần cũ kỹ. Cuối bài thơ dù có để tên anh hay một tên nào khác, tôi nghĩ cũng thế thôi. Có lẽ hồi đó tôi có thành kiến là ai làm thơ hay hơn Quang Dũng – thật ra thì tôi cũng nghe lỏm bõm được câu trước mất câu sau của nhà thơ này mà thôi.
(Em ở Thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt mấy lần quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì…)
Cho nên thơ không tỏa ra được cái chất Quang Dũng này là không thể yêu được. Vậy thôi.
Lớn lên đọc thơ anh, tất nhiên bằng một con mắt trưởng thành hơn, tôi thấy có cái gì đó không ổn trong chữ nghĩa và hình ảnh của thơ anh. Tất cả như sao chép lại từ nguyên bản. Rồi tôi quen anh vì cùng dạy chung một trường. Anh là một người ngang tàng. Anh uống rượu như Kiều Phong. Anh có một người vợ đẹp như A Tỷ. Anh sống bất cần đời. Khi chiều xuống là lúc anh say sưa và lúc đó đối với anh trời đất cũng chỉ là hạt cát.
Tôi biết là anh khổ sở vì câu nói của tôi.
Ðột nhiên Ký gạt tay ngang mặt bàn. Tất cả ly cốc đồ nhậu rơi dạt xuống thềm xi măng. Tiếng thủy tinh vỡ tung tóe.
-Dzô đi tên phá mồi! Ai biết uống rượu người đó biết thưởng thức thơ. Mày cố học uống rượu đi, nếu không mày vĩnh viễn đếch biết thế nào là thơ.
Khi tôi bưng ly bia lên ực một hơi lắc lắc cho những viên đá chạm vào thành ly, tôi bỗng nhe tiếng thắng gấp của một chiếc xe hơi lết bánh trên mặt đường. Và ào một cái, như sấm chớp, trước mặt sau lưng chúng tôi là những người lính cảnh sát dã chiến.
Một người dáng chừng là chỉ huy đưa tay ra trước mặt Ký nói:
-Ông cho xem căn cước!
-Không có thẻ căn cước! Ký bưng ly bia lên trả lời gọn.
-Ê, đừng giỡn mặt cha nội! Một người lính đứng phía sau nói vói qua vai người chỉ huy. Tôi nghe tiếng lên đạn lách cách.
-Cả mấy ông này nữa! Người chỉ huy chỉ tay vào Nghĩa, Lộc nói.
Tôi nhìn Lộc thấy hắn đã gục trên bàn, đầu gối trên cánh tay nhưng bàn tay vẫn còn giữ chặt ly bia. Nghĩa đã ngả đầu ra sau lưng ghế. Tôi mở bóp lấy thẻ căn cước. Một ngọn đèn pin bật sáng chiếu vào mắt tôi sau đó chuyển xuống tấm giấy chứng minh. Tôi nghe có người đọc tên tôi. Tôi nói:
-Xin mấy anh thông cảm. Ðám bạn tôi ngất ngư cả rồi!
Người chỉ huy đưa trả tôi thẻ căn cước, phất phất tay:
-Không sao! Không sao! Hỏi chơi vậy thôi. Tôi biết mấy ông quá mà!
Và quay sang người chủ quán đang đứng xớ rớ bên cạnh, người chỉ huy nói:
-Yêu cầu đóng cửa ngay! Chị không biết tin thiết quân luật à?
Chị chủ quán xoa tay, ấp úng:
-Xin mấy thầy thông cảm!
Tôi hỏi người chỉ huy.
-Xin anh cho biết giới nghiêm từ lúc mấy giờ?
-Mười một giờ! Mấy ông đã vi phạm hơn nửa giờ! Yêu cầu các ông trở về nhà ngay!
Tôi nhìn Ký, Nghĩa và Lộc, nói với người chỉ huy:
-Nhưng…
-Tôi hiểu! Tôi hiểu! Người chỉ huy ngắt lời tôi.
-Ông muốn nói mấy ông nội này quắc cần câu rồi chớ gì?
-Ðúng vậy! Tôi gật đầu.
-Bọn tôi sẽ chở các ông về nhà!
-Tôi sợ không tiện!
-Tại sao?
-Ông này ở tận Hàng Xanh – tôi chỉ Lộc; ông này ở tuốt Phú Lâm, Cây Da Xà – tôi chỉ Nghĩa; ông này thì ở Bùi Thị Xuân gần đây thôi – tôi chỉ Ký. Còn tôi, tôi ở Hồng Thập Tự, Ngã Sáu. Tôi đi bộ được!
-A! Người chỉ huy kêu.
-Thế thì rắc rối to. Bọn tôi còn nhiều việc phải làm, không thể đi tùm lum ở những vùng không thuộc phạm vi kiểm soát của tôi.
Ngừng lại một giây, người chỉ huy tiếp:
-Hay là… Hay là tôi sẽ đưa ông về nhà, còn mấy ông thần lưu linh này chúng tôi sẽ giữ tạm một đêm ở bót gần đây, mai về sớm!
-Cám ơn! Tôi ngập ngừng
-Tôi nghĩ là mấy ông bạn tôi cần tôi. Ðể cho tôi theo mấy ổng, cũng là tiện cho ông!
-Ðược thôi!
Người chỉ huy ra dấu cho những người lính xốc Ký, Nghĩa và Lộc lên xe. Lúc khiêng Lộc đặt lên chỗ ngồi băng sau xe nhà binh, tôi chợt thấy hắn nhếch mép cười. Chắc hẳn Lộc đang mơ thấy mấy con đầm nhảy điệu can-can của những ngày còn học ở Paris. “Comme au premier jour, toujours toujours…” Hắn hát nữa trời ạ! Những người lính bật cười.