← Quay lại trang sách

Chương 7

Căn nhà nhỏ nằm trên một quãng đường hẹp, sỏi đá lỡm chổm và bụi mù tung mờ mịt dưới bánh xe. Cổng là một khung gỗ có ràng kẽm gai bên ngoài, nhưng bên trong là một miếng tôn dùng che tầm mắt của người đi đường để họ không thể thấy được phòng khách. Rất tạm bợ. Sân tráng xi măng xù xì vì trộn quá nhiều cát. Giữa sân là một cây khế cành lá xum xuê. Cửa chính hẹp, nhưng phỏng khách tương đối rộng.

Chủ nhân là một nhà văn nữ. Truyện chị hiện đang được nhiều nhật báo giành nhau đi hằng ngày. Chị viết dễ dãi, lôi cuốn, nhiều tình tiết. Nhân vật chị yêu nhau dữ dội và nguyền rủa nhau không tiếc lời. Họ gần gũi với đời sống nhưng đó là một đời sống đã được cường điệu: một linh mục, một tín đồ, một cô giáo, một nam sinh, một mối tình tay ba, một tình yêu không lối thoát… Nói chung truyện chị rất ít tình ái và rất nhiều tình dục. Lãng mạn có phần lép vế trước xác thịt. Ghen tuông dằn vặt lấn át cả hòa thuận yên vui. Một vài nhân vật tự tử vì không lấy được nhau. Một vài nhân vật lấy được nhau nhưng bắt đầu chán nản và cả hai cùng ngoại tình…

Truyện chị đăng trên báo thì nhiều, nhưng hôm nay mới là ngày ra mắt cuốn sách đầu tay của chị.

Khách đến đã khá đông. Phần lớn tôi đều quen mặt biết tên. Phùng, vẫn đôi kính cận màu nâu nhạt, gọng to, vẫn giọng nói gấp gáp đuổi nhau từ tiếng này sang tiếng khác. Anh dạy học ở một tỉnh cách xa Sài gòn chừng vài mươi cây số, nhưng mới đây, Phùng nói, anh vừa nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về làm phụ khảo môn Triết Tây tại đại học Văn Khoa.

Nhật, sĩ quan chiến tranh chính trị, phóng viên chiến trường. Anh là người gây sôi nổi và được chú ý nhất trong năm qua với cuốn sách viết về trận chiến mùa hè ở Quảng Trị. Cái chết của người dân và người lính trải dài trên Ðại Lộ Kinh Hoàng gây cho người đọc một ấn tượng khủng khiếp khó quên. Nhật là một trong số những nhà báo xông xáo nhất, có mặt trên hầu hết những điểm nóng của chiến trường.

Tâm, khuôn mặt sạm đen, gầy như một Khô Khốc Thiền Sư, thở thuốc lá đen như ống khói nhà máy, uống rượu như hũ chìm, và là một trong những tay đổ bác thuộc loại “Paul Húc”. Anh cũng là một trong số ít nhà phê bình văn học có cái nhìn mới mẻ và sâu sắc về các tác phẩm văn chương hiện đại. Trong giao tế anh là người khó khăn, nhưng trong tình bạn anh là người cực kỳ chung thủy.

Gầy và mỏng hơn cả là Tâm là Ðình. Anh có mái tóc dài chải lật ngược về phía sau. Cặp kính cận đôi lúc hơi trụt xuống sống mũi, tuy vậy vẫn không che hết được nỗi hắt hiu của một đôi mắt lúc nào cũng như chực chờ để vĩnh viễn khép lại. Ðình là một trong những cây bút thời danh của Sàigòn kéo dài từ những năm sáu mươi đến nay. Văn chương anh mềm mại, chữ nghĩa anh xanh xao. Truyện anh là một tiếng thở dài buồn bã hắt ra từ niềm tuyệt vọng của một kiếp nhân sinh. Giọng nói Ðình phải chăng vì thế chan chứa sự quyến rũ của một cái gì sắp tan đi như mây khói. Trên đài phát thanh, chương trình nhạc chủ đề do Ðình viết, đọc, và giới thiệu thu hút một tầng lớp thanh niên có học, và phải nói là gây một ảnh hưởng khá lớn đối với giới trẻ. Tôi yêu cái tài hoa điệu nghệ của anh, nhưng thật tình mà nói, tôi sợ giống anh, ít ra là hai điều: bệnh tật trầm kha đang ngự trị trên một thân thể vốn quá gầy yếu của anh, và ngôn ngữ anh chứa đầy độc tố…

Nguyễn Giang, một khuôn mặt lớn trong đời sống âm nhạc của đám đông với mái tóc dài hơi xoắn, chiếc kính cận gọng nhỏ, nụ cười nửa miệng. Anh là cha đẻ của những ca khúc mà mỗi lời hát như một lời thơ.

Ngôn ngữ âm nhạc anh là bản lề giữa một bên là tiếng nói hằng ngày và một bên là suy tư triết học. Âm nhạc ấy được trình bày bởi một giọng hát lôi cuốn trẻ trung và đìu hiu: Mai Khanh. Tiếng hát của chị vang lên từ một trái tim hấp hối. Trong buồng ngực của chị như có ngọn lửa tàn bạo thổi nóng từng tiếng ngân, thắp sáng và mở rộng không gian của người thưởng ngoạn. Tôi nghĩ người ta đã nói không quá đáng rằng âm nhạc của Giang sở dĩ chinh phục được tim óc người nghe là nhờ tiếng ca ma túy của Mai Khanh và ngược lại giọng hát của Mai Khanh có được một chỗ đứng hàng đầu như cô hiện nay chính là vì tiếng hát ấy đã tựa được vào âm nhạc Nguyễn Giang.

Góc nhà chỗ đầu hồi, ngó ra cửa sổ, nơi lá của những cành khế thấp xuống, là một dương cầm. Con gái nữ chủ nhân đang chơi một khúc cổ điển quen thuộc của Beethoven.

Ghế ngồi của khách đặt sát vách tường. Giữa phòng là hai chiếc bàn kê gần nhau. Một bàn xếp những cuốn sách mới vừa in xong còn thơm mùi mực của nhà văn nữ. Bàn còn lại là thức ăn nhẹ và nước uống. Giữa là một bình hoa lớn. Những bông hồng nhung đỏ và vành tươi chen quanh những lá măng nhỏ cọng.

Người đến trễ giữa lúc mọi người đang ăn và sắp sang mục tặng sách là Tuấn-phở, Tuấn-luật sư. Hôm nay hắn ăn mặc khá đỏm dáng. Quần áo như đi dự dạ hội, râu mép, tóc dài, cổ choàng foulard đỏ màu huyết dụ. Vừa bước vào nhìn thấy tôi, Tuấn đã kêu to:

-A, Thăng! Vụ mày tới đâu rồi?

Tôi nhìn hắn cười, hỏi nghịch:

-Vụ gì?

-Còn vụ gì nữa! Có Bản Ðại Tự chưa?

Tôi vẫn muốn chọc hắn:

-Sao ông không nói toẹt ra là vụ ly dị cho nhẹ cái lỗ nhĩ có hơn không!

-Ừ! Thì cứ gọi là vậy đi! Thế nào?

Tuấn vẫn tỉnh bơ.

-Thế mà tôi định hỏi thăm ông đó. Ông ở tòa án chắc ông phải rõ hơn tôi chớ!

-Khỉ! Tao đâu có phụ trách hồ sơ mày! Ði mà hỏi luật sư của mày chứ!

Tuấn nói hơi to tiếng khiến mọi người gần như quay mặt hết về phía hắn. Hắn vẫn không để ý, vẫn ồm ồm cười nói lớn giọng. Liền đó, hắn xăm xăm tới bàn, rút một cành hồng vàng rồi đi thẳng tới nữ chủ nhân. Nhà văn nữ của những truyện tình thời thượng đang nói chuyện với nhà xuất bản, một thanh niên trẻ và làm giàu sớm, thấy Tuấn đến vội ngừng câu chuyện.

-Xin tặng người phụ nữ văn chương đẹp nhất Việt Nam một bông hồng vàng của David Lean!

-Tại sao David Lean! Chị hỏi.

-Vì David Lean là đạo diễn phim Doctor Jivago.

-Thế có liên hệ gì đến tôi cơ chứ?

-Có chứ!

-Ông chỉ được cái vớ vẩn!

-Vớ vẫn thế nào được. Thế bà chưa xem phim này à?

-Ðã. Nhưng sao cơ?

-Ðó là đoạn chàng Jivago bỏ nàng Tonia đang có bầu đứng giữa một vườn hoa vàng ở Varenkino để lên đường đi thăm người tình Lara của mình.

-Khiếp cái nhà ông luật sư này! Nữ chủ nhân hiểu ra và la lên.

Tôi bưng ly rượu đến gần chỗ Nhật. Anh là người nói nhiều nhưng hôm nay nhìn anh trầm ngâm trước ly whisky làm tôi ngạc nhiên:

-Bao giờ lại đi? Tôi hỏi.

-Cũng sắp!

-Nhà cửa hồi này ra sao?

-Khủng khiếp!

-Cái gì? Sao lại khủng khiếp? Tôi ngạc nhiên.

-Con vợ tao mày biết rồi chứ gì? Nó-hiền- như con cọp cái!

Nhật sôi nổi.

-Tại sao?

-Mày coi đây này!

Nhật vừa nói vừa cởi chiếc giày trận. Ngón chân út của anh đã mất, tuy vết thương đã lành nhưng lớp da chỗ đó vẫn còn đỏ hỏn.

-Tao chả hiểu khỉ khô gì hết! Tôi vừa nói vừa nhìn vào mắt Nhật.

Anh kể lại câu chuyện. Cách đây hai tháng về thăm vợ ở Biên Hòa là nguyên nhân về cái bàn chân bị mất ngón út của anh. Vợ Nhật là con gái rượu của viên đại tá công binh. Chị tên Lê, xinh đẹp và thông minh.

Ở tỉnh lẻ, Lê nổi bật như một thiếu nữ tân tiến. Chị đọc sách nhiều, đầu óc cởi mở. Tuy mới lớn, chị đã dám vượt khỏi khuôn khổ của lề thói mà con người sống trong tỉnh nhỏ thường vẫn tự trói buộc. Tôi không hiểu từ miền Trung xa xôi, Nhật đã gặp, quen và cưới Lê trong trường hợp nào, nhưng tôi biết nếu cuộc hôn nhân ấy thành cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy thỉnh thoảng gặp Nhật, tôi vẫn nghe anh thở than về cuộc sống của gia đình anh.

Là một sĩ quan Dù, Nhật chiến đấu giỏi, gan dạ và mưu trí. Những bài báo viết từ chiến trường của anh có tiếng vang lớn.

Chính những bài báo đó đưa anh từ Dù sang Chiến Tranh Chính Trị và làm phóng viên chiến trường. Cuộc sống nay đây mai đó của Nhật làm Lê khó chịu. Nhiều khi cả tháng anh lê la mấy quán nước ở Sài Gòn, lăn lóc chè chén với đám bạn bè. Tới hôm về thăm vợ chợt nhớ ra sinh nhật của Lê đã qua cách đây hai hôm. Nghe lời tôi, Nhật mua về một bó hoa hồng xin lỗi vợ, nhưng Lê một mực lặng thinh. Chị nhất định làm con ốc biển mặc cho sóng vỗ ào ạt lên bờ cát.

Tối hôm đó, khi Nhật bắt đầu “chiến tranh lạnh” trở lại, Lê lên tiếng. Ðến nửa đêm, khi thấy mình cứ lải nhải mà chồng thì cứ ngáy khò từ đời nào, Lê đập Nhật dậy bật đèn sáng cả nhà, liệng xuống sàn nhà tất cả ly chén cốc dĩa nào trong tầm tay, xong cầm cái dao lính của Nhật vẫn thường giắt lưng, đặt ngón tay trỏ của bàn tay trái mình lên bàn chặt phựt một cái.

-Mày biết không? Nhật tiếp,

-Tao điên lên vì tức, vì buồn ngủ, vì lo sợ. Nó muốn qua mặt mình, muốn dằn mặt mình. Tao nghĩ vậy, bèn giật con dao còn dính máu, đặt bàn chân này lên chỗ bàn ngủ, cứa mẹ cái ngón chân út này. Thế là huề.

-Còn mày? Nhật hỏi tôi.

-Ối! Tao còn tệ hơn mày nhiều!

-Tới đâu?

-Mày không nghe Tuấn-luật sư nói sao?

-Thì cũng mơ mơ màng màng vậy thôi. Nhưng sao có thằng nói mày sắp làm phò mã ông Phan?

Nhật làm tôi giật mình. Sao lại có cái cớ sự này?

-Ai nói? Tôi hỏi gặng.

-Thì tụi nó nói. Ðại khái là vậy. Thế nhưng còn em bé gì làm ở China Air Lines thì sao?

-Có sao đâu! Tôi chống chế.

Phùng mang một dĩa thức ăn đến chỗ tôi và Nhật.

-Ê, Thăng. Tình hình hồi này ra sao?

-Tình hình gì?

-Thì còn tình hình gì nữa? Tao muốn nói tình hình chính trị ở đây?

-Chính trị? Sao mày không hỏi thằng Nhật hoặc ông Ðình mà hỏi tao?

-Tin sốt dẻo bây giờ chỉ có mày là nhất. Tao sợ thằng Nhật hay ông Ðình rồi cũng phải đến hỏi mày mà thôi!

Phùng làm tôi tức cười. Bạn bè biết tôi là thằng không ưa chính trị. Trong đám đông có ai nói chiến tranh hay chính trị thì tôi luôn luôn là kẻ ngồi im câm miệng hến. Tại sao? Tôi cũng không rõ nữa. Có lẽ tôi là tên dốt chính trị. Ðằng nào tôi cũng là tên lơ tơ mơ về mặt này. Còn nhớ có lần Trọng, một bạn đồng nghiệp hỏi tôi rằng đâu là mối tương quan giữa chính trị và văn chương. Tôi trả lời hắn thẳng thừng văn chương và chính trị chẳng có ăn nhậu gì với nhau hết. Trọng, tất nhiên là không hài lòng về câu hỏi đó. Hắn chờ một câu ngược lại. Tuy vậy mặt hắn cứ lạnh như tiền. Thật ra, trước đó, hồi cùng thụ huấn chung tại quân trường Quang Trung, khi tôi được cử làm tờ báo cho Liên Ðoàn Khóa Sinh Dự Bị Sĩ Quan, Trọng có viết cho tờ đặc san một bài xã luận về cuộc chiến Việt Nam. Suốt bài, hắn lên án quân đội Mỹ và đồng minh là kẻ xâm lược, giọng điệu sặc mùi tả phái bởi vì bài báo ấy chỉ nhìn từ một phía nên không thể đi được. Hắn lạnh lùng nhìn tôi và nói:

-Rồi mày sẽ hối hận.

Tôi không hiểu ý nghĩa của lời hắn nói. Khi được biệt phái trở về nhiệm sở cũ, và cũng như Phùng, hắn được chuyển về làm phụ khảo cho môn Triết Tây tại đại học Văn Khoa Sàigòn, hắn viết và cho xuất bản một tập tiểu luận dưới nhan đề: “Cái chết của một nhạc sĩ.” Bài viết của hắn lập tức được đài Hà Nội đọc lại và gây một phản ứng dữ dội từ nhiều phía.

Thật ra, khi viết tập tiểu luận này, Trọng hoàn toàn đứng trên quan điểm duy vật biện chứng có cải đổi nhẹ đi một chút. Dù sao vẫn là lấy chính trị đè bẹp văn chương.

Tôi nói với hắn rằng nhìn ngắm một tác phẩm văn học nghệ thuật tiên quyết là nhìn ngắm bằng con mắt thẩm mỹ học trước khi nhìn ngắm dưới khía cạnh chính trị, kinh tế, xã hội hay đạo đức. Một cái nhìn văn chương có tính cách gượng ép và đàn áp như vậy là một cái nhìn cận thị trí thức, khiến cho người có đôi mắt ấy trở nên một quái nhân với “chiếc đầu” to nhưng “trái tim” teo.

Tất nhiên không ai chịu nổi một bài thơ ca ngợi trăng sao và tình ái đăng trên một tạp chí xuất bản tại thành phố vừa mới qua một trận thiên tai kéo theo cái chết của hàng chục ngàn con người và hàng ngàn gia đình không chốn nương thân. Cái thứ thơ thẩn ấy cũng nên đem chôn sống đi là vừa. Thế nhưng, tôi cũng không ưa những kẻ bạ đâu cũng bô bô cái miệng lập trường quan điểm. Những kẻ chuyên gán ghép để buộc tội kẻ khác, lên án kẻ này, người nọ, thường là những kẻ đang có trong cơ thể hắn đúng thứ bệnh tật đó, nếu không muốn nói hắn là kẻ yếu đuối và thiếu bản lĩnh. Cái điệu bộ trịnh trọng của bọn này làm tôi chết cười.

Phùng, hơn ai hết, biết rõ điều này nơi tôi. Tôi không hiểu tại sao bạn ta lại đặt cho ta một câu hỏi quái đản như thế? Tôi hỏi lại Phùng:

-Tại sao? Tao tưởng dạo này mày bắt đầu quan tâm tới đời sống chính trị rồi chớ?

Phùng vất mẩu thuốc hút dở xuống bàn – hắn luôn luôn làm như vậy dù trước mặt hắn có cái gạt tàn, bởi vì theo hắn cả cái xã hội này đã là cái gạt tàn lớn thì điếu thuốc hay tro thuốc bỏ đâu mà chẳng được.

-Nghe nói mày vẫn đều đặn trình diện ông Phan mà!

-Ðừng có móc bạn! Từ thì tao có gặp ông Phan. Nhưng đã sao?

-Ðó! Vấn đề là ở chỗ đó! Ông Phan không phải đang là người tạo thời cuộc sao? Không phải ông Phan đang chuẩn bị để làm người số một hay sao? Cái quyền lực trong tay ông Phan hiện chưa tới nhưng chẳng phải là một quyền lực “diều gặp gió” hay sao?

Nghĩ là tôi giận vì thấy tôi vẫn làm thinh, Phùng đùa:

-Chứng chỉ Triết Tây của cô Uyên do ông Phùng phụ trách, còn chứng chỉ Tình Yêu do ông Thăng đảm nhiệm nhé!

Nói xong, Phùng xô ghế đứng dậy, sửa lại gọng kính nâu tụt trên sống mũi, kẹp cuốn sách vào nách.

-Ðùa chơi tí, đừng cáu nghe bạn!

-Sư mày! Ðồ triết gia điên khùng!

-Thôi, để tao đến chào chủ nhân cái rồi dọt!

Phùng đi, nhưng Nhật vẫn không buông tôi:

-Tưởng mày cũng biết tí ti chứ!

-Biết gì? Tôi giả mù sa mưa.

-Thì tình hình chính trị chớ còn gì?

-Thế mày tưởng thằng Phùng nó nói thật hả?

Nhật cười cợt:

-Ðừng quên anh em nghe Thăng!

-Cái gì? Tôi hỏi lại và bật cười.

Bạn tôi thực sự là những tên đùa dai. Những lời chòng ghẹo của chúng làm tôi nhớ lại hôm gặp ông bà Phan. Ðó lần duy nhất tôi gặp ông Phan. Ông quá bận rộn đến nỗi câu chuyện mà ông hứa sẽ nói với tôi vẫn còn nguyên trong bóng tối. Tôi cũng không quên những câu hỏi của bà Phan trong bữa cơm. Bà tấn công tôi với mục đích gì? Tại sao Uyên bật lên tiếng kêu ở cuối bữa cơm? Có phải nàng muốn ngăn chận những câu hỏi kế tiếp của bà Phan? Và tôi làm sao quên được lần hôn Uyên. Ðôi môi nàng nóng bỏng nhưng còn do dự ngập ngừng và mái tóc dài của nàng che phủ mặt mũi tôi tỏa xuống một mùi hương kỳ diệu của một thân thể trẻ trung tràn trề nhựa sống.

Nhật chưa kịp trả lời câu hỏi của tôi, thì Ðình, Tâm đã cùng nữ chủ nhân kéo đến.

Nhà văn nữ chìa ly rượu trên tay cho tôi:

-Xin lỗi anh Nhật nhé! Tôi muốn mời anh Thăng thử chút Ngũ Gia Bì này!

-Bà ơi! Bà mời rượu thằng này chẳng khác nào mời thằng Tây húp nước mắm!

-Vậy là anh Thăng không biết uống rượu?

-Ðúng! Bà đưa cho tôi. Tôi mới là connoisseur chính cống! Nhật cầm lấy ly rượu.

-Anh Thăng không có ý kiến? Nữ chủ nhân hỏi.

-Ðừng hỏi ý kiến của một người không bao giờ có ý kiến! Ðình chận lời.

-Cám ơn! Tôi giật ly rượu trên tay Nhật và hớp một ngụm. Chất cay muốn xé cổ. Tôi chuyền ly cho Nhật. Anh ngửa cổ nốc cạn.

-Ngon tuyệt! Nhật chùi mép khen.

Nhà văn nữ hỏi tôi:

-Thế còn anh Thăng? Anh thấy thế nào?

-Cay! Với tôi, rượu không có mùi vị nào khác ngoài vị cay! Rất đắng cay!

-Nó đang đau khổ vì tình, nên rượu vào chỉ có đắng cay! Tâm thêm.

-Tôi có nghe chuyện tình của anh Thăng. Có lẽ tôi sẽ viết một truyện về anh, anh Thăng ạ! Nhà văn nữ hơi phô trương.

-Cám ơn lòng tốt bà chị. Tài năng như bà chị mà viết truyện tình của tôi thì phí phạm quá!

-Ðừng mỉa mai tôi, ông bạn! Rồi có lúc ông sẽ đọc truyện về ông trên những dòng chữ của tôi! Nữ chủ nhân không phải tay vừa.

-Chào!

Tôi ngồi lại một mình với Nhật. Tôi không biết làm gì. Mọi người chia ra từng nhóm nhỏ. Tuấn-luật sư vẫn là người to tiếng nhất. Tôi hỏi Nhật khi thấy anh thừ người trên ghế như đang lo nghĩ điều gì.

-Ông Phan là người như thế nào?

Nhật nhìn thẳng vào mắt tôi nghi ngờ. Có lẽ anh nghĩ là tôi hỏi đố anh. Tuy vậy sau cùng Nhật vẫn lên tiếng nói về ông Phan theo cách hiểu biết của anh. Theo Nhật, ông Phan là một tay hiếm hoi trong những người làm chính trị chuyên nghiệp.

-Một tay thủ đoạn, một kẻ tà đạo trong chính trường.

Nhật nói như vậy. Ông Phan tốt nghiệp khóa sĩ quan trường võ bị Dar-el-Beida năm mới hai mươi mốt tuổi, tham gia nhiều trận đánh trong quân đội Pháp. Khi Ðệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, ông mang cấp bậc trung tá. Người ta nói trong đoàn quân trở về tiếp thu Paris, ông Phan có mặt trong đội danh dự. Nhờ vết thương trong trận Normandie, ông Phan xin giải ngũ, xuống Toulouse mở một tiệm ăn Việt Nam.

Năm 1954, khi Pháp thua trận Ðiện Biên Phủ và Hà Nội rơi vào tay cộng sản, ông Phan sang lại tiệm ăn ở Toulouse cho một người đồng hương, trở lại Sài Gòn. Người ta thấy ông Phan có mặt trong những buổi tiếp tân quan trọng. Vai trò của người Pháp sắp hết trên bán đảo Ðông Dương, ông Phan là người biết rõ điều ấy, nhưng ông vẫn đi lại với Tướng Michel Nguyễn “có vợ đầm, quốc tịch Pháp và là con trai của Ðốc Phủ Sứ Maurice Nguyễn” trong chức vụ tổng Tham mưu trưởng quân đội. Ông Phan cũng liên hệ đến nhân vật Sáu Cận, người cầm đầu Bình Xuyên và tin tức báo chí còn cho thấy ông Phan dành nhiều buổi nói chuyện với Ðức Hộ Pháp… Sau cùng khi những khuôn mặt này không còn chỗ đứng trong chính trường miền Nam, người ta thấy ông Phan lui tới với ông Cương “em trai của vị tổng thống đầu tiên ở Việt Nam” và uống rượu với Ðại Sứ Hoa Kỳ Amberley. Người ta đồn lúc này bà An Hạ, vợ của ông Cương, là tình nhân của Tướng Trần, nhưng nguồn tin thân cận thì nói rằng ông Phan mới là người tình thực sự của người đàn bà lừng lẫy này. Khi bà An Hạ đi Pháp tẩy độc dư luận sau vụ tự thiêu của một hòa thượng, người ta thấy ông Phan có mặt bên cạnh bà đệ nhất phu nhân ở sân bay Tân Sơn Nhất.

Sau đó ông biến mất một thời gian. Người ta nói tổng thống Hoa Kỳ đón ông sang Mỹ ngay khi cử ông Fullerton, nhà ngoại giao và cũng là tay bỉnh bút cừ khôi của tờ Le Monde Diplomatique Pháp đến Việt Nam làm đại sứ.

Sự có mặt của ông Fullerton kéo theo sau đó sự sụp đổ của anh em ông Cương… ông Phan là người luôn luôn chứng tỏ mình là một nhà lãnh đạo nhà nghề. Ông không ngừng học hỏi nghệ thuật lãnh đạo và chủ nghĩa quyền thuật trong các tác phẩm lớn của nhân loại, điều mà trước kia do khả năng văn hóa kém đã không cho phép ông thực hiện được. Ông đã tự học – ngoài tiếng Pháp và tiếng mẹ đẻ – Anh, Tây Ban Nha và Hoa ngữ. Ông nói khá thành thạo tất cả những ngôn ngữ này. Châm ngôn của ông là -Si vis non vobis,- nghĩa là -ở với họ nhưng không theo họ.- Với một bề ngoài xuề xòa, ông Phan là người đòi hỏi kẻ khác nhiều đức tính mà không phải ai cũng có thể có. Ít ai đoán được ông Phan sẽ làm gì sau cái bắt tay thân mật và nồng nhiệt của ông. Ông luôn luôn rào đắp quanh ông những cạm bẫy. Ông muốn làm sụp ai kẻ ấy trước sau sẽ sụp. Ðiều đặc biệt cái bẫy của ông Phan là một khi đã sụp thì khó mà ngóc dậy được…

Nhật nói về ông Phan như nói về một nhân vật tiểu thuyết của anh. Sự mô tả của Nhật làm cho hình ảnh ông Phan trong tôi mỗi lúc một rõ nét hơn.

-Nhưng ông ấy có phải là một người giỏi không?

Nhật cười:

-Thế nào là một người giỏi?

-Ông Phan có phải là một chính trị gia giỏi không?

-Chính trị đòi hỏi thủ đoạn, liều lĩnh và máu lạnh. Ông Phan có đủ những thứ ấy!

Tôi ngó chăm vào mặt Nhật:

-Mày không ưa ông Phan?

Nhật cười giòn:

-Tại sao mày bắt tao ưa hay không ưa một người chẳng có liên hệ đến tao? Mày nên dành câu hỏi ấy cho chính mày mới phải!

Ừ, mà tôi yêu hay ghét ông Phan vậy? Có lúc tôi thấy tôi ghét ông, ghét cái khuôn mặt mập tròn của ông, ghét những ngón tay ú nhão rịn mồ hôi trong tay tôi, ghét cái hung bạo người ta nói về ông… Nhưng cũng có lúc tôi thích ông… Sự cố gắng cực kỳ khó khăn của ông để làm thành một con người khác. Một tình cảm vô thức nào đó trong tôi nói với tôi rằng ông là mẫu người mà tôi tìm kiếm, khát khao được gặp và đã tìm thấy. Dù sao tôi muốn chấm dứt câu chuyện về ông Phan.

-Thôi không phải nói chuyện ông Phan nữa!

Nhật cười:

-Bây giờ làm báo mà không nói về ông Phan thì coi như không biết làm báo!

Tôi đứng dậy, trả ly rượu trên bàn, đột nhiên nhận ra suốt buổi chiều hôm nay mình đã không đốt một điếu thuốc nào. Tôi hỏi Nhật:

-Mày còn thuốc?

Nhật đang vò bao thuốc không trên tay giơ lên cao cười cười.

-Thiệt là vô duyên. Tôi nói:

-Thôi về đây!

-Chưa về được đâu! Nữ chủ nhân chận tôi:

-Phải nghe anh Giang hát một ca khúc mới nhất của anh ấy đã! Cái ông Thăng này!

-Ngồi xuống đây đi ông nội! Nhật đè vai tôi xuống.

Người ta đã mang cây tây ban cầm ra cho Giang. Tôi thấy anh sửa lại gọng kính đang bị tụt xuống sống mũi. Anh so dây, đầu cúi thấp, nhưng mặt hơi nghểnh lên, tai trái nghiêng xuống thùng đàn lắng nghe âm thanh phát ra từ những sợi dây đồng.

Cả phòng bỗng im lặng.

Âm nhạc anh làm tôi nhớ Quỳnh, vô cùng nhớ Quỳnh…

Nhưng những gì Nhật vừa nói về ông Phan làm tôi lo nghĩ hơn. Nỗi ám ảnh về con người ấy to lớn đến nỗi tôi thấy mình như đang bị bạn bè cô lập. Có thật là ông Phan muốn gặp tôi? Có thật là giữa ông ta và tôi có một mối liên hệ nào đó và ông đang rất muốn gặp tôi? Sự thật tôi muốn gì nơi ông?