← Quay lại trang sách

Chương 9

Thế nào, lạ chỗ cháu có ngủ được không?”

Bà Phan ngồi đúng vào cái ghế bà đã ngồi hôm trước. Bên trái là Uyên đang loay hoay với cái lọc cà phê phin chưa chịu nhỏ một giọt nào.

“Cám ơn bác. Cháu ngủ không biết trời trăng gì hết!”

Uyên đẩy ly cà phê về phía tôi, cười:

“Hôm qua anh về đến nhà đã say khướt thì làm sao còn biết trời trăng gì?”

Tôi say ư? Tôi thật tình không rõ lắm. Sau khi dọn về nhà ông Phan tôi ngồi suốt buổi với Ký, Nghĩa, và Lộc ở Chợ Ðũi? Tôi uống khá nhiều. Lần đầu tiên tôi làm được một lúc tám chai 33. Tuy vậy còn lâu tôi mới theo kịp Ký. Anh ấy uống thoải mái, từ tốn, thong thả. Hết chai này rót chai khác, không nhanh hơn, không chậm hơn. Ðối với anh, thơ và tình yêu mới là đời sống. Rượu chẳng qua chỉ là men cay để cuộc đời còn chút ý nghĩa. Anh nói vậy nhưng không có rượu anh rất khổ sở. Tôi không nhớ mình đã nói gì trong bữa nhậu, tôi chỉ biết rượu và là tôi buồn ngủ. Tôi đã ngủ ở quán hồi nào và ai là người đưa tôi về, tôi không nhớ.

Tôi thấy bà Phan nhìn chăm vào mắt tôi.

“Cháu không nên uống nhiều. Rượu không tốt đâu!” Và bà đưa cho tôi mấy tờ báo phát hành chiều qua.

“Cháu đọc tin trang nhất này. Ông nhà tôi vừa mới đi buổi sáng, âm thầm và bí mật như vậy mà buổi chiều báo chí đã loan tin và có ảnh ngay. Khiếp thật!”

Tôi nhấc riêng từng tờ, liếc qua những bài tám cột. Quả thật là tin ông Phan đi Mỹ chiếm hàng đầu trên các trang nhất. Tờ nào cũng đưa bản tin và bình luận na ná như nhau? Tại sao ông Phan ra đi? Sự vắng mặt của ông trong tình thế này có nghĩa gì?

Thông điệp nào ông mang theo trong chuyến đi đầy khó khăn kia? Trên tờ Sóng Thần, ngoài bản tin là bức ảnh chụp ông Phan đang nâng ly nói chuyện với viên Tổng Lãnh Sự người Pháp trong một buổi tiếp tân của Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ. Tôi thấy đôi mắt nhỏ của ông Phan dưới lớp kính trắng nhíu lại, gò mà hóp nhô xương. Tôi nhận ra đúng cái vẻ mặt ông mà tôi đã thấy trong buổi nói chuyện sáng ngày hôm kia. Ðó là một khuôn mặt ưu tư, trầm ngâm và hoài nghi.

“Thưa bác, chuyến đi của bác trai sẽ kéo dài trong bao lâu?”

“Ông nhà tôi dự trù hai tuần. Trên đường về sẽ ghé Paris đôi ngày thăm một vài bạn chiến đấu cũ của ông hiện là nghị sĩ trong Quốc Hội Pháp.”

“Bác có thể cho cháu hỏi một câu tò mò?”

“Cháu tự nhiên!”

Bà Phan ngừng khuấy ly nước cam, nhìn tôi chờ đợi.

“Cháu không hiểu bác có cảm tưởng gì khi làm vợ một chính khách như bác trai?”

“Cảm tưởng à?” Bà không nhìn tôi, mắt ngó vào khoảng không, bàn tay cầm thìa bất động. “Một người đàn ông nhiều tham vọng chính trị sẽ rất ít tình yêu cho gia đình!” Ngưng lại một giây, bà nhìn mắt tôi, tiếp “Không, ý bác muốn nói thế này, người đàn ông có tham vọng, bất luận là loại tham vọng nào, đều dành cho vợ con một chỗ rất nhỏ trong trái tim họ. Cháu thấy sao?”

Tôi hỏi bà, nhưng chính bà đặt ngược lại tôi. Tôi có phải là người đàn ông nhiều tham vọng không? Không, tôi chỉ là một người đi trên mây. Trái tim tôi bao giờ cũng có thừa chỗ cho tình yêu gia đình, nhưng gia đình thì hình như không có chỗ nào dành cho tình yêu tôi.

Thấy tôi ngần ngừ, Uyên vừa đưa kem tươi cho vào cà phê tôi vừa nói:

“Thưa me, con nghĩ anh Thăng phải là một người tham vọng”, và quay sang tôi, cô nói “anh uống xem có phải cà phê Uyên pha ngon hơn cà phê của mấy cái quán anh vẫn đến không?”

“Sao cô biết tôi là một người tham vọng? Tôi hỏi.

“Còn sao nữa! Chính anh nói mà!” Ðôi mắt Uyên tinh nghịch.

“Khó hiểu! Thật là khó hiểu!” Tôi bẻ một miếng bánh có bôi bơ lạt cho vào miệng.

“Cháu đừng quan tâm cách nói năng của Uyên. Nó là chúa bốc đồng đấy!” Bà Phan cầm chiếc khăn ăn thấm thấm môi.

“Thưa me, me đừng bênh anh Thăng. Chính anh ấy nói thật mà!”

“Hồi nào, ở đâu?” Tôi đùa.

“Anh có thể quên, nhưng Uyên có trí nhớ rất tốt. Cuộc đời một thiếu nữ khởi đầu bằng tình yêu và chấm dứt bằng hôn nhân. Còn cuộc đời của một thanh niên khởi đầu bằng tình yêu nhưng chấm dứt bằng một tham vọng.” Nếu Uyên không lầm, chính anh đã nói câu này trong một lớp tối, cách đây chừng bốn tháng!”

Ðúng là Uyên có một trí nhớ rất tốt. Nhưng đó không phải là câu nói của tôi. May sao bà Phan cắt ngang:

“Uống cà phê đi cháu. Cháu còn thiếu thứ gì cho bác biết nhé!”

“Cám ơn bác, cháu đã đủ”.

Bà quay sang con gái:

“Uyên nhớ lo cho anh Thăng những gì anh ấy cần! Con có để ý mấy cái cúc áo anh ấy không? Gớm dạy học gì mà áo nào cũng đứt một nút ở cổ!”

“Mẹ không phải đơm cúc áo cho anh ấy, con thấy lúc nào anh ấy cũng để áo hở cổ mà?” Bà Phan phì cười.

“Còn sách báo? Cháu đọc gì mà lắm thế?”

Quả là như vậy, đồ đạc tôi đâu có gì ngoài mấy cuốn sách. Quần áo không quá bộ thứ ba. Giầy một đôi. Dép một cặp. Hình như thời còn đi học tôi khá hơn bây giờ nhiều. Uyên kêu than vì đống báo tôi cứ phải bê xuống bê lên cầu thang không biết bao nhiêu bận. Khi đã cho tất cả vào thùng xe, Uyên nói.

“Thế mà cũng gọi là dọn nhà đấy! Nhà có gì đâu mà dọn. Chỉ là dọn sách báo thôi. Ðể Uyên mở một hàng sách nhé!”

Chú Tư tài xế nhắc:

“Còn bức tranh vẽ cô Uyên trên tường?”

Suýt nữa tôi quên. Bức tranh ấy Quỳnh dặn tôi nhớ mang theo. Sáng hôm sau ở nhà ông Phan ra, tôi đã đến gặp Quỳnh ở sở làm. Tôi kể lại cho cô nghe những gì ông Phan đã cho tôi biết. Quỳnh hơi mỉm cười không mấy tin một câu chuyện như thế.

Cô nói:

“Tiểu thuyết quá! Nhưng – Quỳnh tiếp – anh cũng không nên coi thường. Ông Phan là cây dù của anh trong lúc mưa to gió lớn thế này. Ðến ở hẳn trong nhà ông, theo em, không phải là một giải pháp toàn hảo, nhưng cứ nghĩ đến sự an toàn của anh, em xin anh cứ tạm thời là như thế!”

Quỳnh không hề nhắc đến Uyên, người mà cô biết chắc là tôi sẽ phải giáp mặt hằng ngày dưới một mái nhà. Quỳnh nói lần này cô sẽ không dọn nhà giúp như mấy lần trước, nhưng “đừng quên mang theo bức tranh của em, có nó anh sẽ nhớ em!”

Căn phòng bà Phan dọn cho tôi khá rộng, thoáng. Cửa kính trong suốt, màn vải dầy màu kem, máy điều hòa không khí mát lạnh. Một kệ sách bằng gỗ cẩm lai đẹp và nhã. Bàn viết lớn, ghế xoay. Giường trải ra trắng tinh, nệm, gối chăn đều mới. Một dàn máy nghe nhạc tối tân, một chồng dĩa mới nhất. Một ngọn đèn đọc sách trên bàn ngủ cạnh đầu giường. Cửa sổ chỗ đầu nằm mở ra một lối đi trải sỏi và cây mận lớn chùi nhánh lá qua mấy chấn song.

-Một con mọt sách đáng ghét! Uyên kêu lên.

-Uyên! Ðể im cho me nói chuyện với anh Thăng. Rồi quay sang tôi, bà tiếp:

-Có cháu ở đây tự nhiên tôi cảm thấy nhà cửa khác hẳn ra. Tôi có cảm tưởng như mình vừa có thêm một đứa con trai!

-Cám ơn bác! Bà Phan làm tôi cảm động thật sự.

-Này nghe tôi dặn, có đi chơi đâu nhớ trưa về ăn cơm nhé!

-Thưa bác, có lẽ cháu sẽ về muộn. Xin bác cho phép cháu tự nhiên!

-Cẩn thận nhé, ông nhà tôi trước khi đi có nhắc là đừng để cháu ra ngoài nhiều!

-Cám ơn bác, nhất định cháu sẽ không về khuya!

Tôi đứng dậy sau khi đã uống hớp cà phê cuối cùng.

-Xin phép bác!

-Kìa, anh Thăng! Anh đi đâu vậy? Uyên kêu lên, mắt nhìn tôi dò hỏi.

-Tôi có chút chuyện.

-Uyên đi theo được không? Cô hỏi tôi nhưng mặt quay về phía bà Phan.

-Uyên! Bà Phan nghiêm khắc. Nhưng khi thấy con gái xịu mặt, bà tiếp giọng dịu lại.

- Con gọi chú Tư đánh xe đưa anh Thăng ra phố, nhân tiện con ghé bác Phán trả hộ me chiếc vòng cẩm thạch nhé!

-Vâng, thưa me! Giọng Uyên vui hẳn lên

-Ði, anh! Cô nắm tay tôi lắc lắc thúc giục. Tôi chần chừ.

-Thưa bác, xin cám ơn bác. Nhưng cháu lung tung lắm. Ðể cháu đi cái Lambretta của cháu cho tiện!

-Cháu ngại à? Ừ, thì tùy cháu!

Bà Phan đẩy ly nước cam qua một bên, mở trang trong của tờ báo, cúi xuống đọc chăm chú.

Uyên theo tôi xuống sân. Khi tôi vừa cho máy nổ, cô đã ngồi sau yên, tay đặt lên vai tôi:

-Sao anh hấp tấp vậy? Sợ trễ hẹn hả?

-Hẹn ai?

-Làm sao Uyên biết được. Nhưng Uyên theo được không?

-Sao không? Nhưng cô muốn đi đâu?

-Anh đi đâu Uyên theo đó.

Tôi cho xe chạy qua Phan Ðình Phùng, đường mát dưới bóng cây. Một chiếc xe nhà binh vút qua bay lên những tiếng hát trầm hùng. Tôi vòng xuống Nhà Thờ Ðức Bà, dừng xe trước cửa Bưu Ðiện mua một gói thuốc lá. Tôi phóng nhanh, Uyên ôm chặt tôi cười khúc khích nhột ở cổ.

-Cười gì vậy?

-Ðừng dọa Uyên. Uyên không sợ tốc độ đâu!

Tôi cho xe chạy nhanh hơn, bỏ đường Duy Tân, phóng như bay trên những con lộ vắng. Ðường Gia Long với vòm me lá xanh mướt chạy dài đến cuối là nhà thờ Saint Paul gợi ta cái cảm giác đang đi trên một hành lang. Ðường Nguyễn Du có trường Quốc Gia Âm Nhạc tắm nắng dưới những hàng cây cao ngó xéo bên phải là tòa đại sứ Nam Hàn. Ðường Lê Quý Ðôn với những ngôi biệt thự xinh xắn, mái ngói đỏ, vườn cây xanh, sân trải sỏi.

Ở một ngã tư, đang chạy tôi chợt giật mình, đèn đỏ bất ngờ, tôi đạp chân thắng gấp. Uyên ôm chầm lấy tôi.

-Chết khiếp! Anh chạy ẩu quá trời!

-Sợ hả?

-Không bao giờ!

Uyên ôm chầm tôi, những ngón tay cô bấu trên vai tôi.

Ðèn xanh. Tôi lượn lại một vòng Nhà Thờ Ðức Bà. Nắng lóa mặt đồng hồ trên cao. Ðường Tự Do mát, hẹp và nắng. Ðến quán Cái Chùa, tôi chậm chậm, Uyên thúc hông kêu chạy tiếp. Tới Givral tôi rề rề.

-Thôi anh, Uyên không vào đâu, bạn anh ông nào ông nấy dễ sợ thấy mồ!

-Vậy muốn đi đâu?

-Hoàng Gia!

-Cô ghiền trà Hoàng Cúc à? Không sợ lựu đạn cay sao?

-Sao? Chứ anh không thích trà Hoàng Cúc sao?

-Thôi. Hay là mình đi về đi?

-Về làm chi?

Uyên nhổm người lên nói sát vào tai tôi.

-Ông mát rồi, ông ơi!

Ðến đầu đường Nguyễn Huệ, tôi tấp vào một quán bán hoa.

-Một chục bông hồng cho người tên Uyên!

-Cho Uyên? Cô ngạc nhiên.

-Chưa bao giờ nhận hoa của đàn ông tặng à?

-Chưa bao giờ!

-Thật không?

-Thật một trăm phần trăm!

-Vậy tập nhận một lần cho quen!

-Cám ơn anh. Rồi sao nữa anh?

Uyên hỏi khi tôi đã cho xe chạy.

-Về nhà!

Tôi nhớ Quỳnh. Tôi hình dung cô đang ngồi trong sở giữa những giấy tờ và lịch chuyến bay của hãng. Phía sau lưng Quỳnh, chiếm trọn tấm vách là tấm bản đồ lớn với chi chít những đường bay của hãng CAL đến các thủ đô trên thế giới.

Bàn đối diện Quỳnh là Châu Khả Tú. Cô bé người Hoa này là một đồng nghiệp rất gần gũi Quỳnh. Cô hiểu mối liên hệ giữa Quỳnh và tôi. Và chúng tôi cũng biết đôi điều về cô Tú. Cô xinh đẹp, nói tiếng Anh giỏi, tế nhị và khả ái. Tôi thường gọi cô là Miêu Khả Tú, tên một diễn viên điện ảnh Tàu đang ăn khách. Cô yêu Trí, một thanh niên Việt Nam, nhưng ba cô, một thương gia có máu mặt ở Chợ Lớn, cực lực phản đối. Ông kéo cả gia đình đứng về phía ông. Anh chị của Tú và các đứa em cô đều phản đối mối tình Hoa-Việt kia. Trí nhà nghèo, tính bộc trực, học giỏi. Anh không chịu được phong cách chủng tộc của ông cụ nhà Tú, nên không bao giờ anh đến thăm gia đình người yêu. Cả hai chỉ gặp nhau ở các quán nước và đôi khi đi ăn cơm với chúng tôi.

Chính sáng hôm qua khi nghe tôi nói chuyện đổi chỗ ở, Tú tỏ vẻ không đồng ý. Cô nói với Quỳnh, chị coi chừng anh ấy sẽ vào bẫy bà Uyên. Quỳnh đã cười nói, “Em biết anh Thăng đa cảm, nhưng em tin, rất tin anh ấy!” Khi Quỳnh hỏi tôi cần gì để cô lo, tôi đã trả lời, “Cần em! Rất cần em!” thì Quỳnh ngó chăm xuống tấm bản đồ đường bay trên mặt bàn. Mãi một lúc sau cô ngửa mặt lên “Nhưng anh đâu để em lo cho anh!” Quỳnh cười, chiếc răng khểnh làm tôi bối rối. Tôi nhớ Quỳnh. Tôi nhớ mái tóc cơ thơm mùi cỏ của dầu gội đầu, nhớ mùi da thịt lôi cuốn, nhớ mắt long lanh tình ái khi hai chúng tôi gần nhau, nhớ giọng bướng bỉnh, nhớ tiếng kêu ư ư trong cổ họng…

Tôi nằm yên trên giường trong căn phòng sáng sủa tiện nghi. Tôi nhìn bức tranh của Quỳnh trên vách. Tôi ngó ra cửa sổ, cành mận len qua chấn song. Có phải tôi là người tù sung sướng trong một chiếc pháo đài mà không viên đạn nào có thể xuyên qua? Hay tôi là người tự do đi tìm quyền lực? Liệu có phải vì Uyên mà tôi đến đây? Hay chỉ là cái cớ để tìm lại dấu vết của cha tôi.

Ngày đầu tiên của một người đi trên mây trong căn nhà quyền thế sao mà thừa mứa thời gian và trống rỗng đầu óc đến thế!