LỤC BÌNH
Cái ấn tượng xô bồ nhất đập vào mắt gã là những tảng lục bình. Khi còn ở trên kia, nghĩa là giữa cái thành phố có từng dãy quán nhậu chen khít những hè đường lát đá lởm chởm với đám người đẫy đà, bụng phệ, lưng cánh phản, béo tốt nhờ thịt mỡ, trái cây và bầu không khí cực kỳ mát mẻ sau những trận mưa quá hào phóng, gã đã không hề nghĩ đến những tảng lục bình. Thằng Hai Tuộc đô con, dễ tính nhưng búa xua trong mọi sự đời, đã dắt gã từ Sài Gòn xuống đó. Nó bỏ gã lại đó cũng dễ dàng như khi hứa hẹn cưu mang gã rồi bốc hơi giữa thành phố nhậu cùng với một cô điếm. Nó dúi vào tay gã mấy chục ngàn (gã đoán đó là số tiền đáy túi của nó) nói: “Cứ xuống đó đi, không sợ. Mày cắm xuống đất một cái nhánh khô thì nó cũng mọc ra một cây ăn trái liền”. Gã nghĩ tới miền Viễn Tây nước Mỹ thời nào đọc thấy trong sách. Gã nhớ lại những huyền thoại về một vùng đất giàu có khi cá đồng phải đưa bón lúa, còn lúa thì dùng chạy máy hơi. Và gã đi đến đó, miền đất hứa của gã, một thằng có học mà thất nghiệp, đang đói rã họng.
Gã không hề nghĩ tới những tảng lục bình. Nhưng chính đám lục bình đã hại gã. Con tàu đò chở khách từ Kinh Cùng rời bến lúc chiều muộn, chạy thâu đêm trên sông Cái Lớn đã tông phải những tảng lục bình. Không ai chết. Gã huơ mấy sải tay là đụng tới bờ. Đêm đó gã ngủ lại nhà một nông dân tốt bụng cùng với những hành khách không may khác. Cái điều nguy hại nhất là gã mất hết. Mất cái túi xách trong đó có những đồng bạc cuối cùng, bộ quần áo cuối cùng, hy vọng và cả ý chí.
Đúng vào mùa mía đang thu hoạch, gã ở lại làm mướn cho bác Hai và cho cả hàng xóm của bác Hai nữa. Những đống mía cây chất ngất bên bờ sông; dưới những gốc dừa vô chủ. Bác Hai nói cái đám đất doi mà bây giờ những người chủ mía dùng để chất mía cây chờ xuống ghe trước đây là của một dòng họ giàu có tận miền Đông xuống lập nghiệp. Cuộc chín năm và cuộc chống Mỹ chà đi, xát lại, cái gia đình giàu có ấy chia đôi; nửa theo bên này, nửa đi với bên kia. Ngôi nhà bỏ không, những hàng sao duy nhất từ những hạt giống của rừng miền Đông được trồng hơn nửa thế kỷ nay vẫn cứ mỗi ngày cao vút lên thách thức với bầu trời mà không cần bàn tay các ông chủ đang mải mê chiến trận. Chúng lấn át đám dừa mốc thếch bằng chiều cao lừng lững để rồi một ngày tháng Ba năm đó, một đại đội công binh vùng 4 chiến thuật đưa cưa điện tới từng gốc cây phát quang chống du kích. Bây giờ chỉ còn mấy gốc dừa vô chủ đó, với cái mái nhà lần trong cỏ.
Đám người làm mướn đã cho mía ra bờ sông mấy ngày nay mà chiếc ghe vẫn chưa tới như đã hẹn. Hai hôm rồi, gã ăn và ngủ trên đống mía, giữa đàn ruồi ban ngày và đàn muỗi ban đêm. Sau bữa cơm tối, bác Hai lò dò qua cái cầu khỉ bước tới tay cầm một xị đế, đúng một xị không hơn, đến lai rai với gã. Như là an ủi cảnh cô đơn của gã và đỡ sốt ruột vì phải chờ chiếc ghe bội tín. Bác rù rì hỏi han gã về Hà Nội, về cái làng trung du Vĩnh Phú quê gã và vô cùng ngạc nhiên khi nghe gã kể là miếng vườn của ông nội gã để lại cho con cháu chỉ đủ đất trồng được mỗi bụi mía phòng khi có người ốm và dỗ trẻ con. Bác Hai nói:
“Thiệt là lạ. Tao trồng ba mươi công mía mà vẫn không sống nổi”. Gã nói mấy đời nay, từ ông bà, cha mẹ gã chỉ mong có ba sào ruộng mà không làm sao có. Gã nói thêm với bác rằng ngay cả bọn Mỹ, bọn Nhật chúng nó cũng kêu là không sống nổi nữa là. Bác Hai khoái gã vì nhận xét đó, tuy gã biết chắc, bác và chính cả gã nữa, cũng không hiểu sự đời ra làm sao mà đến nỗi thế. Đêm nay chưa thấy bác ra và bỗng dưng gã thấy nhớ ông già phúc hậu tốt bụng.
Trăng đã lên, một mặt trăng đỏ lòm, tròn trĩnh nhô lên khỏi bức thành cây đen kịt bên kia sông Cái Lớn, mỗi lúc mỗi vàng tươi và ban phát hào phóng ánh sáng nuột nà lên những đám dừa nước và những chùm lục bình đang bị nước thủy triều dồn vào các vịnh nhỏ. Bây giờ thì gã không còn mong lai rai với bác Hai vì chắc là bác không ra nữa mà mong một người khác. Gã nằm xuống đám lá mía và đợi. Gã mở mắt, ngồi dựng lên vì có ai cù vô nách.
– Chèng ơi, tụi nó khuân hết mía rồi. Bộ ra đây nằm ngủ sao? Người vừa thọc lét gã là Tư Thảnh. Cô quỳ lên đám lá mía, mặt quay về phía trăng, đôi con mắt một mí ban ngày màu nâu nhưng bây giờ vàng rực trên khuôn mặt hơi dài của các cô gái miền Nam, hai lọn tóc sơ sài thả xuống hai vai, chấm vừa đúng đôi chỏm vú nhọn mà gã biết rõ không hề có áo nịt. Gã thấy nao lòng khi tình cờ phát hiện thấy Tư Thảnh không mang nịt vú, bởi vì trên đường trôi giạt và gặp gỡ đủ các loại người, trái tim trai trẻ và hồn nhiên của gã bị nguội lạnh đi nhiều vì gã chỉ thấy những bộ ngực mang áo nịt. Điều đó xúc phạm trí tưởng tượng của gã, một chàng trai sinh ra ở đất Vĩnh Phú, nơi các cô gái vẫn tắm truồng với trâu ở bến sông Lô. Và hôm đó, giữa đám ruộng ngổn ngang những mía là mía, gã bỗng thấy tim mình đứng lại và đau đớn khi chợt nhìn thấy một bộ ngực trẻ không có áo nịt. Gã nao lòng vì chợt gặp lại một thời thơ trẻ nghịch ngợm và thơ ngây đã vượt đi xa vời đối với gã, cả thời gian lẫn không gian. Giữa một nơi xa lạ, tứ cố vô thân, cái cảm giác quen thuộc đó đưa lại cho gã sự can đảm và hào hứng. Gã trổ hết khả năng khéo léo của đôi cánh tay vốn quen lao động từ nhỏ đỡ Tư Thảnh trong công việc. Gã làm bằng hai người, làm thêm phần của Tư. Rốt cuộc là bác Hai vừa lòng về gã, về Tư Thảnh và tất nhiên vừa lòng về sự quen thân với những bực thang tình cảm khá cập rập và đốt cháy giai đoạn của họ. Mùa mía đi qua với nhịp điệu dồn dập đã buộc hai người phải hối hả thêm vì cả hai chỉ là những người làm mướn. Một chiếc tam bản với vài người bạn đang chờ Tư Thảnh, trong khi trước mặt gã, một tương lai mịt mờ, không định hướng. Giờ đây chỉ còn đêm trăng và một nụ cười, không phải cô gái gom mía với bộ quần áo xốc xếch mà một thân hình đang chín, gọn ghẽ trong bộ đồ có những chấm bông nhỏ xíu màu thiên lý. Gã nói:
– Tư ngồi xuống đi.
Thảnh ngồi bên cạnh gã. Gã chợt nhớ lại, một lần nào đó, không phải trên đống mía mà là rơm, rơm mềm mại, ngai ngái, sực nức mùi trời lẫn bùn đất, cũng một đêm trăng sáng, gã ngồi tính chuyện tương lai với một cô gái làng. Gã không dám đụng vào da thịt, thậm chí quần áo của cô ta nhưng gã đã chạm tới chiều sâu thẳm nhất của trái tim cô vì gã biết cô ta yêu mình, một cô gái làng không đeo nịt vú, đơn giản vì không có tiền mua, nghèo khổ như nhiều người ở đây nghèo khổ. Hồi đó gã đã học xong năm thứ nhất khoa Văn trường Cao đẳng Sư phạm, cách nhà hơn năm mươi cây số. Bố gã nói: “Mày lấy nó thì tao cắt cơm”, nghĩa là mỗi tuần gã sẽ không có quyền về nhà mang lên trường túi gạo, lạc rang và thường xuyên chống lại những cơn đói trong các giờ lên lớp. Xem ra hồi đó bố gã có cái lý của người nghèo đang “múc bụng mình ra nuôi con ăn học” để hòng thoát được cảnh nghèo như con chuột đói vùng vẫy khỏi cái bẫy định mệnh. Gã ra trường tốt nghiệp hạng trung bình, mất cô gái làng, không nơi nào nhận gã dù chỉ với đồng lương bèo bọt. Và gã bỏ nhà đi kiếm sống, mất cả quê hương. Con chuột đói vẫn chưa thoát được cái bẫy.
Đêm qua, khi xị đế chỉ còn một nửa, bác Hai nói với gã:
– Không phải rượu nói mà tao đang nói với mày. Nếu mày chịu con Tư Thảnh, cưới nó, tao cắt dừa nước dựng cho căn nhà, còn ba công đất dưới doi ông Mười, tao cho mày mượn trồng mía. Nghĩ mày nói cũng đúng. Người nghèo như con chuột trong bẫy, tao mở cho mày cái chốt cửa, mày chịu không?
Gã không trả lời, uống cạn ly đế. Bác Hai tiếp:
– Mùa mía này người ta ăn giá rồi, tao tính cũng lời chút đỉnh nên mới mạnh miệng với mày. Chịu đi con!
Gã bảo phải hỏi Tư Thảnh. Và bây giờ gã đang nói với cô gái. Thảnh ngồi dựa vào vai gã trong khi gã hào hứng nói lại lời bác Hai và còn tô màu tí chút vào bức tranh đã dần dà định hình trong đầu gã từ hôm qua đến nay. Gã nhận ra bờ vai cô gái run rẩy trên vai mình, cái rung động đã bắt đầu quen thuộc với gã sau những lần bộ ngực rắn rỏi nhờ những mùa làm mướn và những khát vọng trẻ trung áp vào ngực gã. Gã kết thúc bài diễn văn:
– Bác Hai nói khi có tiền mình sẽ mua đất. Rồi mình sẽ có đất Tư à. Tư biết không, ở ngoài kia cả nhà anh chỉ sống với vài sào đất. Tư khỏi đi làm mướn. Rồi Tư đẻ cho anh một thằng cu, ăn thôi nôi nó xong là anh với Tư bế nó ra Bắc với nội liền!
Tư Thảnh quay hẳn người sang phía gã. Cô gái nắm chặt hai vai gã như muốn xô gã xuống đống mía, đôi mắt bướng bỉnh thoáng buồn bỗng trở nên rắn rỏi và kiên định.
– Anh có biết vì sao hôm nay bác Hai không ra nhậu với anh không? Bác đang thúi ruột vì ghe chưa tới mà không biết thằng chả có tới nữa không hay là chả chờ mía của bác thành củi rồi mới ép giá. Ba năm đi làm mướn cho thiên hạ, Tư rành không ai sống nổi với ba công đất mướn. Vậy mà anh còn nói...
Tư Thảnh lắc lắc hai vai gã rồi đứng dậy. Gã nhìn cô. Chưa bao giờ gã thấy cô gái đẹp như thế, vẻ đẹp ruột rà sinh ra từ đất.
***
Chiếc ghe đã lửng một bụng mía ăn ở đâu đó trên đường, cuối cùng rồi cũng tới. Trên ghe có ba người, ngoài vợ chồng chủ ghe còn một người đàn bà nữa. Bà ta mặt hoa da phấn, không mập không ốm, sung mãn trong bộ muxơlin màu cẩm thạch. Gã rời đống mía đã bắt đầu héo như những thanh củi đưa khách vào nhà bác Hai. Bác Hai bảo gã:
– Ra ruộng kêu con Tư vô bếp giùm. Biểu nó tìm thằng Sáu Đò vô đánh mấy bát tiết canh vịt xiêm mời khách héng!
Người đàn bà đi theo vợ chồng chủ ghe giả lả:
– Ờ, có phải cô Tư Thảnh mà anh chị Ba em nói là dễ thương một cây trong đám người làm mướn chỗ bác Hai không? Để em vô bếp với cổ!
Gã nhíu đôi lông mày. Bác Hai nói với bà ta:
– Nó có dễ thương nhưng thương không có dễ. Thôi, đi gọi tụi nó lẹ lên con!
Gã ra đồng gặp Tư rồi trở lại đống mía của mình như một người gác gian mẫn cán. Mặt trời lên phía những ngọn sao của nhà ai bên kia sông, những cây sao cuối cùng còn sót lại của một thời, cái vùng đất hảo hiệp được khai phá bởi những người dũng cảm và hào hiệp không kém. Gã nằm lên đống mía, nghe mật chảy dưới lưng mình và trong không gian đang được hâm nóng lên dưới mặt trời tháng Bảy. Tiếng nhặng xanh và bầy ong vo ve làm gã buồn ngủ nhưng không thể nào ngủ được. Mình sẽ mướn ba công đất, tức là gần một mẫu ngoài Bắc, vợ mình sẽ là người đàn bà đẹp và nết na nhất miệt này, bác Hai nói chỉ vài năm trúng mùa là hai vợ chồng sẽ mua được đất, không còn phải mướn nữa, rồi mình sẽ đưa vợ về quê nội, cô ấy nói năng có khó nghe tí chút, lũ trẻ con trong xóm tha hồ mà trêu chọc nhưng cái gì rồi cũng quen được. Ừ, giá như không gặp Tư thì mình có dừng lại cái bến này không? Cũng chưa chắc, có thể là mình sẽ đi làm mướn hoài hoặc là một ngày nào đó người ta sẽ gọi mình đi dạy học. Nhưng mình sẽ ở lại đây, chắc là thế. Mình sẽ thuyết phục cô ấy bằng được dù cột chân một con ngựa hoang thì đâu có dễ dàng gì, mà đây lại là một con ngựa hoang bướng bỉnh nữa…
Đúng trưa Tư Thảnh mang cơm ra bến cho gã. Trong cặp lồng có thịt vịt khìa, nấm rơm nấu thuôn. Gã không ăn ngay mà cầm đũa nhìn Tư. Trước mặt gã là một cô Tư khác, lạnh và buồn, như mới ốm dậy.
– Em bệnh sao? – Gã hỏi.
– Không – Cô gái đáp – Bác Hai có chuyện buồn. Ổng đang nổi sùng với hai vợ chồng vựa mía. Họ đòi xuống giá mía. Anh biểu có ức không? Bác Hai đập phá, chửi bới tùm lum cả lên. Với lại...
Gã vốn nhạy cảm và ít nhiều trải đời. Gã biết đang có chuyện gì xẩy ra trong lòng cô gái. Một màn ngăn cách vô hình vô ảnh vừa được dựng lên quanh Tư Thảnh, người mà hôm qua đây còn quá dễ hiểu, thân thiết đối với gã. Giờ đây gã thậm chí không dám mà cũng không muốn chạm nhẹ vào tay cô ta hay nói với cô ta một lời thân ái.
– Chuyện gì thế? – Gã hỏi một cách lạnh lùng.
– Em lên Sài Gòn học may, anh Năm à!
Gã đặt đôi đũa xuống, đứng lên. Thậm chí cô ta cũng không ngỏ lời xin ý kiến mình. Mà mình đã là gì đâu mà cô ta phải xin ý kiến? Mới hai tuần lễ làm mướn cùng nhau...
– Đi với ai?
– Với chị Sáu, em gái ông chủ ghe đó. Chỉ tốt lắm, anh Năm. Chỉ bảo em muốn đổi đời thì theo chỉ. Em định rồi, ở đây không sống nổi, anh Năm.
Gã đột nhiên nhớ lại chiều hôm dó. Cái quán bia cọp rẻ tiền, bẩn tưởi sát nách chợ Bà Chiểu, thằng bạn trời đánh đã kéo gã tới đó, gã bị lôi đi như người ta lê đôi giày dưới chân, nếm không từ món nào. Gã đã gặp mấy cô gái miền Tây “lên thành phố học may” tức tưởi bán mình, tức tưởi khóc trong khói thuốc, trong chai rượu, trong lớp bụi mờ nhạt của Sài Gòn bí ẩn.
Gã thấy nhói trong ngực như đang lên máu, đang ngạt thở, đang bị nhấn đầu xuống bãi bùn.
Nhưng gã bỗng phá lên cười:
– Đi học may? Ha Ha. Đi học may? Cứ đi đi, rồi cưng tha hồ mà nhờ cậy lòng tốt của chị Sáu!
Tư Thảnh nhìn gã, quả thực cô ta không chờ đợi nhịp cười tàn khốc ấy của gã. Đôi mắt màu nâu và đẹp đang muốn trần tình, cởi mở bỗng tắt ngấm.
Không nói một lời, cô gái bỏ đi.
***
Bác Hai nhất định không bán lô mía đã đốn cho vợ chồng Ba Ngàn. Dẻo quẹo và dai như đỉa đói, Ba Ngàn đưa cha ông ra mà thề thốt, bảo lĩnh, bao giá. Gã đeo bác Hai suốt cả ngày nay, trông ông già sụt đến hàng ký, bộ mặt vốn đã teo tóp càng gầy guộc hơn, râu mép bạc một hàng. Gã biết bác đang bị cứa gan, cắt ruột. Với cái giá lão chủ ghe nài nỉ, bác chỉ còn nước mắc nợ sau vụ mía tưởng là “lời chút đỉnh” như bác mơ ước. Bác giẫm chân khi nghe cái giọng có mùi rỉ đường của tay chủ ghe. Gã tưởng bác sẽ đấm vào bộ mặt mâm của lão.
– Không! Cái thứ ma lai rút ruột như tụi mày, tao không bán. Ba Ngàn và vợ neo ghe lại bến tới sáng mai để nài nỉ. Trong khi đó chị Sáu la cà với các cô gái và Tư Thảnh để ban phát lòng tốt của chị. Gã không thể ngủ được, không phải vì trăng quá sáng mà vì những ý nghĩ nặng như đá trong đầu.
Bác Hai đi đứt, cuộc đời Tư Thảnh đi đứt, giấc mộng mới nhen nhóm của gã cũng đi đứt. Trong khi mật dưới lưng gã đang khô lại trong đống mía, bầu trời miền Nam vẫn mênh mông và hứa hẹn trên đầu gã. Tư Thảnh đến vào lúc nửa đêm. Gã vờ lim dim ngủ.
– Anh Năm! Em đây!
Gã ú ớ, gập người ngồi dậy. Mùi thơm thanh tân và cái nhìn đắm đuối của cô gái kéo gã ra khỏi mớ ý nghĩ u ám.
– Đừng giận em, anh Năm – Cô gái nói.
– Trời ơi! – Gã tru lên như một con chó – Bộ cô không hay mụ ta rủ cô lên thành phố học may là sao ư? Tôi tưởng cô khôn ngoan hơn thế này nhiều.
Tư Thảnh ôm quàng vai gã, ngả cái đầu xinh xắn mới gội vào ngực gã, nói với giọng đau đớn:
– Em biết chớ, anh Năm. Bốn đứa bạn em lên thành phố học may cả năm nay rồi, em biết chớ. Em ráng trụ lại đời làm mướn. Nhưng chịu không thấu rồi, anh Năm!
Gã không đáp lời, máu đang chảy nhanh hơn trong huyết quản gã. Tư dụi đầu vào ngực gã, mái tóc mềm và thơm dính như mật khi gã lùa đám ngón tay cứng quèo như răng lược vào. Rồi gã cảm thấy nỗi đau của cô gái chuyển dần đến trái tim gã cùng những lời thổn thức. Vai Tư Thảnh run lên và gã bất thần ôm trọn trong cánh tay còn lại của mình một thân thể, một cuộc đời như đã chết mà còn nóng ấm.
– Tui với anh mà bíu nhau thì chết chìm sớm, anh Năm. Gã vẫn không nói gì. Bàn tay gã rời mái tóc xuống vai và gã bắt đầu ve vuốt những cơn nấc nghẹn của cô gái.
– Anh Năm! – Cô gập người ngồi lên để cởi những chiếc khuy áo nhỏ như bông chim chim rồi cầm tay gã lùa vào bộ ngực không cần đeo nịt vú – Em cho anh đó. Anh là người đầu tiên em cho đời con gái của em đó. Vì em sợ không còn được gặp lại anh nữa.
Bây giờ thì gã hét lên:
– Không. Đừng đi, Tư!
Cô gái không đáp lại. Cô lăn lộn bên cạnh gã và, cuối cùng, như một sợi dây kéo quá căng bị đứt, gã bàng hoàng cúi xuống cô gái đang chờ đợi.
Tảng sáng hôm sau, chiếc ghe rời bến mang theo Tư Thảnh. Bác Hai chờ giá. Nửa tháng sau, một chiếc ghe khác ghé qua cho biết giá mía đã lên lại, nhưng cánh đồng mía của bác Hai đã thành củi khô. Đêm ấy đống mía của bác cháy rụi. Gã biết ông già đã lụi cụi đổ lên cả một can dầu và gã lặng im, đáp một con tàu đò xuôi sông Cái Lớn.
Cần Thơ, 1994