← Quay lại trang sách

Chương 17 Lời Kết

dịch giả: trọng khiêm

Chương 17

lời kết

ả cuộc đời sống trong thế giới tình báo là một sự pha trộn giữa vinh quang trong lúc thành công, khốn khổ khi công trình không được ghi nhớ và công việc tầm thường hàng ngày trong bất cứ văn phòng hành chính nào trong đó công việc chính thường là chuyển đạt những thông tin không hay cho những vị chủ nhân chính trị. Tôi không nghĩ các chuyên viên cao cấp mà chúng tôi đương đầu trong Chiến tranh Lạnh cảm thấy có sự thay đổi gì nhiều trong cuộc sống của họ, ngoại trừ sự việc là phía của họ đã thắng. Cuộc đời của tôi không những được ghi ấn dấu do vai trò của tôi trong những cuộc chiến bí mật của Chiến tranh Lạnh nhưng còn chứng kiến những lạm dụng quyền lực nhân danh lý tưởng xã hội chủ nghĩa, một lý tưởng cho đến nay tôi vẫn theo đuổi. Tôi luôn nhận được cảm hứng và cố gắng gây cảm hứng cho cơ quan của tôi từ những mẩu chuyện của những điệp viên tiền bối đã sinh ho ạt trước chúng tôi. Truyền thống này thúc đẩy những sĩ quan của tôi và các điệp viên ở hai bên biên giới, nhưng vẫn luôn có một câu hỏi ám ảnh. Trong thời gian Hitler cai trị nước Đức và đe doạ thế giới, những anh hùng như Richard Sorge, Harro Schulze-Boysen và Leopold Trepper đã chuyển những thông tin báo động về những kế hoạch quân sự của Đức; nhiều mạng sống có thể được cứu vớt nếu những cảnh báo này được lưu ý, tuy nhiên Stalin đã không thèm để ý đến.

Thảm cảnh của những vị này là họ phục vụ cho một chế độ không chấp nhập những đầu óc biết phê phán và chỉ có một người quyết định và phán quyết tất cả. Một chế dộ không cho phép bất đồng ý kiến cũng thường bỏ qua những thông tin không theo luồng chính thống. Và đó cũng chính là chế độ cuối cùng đã hình thành nên nước Cộng hoà Dân chủ Đức, một chế độ cũng không chấp nhận bất đồng chính kiến và những đầu óc phê bình. Richard Sorge Harro Schulze-Boysen Leopold Trepper Vào những năm cuối, tôi tìm cách liên lạc với những người sống sót của tổ chức Rote Kappelle (Dàn hoà tấu Đỏ). Những chi tiết về tổ chức này tôi dễ dàng thu thập được trong những tài liệu phát hành ở phương Tây hơn là trong văn khố của chính Bộ chúng tôi. Mielke lưu giữ những tài liệu về thời Quốc Xã dưới quyền kiểm soát của cá nhân ông tại một ban đặc biệt của Cục Điều tra, và tôi cố gắng đến mấy cũng không tham khảo được những tài liệu này. Tôi muốn biết làm cách nào những vị này với quá trình hoạt động và tư tưởng chính trị khác nhau đã xả thân mình để kháng cự Hitler. Họ đã thắng được những nỗi e ngại, nỗi lo sợ bằng cách nào? Căn nguyên của sức mạnh nội tâm họ lấy ở đâu ra để lội ngược thuỷ triều và chiến đấu chống lại chế độ toàn trị và hung bạo?

Những vấn đề đạo đức như vậy cũng như trách nhiệm lịch sử của những cá nhân này đã phần lớn rơi vào lãng quên không được sách báo nước CHDC Đức chú ý đến. Chúng tôi đã từng tham gia Chiến tranh Lạnh làm việc ở một mức độ kém cao thượng hơn những người đối kháng chế độ Quốc Xã. Nếu việc tường thuật cuộc đời tôi chứng minh được một điều gì, đó chính là gi ới hạn của sự thành tựu của ngành tình báo. Chúng tôi có thể nhìn lại công trình của chúng tôi với lòng thoả mãn không phải vì chúng tôi đã lật đổ được phía bên kia mà chính vì lý do trái ngược. Các cơ quan tình báo đã đóng góp cho nửa thế kỷ hoà bình – một nền hoà bình lâu nhất châu Âu chưa từng có – bằng cách cung cấp cho các lãnh đạo quốc gia một phần nào an tâm là họ không bị phía bên kia đột kích.

Các cấp lãnh đạo chính trị ở cả hai bên, những vị khách hàng của chúng tôi, không mấy khi chấp nhận điều này. Lòng can đảm phải có và những nhục nhằn phải chịu đựng để thu thập những thông tin này không liên quan gì đến ý nghĩa của chúng. Theo kinh nghiệm của tôi, hiệu quả của một cơ quan tuỳ thuộc rất nhiều vào quyết tâm của những người nhận những thông tin này, quyết tâm để ý đến chúng khi chúng đi ngược lại với định kiến của họ. Vấn đề ở đây là số người giới hạn có quyền thường xuyên tiếp cận những báo cáo này và phương cách họ lấy quyết định. Vì họ bị tràn ngập thông tin nên họ có ít thời giờ để tiêu hoá, bộ máy thư lại vận chuyển những dữ kiện này đến họ đóng một vai trò then chốt trong phẩm chất các quyết định họ cuối cùng chọn lựa. Thông thường có một bức tường bí mật giữa hệ thống thư lại này và các cơ quan tình báo, và trong thời gian tôi đương nhiệm những cơ hội tham khảo rất hiếm hoi để biết được điều nào cần thiết. Cuối cùng kết quả của công trình làm việc công khai và bí mật của các đồng nghiệp của tôi nằm trên một số rất giới hạn bàn giấy, phần lớn được lựa chon do ngẫu hứng của Mielke.

Trong một xã hội độc đoán, những sai lầm phán đoán trên thực tế không thể nào tránh được. Những cuộc thảo luận của Bộ Chính trị trong Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức thường thoái hoá thành một cuộc chay đua theo hình thức, tốn kém thời giờ. Trong những buổi họp hiếm hoi tại Bộ Công an, độc thoại dài dòng của Mielke thường được nối tiếp bằng những cuộc thảo luận về những chuyện tầm thường và những vấn đề hời hợt và vô bổ. Các nước dân chủ phương Tây hình như cũng không tìm ra được phương thức giải quyết vấn đề tương tự trong việc đánh giá ý nghĩa của tình báo. Thảm bại tại Vịnh Con Heo là một minh chứng hùng hồn về vấn đề này. Quyết định tiến hành cuộc mạo hiểm vô vọng này được một cơ quan tình báo hải ngoại tồi dở chiều theo mộng tưởng của các chính trị gia đần độn trình lên Tổng thống Kennedy. Tại Tây Đức, những báo cáo của cơ quan tình báo BND trình lên văn phòng Thủ tướng thường bị phần lớn những người nhận chúng tại Bonn coi như một mớ giấy lộn, theo sự hiểu biết của tôi. Helmud Schmidt, trở thành Thủ tướng sau vụ gián điệp của Guillaume và thường phải nhức đầu với những vụ khác tương tự trong thời gian ông làm việc, đã có lần phát biểu lời bình luận gay gắt nhưng có tính chất tiêu biểu với Michael Kohl, đại sứ nước CHDC Đức tại Bonn. Ông Schmidt nói: “Anh nên ngưng những điệp vụ khốn nạn này. Dù sao đi nữa anh cũng chẳng hiểu biết gì hơn với những thông tin rác rưởi này. Chúng nó toàn là những tin cũ rích. Cả hai bên chẳng có bên nào thu thập được những thông tin quân sự mà họ thực sự cần đến… Những bí mật thực sự quan trọng đã được cả hai nước Hoa Kỳ và Liên Xô bảo vệ cẩn thận. Lấy tiền chi phí cho điệp vụ là điều không cần thiết và chỉ tổ làm cho các cơ quan tình báo cảm thấy mình quan trọng để xác minh tài khoản và duy trì mức độ nhân viên của họ”.

Tuy nhiên, cơ quan BND vẫn nằm dưới quyền điều khiển trực tiếp của vị Thủ tướng, và ông và người đổng lý văn phòng là những vị khách thường xuyên của bộ tư lệnh BND ở Pullach. Trong nhật ký của tôi, năm 1977 tôi nhận định những cơ quan tình báo là “những sinh vật có cuộc sống riêng của nó. Cho dù chúng tôi có thâu thập được hay không những tin tức xác thực và hữu dụng, danh tiếng của chúng tôi có một ảnh hưởng nào đó. Mọi người đều biết không có một sự kiện nào hoặc một công tác nào có thể giữ kín lâu dài được. Chỉ điều này không cũng có tác dụng để bảo đảm hoà bình và để cam kết những nghĩa vụ quốc tế phải được thực thi”.

Tiết mục này nghe như có vẻ tự bào chữa và có thể dễ dàng tạo nên cảm tưởng là tôi đáng giá quá cao sức mạnh và ý nghĩa của những thông tin do cơ quan của tôi cung cấp. Nhưng tôi vẫn thường hoài nghi giá trị của công việc của tôi, đặc biệt vào thời gian trùng hợp với những ngày lễ ăn mừng của quốc gia tôi. Ngay lập tức sau ngày kỷ niệm thành lập nước CHDC Đức năm 1974, tôi có viết: “Bàn về sự cần thiết của cơ quan tình báo, ngoài câu hỏi cui bono (có lợi cho ai?), câu hỏi những gì họ làm có cần thiết hay không luôn trở lại mỗi lúc một dồn dập hơn. Và ai trong chúng tôi, những người trong cuộc trung thực, có thể trả lời được mà không suy nghĩ chính chắn? Vấn đề không những liên quan đến các cơ quan tình báo – quân đội cũng nuốt chửng hàng tỉ ngân khoản quốc gia. Hơn nữa, hầu hết những tập giấy do NATO sản xuất và được đóng mộc ấn “vũ trụ” hoặc “tối mật”, khi quý vị đọc kỹ, chúng không đáng để dùng làm giấy vệ sinh”. Có những lời phê bình khác so sánh những sinh hoạt của chúng tôi giống như trò chơi trẻ con – điệp viên KGB rình rập điệp viên CIA, rồi CIA cùng với BND, với Mossad hoặc cơ quan tình báo Anh cùng nhau theo dõi KGB. Một trong những người phê bình nói: “Để làm chuyện này, các cô gái điếm ngủ chung với các nhà ngoại giao, đầu mũi nhọn ô dù có tẩm thuốc độc, và những cô thư ký phương Tây lỡ thời được những chàng phong mã Đông Âu tán tỉnh. Không có một quốc gia nào trên thế giới có thể tồn tại mà không cần đến cơ quan tình báo. Công việc chính của phần lớn các cơ quan béo phì này là gây khó khăn lẫn nhau. Người Đức, trong một đất nước bị chia đôi, đã nâng công trình này lên hàng quán quân, hết thắng lợi này sang thắng lợi khác với giá trả quá đắt”.

Đối với người ngoại cuộc, thế giới tình báo đôi lúc có vẻ như phi lý, những sinh hoạt của họ may mắn lắm là những trò chơi vô nghĩa và tệ hại lắm là những trò chơi vô đạo đức. Nay Chiến tranh Lạnh đã chấm dứt, giá trị của họ được cân phân với những phí tổn khổng lồ một cách rộng lớn hơn, công khai hơn và khẩn trương hơn bao giờ hết. Cơ quan CIA được đặc biệt ưu ái vì đã tiêu dùng hàng tỉ dollars mà không tiên đoán được sự suy sụp nội bộ của Liên Xô và đã bị một tên nằm vùng xâm nhập và phá hoại toàn bộ mạng lưới tình báo trong lòng Liên Xô. Tôi nghĩ là bộ máy khổng lồ của cả hai bên có thể cắt giảm ít nhất đi một nửa mà không mất đi hiệu quả. Tuy nhiên, phải công nhận là vào thời đại vệ tinh và tin tặc xâm nhập mấy vi tính, con người phải sử dụng tình báo bằng kỹ thuật mặc dù là chi phí không rẻ, các điệp viên bằng xương bằng thịt không thể nào thay thế hoàn toàn được. Kỹ thuật chỉ có thể diễn giải tình hình vào lúc đó; những vệ tinh tối tân nhất không thể tìm ra những kế hoạch bí mật, những lựa chọn và những yếu tố cần phải cân nhắc khác. Hơn thế nữa, việc kết nạp và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao không tuỳ thuộc vào tầm vóc của đội ngũ cán bộ tại bộ tư lệnh. Trái lại tôi cũng nhận chân con số gián điệp thượng thặng của các quốc gia tỉ lệ nghịch với kích thước bộ máy thư lại. Tôi làm việc với nhãn quan này trong cơ quan của tôi, đối nghịch với chính sách thịnh hành tại những ban ngành khác trong Bộ Công an. Sau cùng đội ngũ của họ lên đến tám chục ngàn nhân viên, một chuyện không thể hiểu được trong một quốc gia nhỏ có mười bảy triệu dân và cuối cùng cũng chẳng giúp ich gì cho sự tồn tại của nó. Tôi luôn chống cự với luật của Parkinson (Parkinson: Work expands to fill the time available =Công việc được trải rộng để bù đắp vào thời gian sẵn có). Khi tôi rời bỏ nhiệm sở tình báo hải ngoại năm 1987, đội ngũ nhân viên có đến ba ngàn người, nhưng sau đó một ngàn người được bổ sung vào trước khi nó bị giải tán bốn năm sau – tất cả thời gian này cũng chỉ để điều khiển cùng một số điệp viên ở phương Tây. Những điệp viên này lên đến một ngàn người tại Liên bang Đức trong thời gian mười năm cuối, và chỉ hơn một phần mười điệp viên này là những nguồn tin quan trọng.

Vì vậy cho dù các cơ quan tình báo không thể thiếu vắng, kích thước của chúng có thể giảm xuống rất nhiều nếu nhiệm vụ của họ được xác định rõ ràng. Họ chắc chắn cần thiết trong công tác phòng chống khủng bố và băng đảng mafia buôn ma tuy đang xuất hiện trên khắp thế giới và sự hợp tác là điều thiết yếu trong việc hạn chế bành trướng vũ khí hạt nhân. Nhưng xem ra các điệp viên của chính phủ không đóng một vai trò hữu dụng nào trong các điệp vụ kỹ nghệ vì chính các công ty cũng đã thiết lập cơ quan của họ để tìm tòi bí mật của đối thủ cạnh tranh. Nhưng điều tôi lo ngại nhiều hơn là nếu các cơ quan mật vụ - vốn phi dân chủ vì bản chất của nó - không giảm thiểu số nhân viên, chính quyền luôn luôn có khuynh hướng ngay cả tại những nước dân chủ rình rập và kiểm soát công dân của mình. Không cần phải diễn giải nhiều, mật vụ đương nhiên được dùng để khống chế quyền công dân tại các quốc gia phi dân chủ như nước Cộng hoà Dân chủ Đức, nhưng việc kiểm soát những cơ quan tình báo ngay cả với luật pháp dân chủ rất là khó khăn nếu không muốn nói là không thực hiện được. Bản chất của các nhân viên điệp báo giới hạn tối đa và thường ngăn ngừa không cho phép những loại tiết lộ phân giải trách nhiệm trước quần chúng – quả thực đây có lẽ là điểm then chốt. Ngay cả những uỷ ban giám sát, giới hạn trong một số nhỏ được lựa chọn trong số dân biểu quốc hội, như chúng ta thấy ở Quốc hội Đức hoặc Quốc hội Hoa Kỳ, cũng không có khả năng chọc thủng màn bí mật. Những chuyện dài về những xì-căn-đan tại tất cả các nước dân chủ nghị viện là một bằng chứng. Bao lâu còn có những xung đột chính trị và các lực lượng võ trang nói là để sẵn sàng giải quyết chúng, không có một quốc gia nào không cần đến một cơ quan để do thám ý định và khả năng của đối thủ tiềm lực. Trong những điều kiện hoàn hảo nhất, những nghị viện dân chủ và các chính phủ chỉ có thể cố gắng giám sát xem họ thi hành nhiệm vụ đã phân định mà thôi. Nhưng cuộc chiến trong bóng tôi sẽ vẫn tiếp tục. Cuộc chiến này, cho dù kết quả có ra sao đi nữa, không phải là một trò chơi. Nó xảy ra trong thực tế và sẽ chuyển hoá thành những năm tháng tù tội, phá huỷ những sự nghiệp và có thể đòi hỏi sinh mạng. Đây là một giá phải trả cao để có được thông tin, nhưng thông tin này không thể định đoạt đường hướng chính trị của một nước và chỉ có thể ảnh hướng đến nó mà thôi. Vào cuối cuộc đời của tôi trong ngành tình báo, tôi phải tự hỏi xem cái giá đó quá đắt hay không.

Tôi kết thúc việc xét xử tôi tại toà án Düsseldorf với lời tuyên bố như sau: “Ở vào tuổi bảy mươi, quý vị có thể tự hỏi giá trị của cả một cuộc đời ra sao. Danh từ “phản bội” đã được nêu lên nhiều lần (trong vụ án này), và tôi tự hỏi có thể nào trên thực tế tôi đã phản bội những nguyên tắc đạo lý mà tôi hằng ấp ủ trong suốt cuộc đời của tôi, những nguyên tắc mà gia đình tôi, bạn bè tôi và những ai tôi tìm cách noi gương vẫn hằng trân quý. Tôi biết chúng tôi thường xuyên lỗi lầm, chúng tôi đã phạm nhiều lỗi lầm trầm trọng, và quá nhiều lần nhìn nhận sai lầm và những nguyên do gây nên sai lầm khi đã quá muộn. Nhưng tôi vẫn trung thành với những lý tưởng và những giá trị đã dìu dắt chúng tôi trong cố gắng muốn thay đổi thế giới”.

Khi kể chuyện đời tôi, tôi hy vọng cho mọi người thấy rõ là tôi không bao giờ chủ tâm phản bội lý tưởng của tôi, và vì vậy tôi không thể nào có cảm giác đời tôi không có mục đích. Tôi cũng như rất nhiều bạn bè và những người cùng thời, không sống vô ích, cho dù những quyết định của chúng tôi đôi lúc xem ra đáng ngờ vực, cho dù chúng tôi có gây nên những vết thương đau đớn – cho chính chúng tôi và cho người khác. Khi tôi nghĩ đến những ngày thiếu thời của tôi ở Liên Xô, hình ảnh xuất hiện đầu tiên trong trí óc không phải là những tội ác của Stalin hoặc việc thoả hiệp với nước Đức Quốc Xã, nhưng là những kỷ niệm của một cuộc sống trong thời chiến. Chiến tranh thế giới II là một biến cố hệ trọng đối với đời sống của hàng triệu người, và may mắn thay đó là một cuộc chiến chấm dứt Đệ Tam Quốc Xã. Làm thế nào một người đã từng chiến đấu chống lại đám người hung bạo của Hitler lại có thể xem mình như một kẻ phản bội nước Đức? Những đóng góp của chính bản thân tôi và của gia đình tôi trong cuộc chiến này có thể là nhỏ bé, nhưng dù sao đi nữa tôi cũng hãnh diện về việc này. Tôi cũng có cùng một cảm giác về những cố gắng của tôi sau cuộc chiến nhằm quảng bá và làm cho thế giới nhận chân những nguyên uỷ của chế độ độc đoán Quốc Xã, những tội ác khủng khiếp của nó đối với nhân loại, và sự hiện hữu của những cự đảng viên Quốc Xã trong cơ cấu quyền lực của Tây Đức. Hình bóng to lớn của Hitler là một trong những lý do toi chấp nhận ý định làm việc cho một cơ quan mật vụ. Đây không phải là phản bội. Nếu có phải bỏ qua những hệ luỵ của chế dộ Quốc Xã và cuộc chiến đấu của chúng tôi chống lại nó vì sợ hãi nó, tôi cũng lấy làm vinh dự chỉ vì tôi đóng góp trong việcduy trì trạng thái quân bình của châu Âu, một trạng thái đã có lúc căng thẳng và lạnh lẽo nhưng đã cuối cùng tránh được một điều không thể tưởng tượng được – nhưng cũng có thể xảy – chiến tranh hạt nhân.

Nhưng niềm hãnh diện này đã bị giảm thiểu. Bao lâu tôi còn nhu cầu kêu gọi đánh giá công minh nước Cộng hoà Dân chủ Đức, và bao lâu tôi muốn nhấn mạnh đến nguồn gốc chống phát-xít, tôi không bao giờ muốn coi nhẹ khía cạnh lịch sử đen tối của nó. Tôi biết nước CHDC Đức đã làm rất nhiều điều sai trái, trong đó việc đàn áp chiếm một số lượng khủng khiếp. Tôi biết tôi có một phần trách nhiệm về việc này. Tôi là một bộ phận của chế độ, và nếu người ta tấn công tôi (như họ thường làm) như thể tôi là lãnh tụ quốc gia, như thể tôi có quyền kiểm soát tuyệt đối trên hết mọi sự việc xảy tại nước CHDC Đức, trong trường hợp này đây là một điều mà tôi sẽ phải gánh chịu. Kể từ những biến cố quan trọng năm 1989, tôi đã tự hỏi nhiều lần tại sao nước Cộng hoà Dân chủ Đức đã thất bại một cách thảm não và ngoạn mục như vậy. Tôi đã tự hỏi không biết là tôi đã chờ đợi quá lâu để lớn tiếng nói lên những gì tôi thực sự suy nghĩ và cảm nhận. Không phải vì thiếu can đảm mà vì tính chất vô bổ của những lời phản đối trong suốt quá trình lịch sử của nước CHDC Đức đã khi ến cho tôi phải tĩnh lặng. Đã quá nhiều lần tôi đã chứng kiến những lần phản kháng mãnh liệt chỉ đi đến việc gia tăng đàn áp và tước bỏ quyền tư duy độc lập hơn nữa. Tôi tin rằng những cuộc thương thuyết kiên trì và bình lặng cuối cùng sẽ hiệu quả hơn trong một nước mà mọi thảo luận công khai sẽ bị bóp nghẹt vì giới lãnh đạo xem ra quá kích động và bất an để hành xử một cách tế nhị.

Tôi nghĩ sai chăng? Có thể như vậy nhưng không may chẳng còn cách nào để trở lại quá khứ và hành động cách khác. Tôi thường nghĩ đến, nhất là khi tôi ở cùng với một trong mười đứa cháu, một lá thư cha tôi viết cho em tôi vào năm 1944. Ông khuyên em tôi đừng bao giờ tự gò hãm việc bày tỏ ý kiến của mình. Nay tôi xin thêm vào câu này điều quan trọng là có can đảm tranh đấu cho ý kiến của mình nếu cần, ngay cả khi đối đầu với đàn áp. Tôi đã học được bài học là cá nhân mình phải biết tôn trọng lối suy nghĩ của người khác và không bao giờ ép buộc người khác vào khuôn khổ. Nhưng trong phần lớn đời tôi và sự nghiệp của tôi, tôi đã lựa chọn kiên nhẫn chờ đợi thay đổi. Tôi hồi tưởng rõ ràng chúng tôi đều nôn nóng chờ đợi thay đổi cấp lãnh đạo ở Moscow, biết rằng việc này chắc chắn sẽ có ảnh hưởng mãnh liệt đến Đông Đức. Khi những cải cách mong đợi từ lâu cuối cùng đã đến nhờ Gorbachev lên cầm quyền, không ai vui mừng cho tương lai của chúng tôi bằng bản thân tôi. Nhưng chúng tôi không tiên liệu được cuộc thay đổi này đã đến quá trễ; tính minh bạch khó lòng giải quyết thực sự tất cả những vấn đề của chúng tôi. Giờ đã điểm cho chủ thuyết hoang tưởng đã được nặn ra ở Nga vào năm 1917.

Như vậy, còn lại những gì? Hồi tưởng và ghi nhớ lại lúc chúng tôi tin tưởng chúng tôi có thể thực hiện chủ thuyết của Marx và Engel, chúng tôi có thể xây dựng một xã hội trong đó những lý tưởng cao đẹp như tự do, bình đẳng và tình anh em cuối cùng đã thành hình, đôi lúc ngẫm nghĩ không thể hiểu làm thế nào mà chúng tôi lại thất bại. Khi chúng tôi còn trẻ, chúng tôi cảm thấy sức mạnh của lòng tin của chúng tôi cũng đủ để thay đổi thế giới. Bây giờ tôi phải công nhân chúng tôi thất bại không phải vì chúng tôi quá tin vào chủ nghĩa xã hội, nhưng bởi vì chúng tôi hành xử không đủ đúng theo chủ nghĩa xã hội về mặt thực dụng. Những tội ác của Stalin không phải là hệ quả tất nhiên của chủ thuyết Cộng sản, nhưng là một vi phạm của chủ thuyết cộng sản. Tuy nhiên, việc hy sinh tự do cá nhân cho chủ thuyết của đảng, việc khiến dẫn quần chúng và việc bóp méo lịch sử tất cả đều xuất phát từ Liên Xô của Stalin và nhanh chóng được phần lớn các quốc gia ở phía bên này của Bức Màn Sắt bắt chước theo. Thực tế phũ phàng của nước Cộng hoà Dân chủ Đức liên quan nhiều đến những lạm dụng quyền hành hơn là chế độ dân chủ và xã hội chủ nghĩa, và chính vì vậy Đông Đức cuối cùng bị chết ngộp. Tôi thành thật thú nhận là chế độ của chúng tôi thua kém xã phần lớn các nền dân chủ đa nguyên của phương Tây, kể cả những tiện lợi về hệ thống an sinh xã hội của chúng tôi. Bài học chủ yếu tôi đã học được do sự suy thoái và sự sụp đổ của Đông Đức là tự do tư tưởng và phát ngôn cũng quan trọng đối với một xã hội tân tiến như những tiện ích mà chúng tôi đã gầy dựng và lấy làm hãnh diện.

Đối với phần lớn các đồng hương của tôi, đời sống tại nước Đức thống nhất xem ra kém quyến rũ hơn họ mong tưởng – công việc thường là khó kiếm, tiền thuê nhà quá cao và khó mà trang trải, và nhiều người cảm thấy vô cùng hụt hẫng vì thiếu tinh thần tương trợ thường ngày, trước đây là dấu ấn tiêu chuẩn của đời sống ở nước Cộng hoà Dân chủ Đức. Xem ra cũng không công bằng và hợp lý nếu đem đánh giá đời sống tại nước dân chủ kiểu phương Tây như nước Đức bằng cách so sánh nó với một xã hội xã hội chủ nghĩa lý tưởng, nhưng tôi biết có nhiều người trong chúng tôi không thể chấp nhận ý nghĩ trở thành một bộ phận của một xã hội nơi đó kẻ giàu có mỗi lúc giàu có hơn tính theo từng phút trong khi đó người nghèo tiếp tục nghèo hơn. Tôi tự hỏi làm thế nào người dân ở Hoa Kỳ, vốn hãnh diện với đất nước của mình và những thành quả của nó, có thể chấp nhận sự kiện ít nhất có đến bốn mươi triệu người Mỹ sống trong cảnh nghèo đói cùng cực. Tôi cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy viễn tượng một xã hội và một nền văn minh đặt căn bản duy nhất trên tiền tài, nhưng tác dụng của nó thường ít khi thấy nhưng lại không kém phần tàn bạo. Trong khối Đông Âu, việc lạm dụng quyền lực bắt đầu bằng mánh lới vận dụng lý tưởng; tại các nước tư bản, ý tưởng tự do cá nhân thường chỉ để che đậy những quyền lợi kinh doanh. Có lẽ chính vì vậy có rất nhiều công dân không hài lòng và hoài nghi về vai trò của các chế độ chính trị trong việc giải quyết những vấn đề. Tuy vậy, tôi vẫn còn là một con người đầy lý tưởng và đầy lạc quan. Tôi chắc chắn những thanh niên trẻ vẫn ước mơ một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người, một thế giới nhân bản hơn thế giới hiện nay của chúng ta. Tôi không tin là những ý nghĩ hoang tưởng là vô lý, nhưng là một điều nhân loại vô cùng cần đến. Thực vậy, nếu chúng ta không có niềm tin vọng ảo chúng sẽ gặp nguy cơ trở về tình trạng cực kỳ man rợ, rơi vào trạng thái tàn ác có thể dẫn đến sự phá huỷ không những của một nước mà còn cả hoàn cầu. Tôi chắc chắn thế hệ trẻ sau này và những thế hệ sắp tới sẽ tìm thấy con đường để thực hiện lý tưởng mà tôi đã từng đeo đuổi và cho đến nay vẫn còn trân quý.

Cách không xa căn phòng của tôi ở Berlin có một tượng đài kỷ niệm Marx và Engels. Vào mùa thu năm 1989, khi Đông Đức sụp đổ, có một bạn trẻ nào đó xịt sơn lên trên tượng đài viết lên hàng chữ KHÔNG CÓ TỘI. Họ có lý. Tôi mong ước họ chia sẻ niềm tin của tôi vào tiềm năng của chủ thuyết Marx. Chiến tranh Lạnh đã chấm dứt và công việc của tôi cũng có lẽ đã hoàn tất, nhưng tôi vẫn không mất niềm tin. Tôi thường hay lấy từ kệ sách của tôi một quyển sách của khoa học gia Thuỵ Sĩ Jean Ziegler. Tựa của quyển sách gói ghém thật đúng cảm nghĩ của tôi vào cuối thế kỷ, vào lúc tôi trên đường đi đến đoạn cuối của cuộc đời, mà tôi đã trải qua với những biến cố tốt và xấu vượt xa những gì tôi mường tượng hồi còn trẻ:

A demain Karl. Hẹn tái ngộ Karl.

Markus Wolf

Trọng Khiêm dịch

Đánh máy: Nguyễn Học
Nguồn: Nguyễn Học - VNthuquan.net - Thư viện online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 8 tháng 4 năm 2015