← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 12

Watney an lành ngủ trên giường tầng của mình. Anh nhẹ nhàng nhích người khi giấc mơ đẹp nào đó đang ban một nụ cười trên gương mặt anh. Ngày hôm trước đã là một ngày lao động cực nhọc, nên anh ngủ sâu hơn và đã hơn những giấc ngủ anh thường có.

“Chào buổi sáng cả đoàn!” Lewis gọi lớn. “Hôm nay là một ngày mới toanh! Thức dậy và chiến đấu nào!”

Watney thêm giọng mình vào bản hợp ca rên rỉ.

“Nào nào,” Lewis thúc giục, “đừng càm ràm. Các anh chị được ngủ hơn nhiều hơn giấc ngủ bình thường ở Trái đất những 40 phút rồi.”

Martinez là người đầu tiên nhảy xuống giường. Là một chàng lính Không quân, anh có thể dễ dàng thích nghi với thời khóa biểu kiểu Thủy quân của Lewis. “Chào buổi sáng, Chỉ huy,” anh nói với giọng quả quyết.

Johanssen ngồi dậy, nhưng chẳng nhúc nhích tí nào về thế giới khắc nghiệt bên ngoài mấy tấm chăn êm ái của mình. Đối với một kỹ sư phần mềm như cô, buổi sáng chẳng phải là điểm mạnh.

Vogel chậm rãi kềnh càng xuống giường, nhìn đồng hồ. Anh chẳng nói chẳng rằng cứ thế mặc áo đồng phục vào, dũi thẳng những chỗ nhăn. Anh thở dài vào trong khi nghĩ về cảm giác u ám của một ngày nữa không được tắm táp.

Watney quay người tránh những tiếng huyên náo, ôm gối che đầu mình. “Những người ồn ào đi chỗ khác chơi,” anh lầm bầm.

“Beck!” Martinez vừa gọi vừa lắc người anh bác sĩ phi vụ. “Thức dậy đón ánh mặt trời đi anh bạn!”

“Ờ, ok,” Beck lờ đờ trả lời.

Johanssen té xuống giường, nằm im như tờ trên sàn nhà.

Chỉ huy Lewis kéo cái gối trong tay Watney ra và nói, “Dậy nào, Watney! Chú Sam (nước Mỹ) trả 100,000 đô la cho mỗi giây phút chúng ta ở đây.”

“Đàn bà xấu mới lấy gối,” Watney lầu bầu, không chịu mở mắt.

“Ở dưới Trái đất, tôi đã từng đẩy ngả mấy ông nặng 90 kí khỏi giường tầng. Anh có muốn thấy tôi có khả năng làm gì trong trọng lực 0.4g không?”

“Không, không hẳn thế,” Watney nói rồi ngồi bật dậy.

Sau khi đã náo loạn cả đội lên, Lewis ngồi xuống trạm liên lạc để kiểm tra những tin tức gửi từ Houston đêm qua.

Watney lục lọi tủ thức ăn và chộp đại một phần sáng.

“Đưa tôi một ‘quả trứng’ được không nào,” Martinez nói.

“Anh có thể nhận ra sự khác biệt à? Watney vừa nói vừa đưa Martinez một gói đồ.

“Không hẳn vậy,” Martinez nói.

“Beck, anh muốn ăn gì?” Watney tiếp tục.

“Không quan tâm,” Beck nói. “Đưa cái gì cũng được.”

Watney ném cho anh ta một gói.

“Vogel, món xúc xích thường lệ à?”

“Ja, làm phiền,” Vogel đáp lại,

“Anh biết mình là một người đúng như kiểu mẫu ấy, phải không?”

“Tôi thấy thoải mái về việc đó,” Vogel trả lời, tay lấy phần ăn sáng đang được dâng hiến.

“Này Ánh Mặt Trời,” Watney gọi Johanssen. “Hôm nay ăn sáng không?”

“Mnrrn,” Johanssen càu nhàu.

“Tôi khá chắc chắn đó là ‘không,’” Watney đoán.

Cả đoàn ăn trong im lặng. Johanssen cuối cùng cũng lê lếch đến tủ đồ và lấy một gói cà phê. Cô vụng về đổ thêm nước nóng, và nhâm nhi cho đến khi sự tỉnh thức từ từ tràn ngập vào người mình.

“Cập nhật phi vụ từ Houston,” Lewis nói. “Các vệ tinh cho thấy có một cơn bão sắp đến, nhưng chúng ta có thể làm vài hoạt động trên bề mặt cho đến khi nó đến. Vogel, Martinez, các anh sẽ ra ngoài với tôi. Johanssen, cô mắc kẹt lại đây để theo dõi báo cáo thời tiết. Watney, thí nghiệm đất của anh được dời lên hôm nay. Beck, chạy mẫu thử nghiệm từ EVA hôm qua trên máy đo phổ.”

“Mọi người có nên ra ngoài khi có một cơn bão sắp đến không?” Beck hỏi.

“Houston đã cho phép,” Lewis nói.

“Có vẻ như nguy hiểm vô ích.”

“Đi lên sao Hỏa là đã nguy hiểm vô ích rồi,” Lewis nói. “Ý anh muốn nói gì?”

Beck nhún vai. “Chỉ là nên cẩn thận thôi.”

***

Ba bóng người nhìn về hướng Đông. Bộ đồ EVA cồng kềnh khiến cả ba người bọn họ gần như trông giống hệt nhau. Chỉ có lá cờ Liên hiệp Châu Âu trên vai Vogel để phân biệt anh với Lewis và Martinez, trên vai họ có cờ sao và những lằn sọc.

Bóng tối từ đằng đông nhấp nhô chớp tắt trong ánh mặt trời đang mọc.

“Cơn bão.” Vogel nói tiếng Anh với giọng nước ngoài của mình. “Nó gần hơn dự báo của Houston.”

“Chúng ta có thời gian,” Lewis nói. “Tập trung vào nhiệm vụ trước mắt. Toàn bộ chuyến EVA này là để phân tích hóa chất. Vogel, anh là một nhà hóa học, nên anh đảm trách xem chúng ta nên đào bới cái gì.”

“Ja,” Vogel nó. “Xin hãy đào 30 cm và lấy mẫu đất. Mỗi lần lấy ít nhất 100gr. Rất quan trọng là phải lấy ở vị trí 30 cm dưới lòng đất.”

“Tôi sẽ làm thế.” Lewis nói. “Mọi người ở trong phạm vi 100 m quanh căn Hab thôi,” cô nói thêm.

“Ừm,” Vogel đáp.

“Vâng, thưa bà chủ.” Martinez nói.

Rồi họ chia nhau đi. Đồ du hành EVA cho chuyến Ares là một sự cải thiện tuyệt hảo từ thời Apollo, nó cho phép nhiều cử động tự do hơn. Việc đào xới, nghiêng người, đóng bao mẫu vật chỉ là chuyện nhỏ.

Sau một thời gian, Lewis hỏi “Anh cần bao nhiêu mẫu vật?”

“Bảy mẫu, có lẽ vậy?”

“Được thôi,” Lewis xác định. “Tôi đã có bốn mẫu rồi.”

“Bên này có năm,” Martinez nói. “Đương nhiên là chúng ta không thể trông chờ lính Hải quân làm kịp được với lính Không quân rồi, đúng không nào?”

“Hóa ra anh muốn chơi kiểu ấy à?” Lewis nói.

“Tôi chỉ thấy sao nói vậy thôi, Chỉ huy.”

“Johanssen đây,” giọng nói của sysop vang lên từ radio. “Houston cập nhật rằng cơn bão sẽ rất ‘cấp tính.’ Nó sắp đến đây trong vòng 15 phút.”

“Trở về doanh trại,” Lewis nói.

Cả căn Hab lay chuyển trong tiếng gió gầm rú còn các phi hành gia tập trung lại ở giữa. Cả sáu người đều mặc sẵn EVA để phòng hờ trường hợp vải bạt bị rách. Johanssen quan sát máy tính của mình trong khi đó thì những người còn lại quan sát cô.

“Vận tốc gió thường trực đã hơn 100km/giờ rồi,” cô nói. “Còn gió theo đợt thì lên đến 125.”

“Chúa ơi, chắc chúng ta sẽ bị thổi bay đến xứ Oz,” Watney nói. “Vận tốc gió để hủy phi vụ là bao nhiêu?”

“Về mặt kỹ thuật là 150km/giờ,” Martinez nói. “Nhiều hơn thế chỉ một chút thôi thì cũng khiến MAV gặp nguy cơ bị lật.”

“Có dự đoán nào về hướng bão hay không?” Lewis hỏi.

“Đây chỉ là phần rìa của nó thôi,” Johanssen vừa nói vừa nhìn chăm chăm vào màn hình. “Nó sẽ chuyển biến xấu rồi mới yên ổn dần lại được.”

Vải bạt căn Hab thổi phập phồng trước sự tấn công dữ dội, còn những trụ chống đỡ bên trong cong và rung lẩy bẩy trước mỗi đợt gió. Những tiếng lộn xộn chói tai càng lớn dầy theo từng giây phút.

“Được rồi,” Lewis nói. “Chuẩn bị hủy. Chúng ta sẽ đến MAV và hy vọng điều tốt đẹp nhất. Nếu sức gió lên quá cao chúng ta sẽ khởi hành.”

Họ đi thành từng cặp khỏi căn Hab, đứng lại thành nhóm ở ngoài cửa khóa khí 1. Gió và cát dồn dập đập vào người họ, nhưng họ vẫn có thể đứng vững trên đôi chân của mình.

“Tầm nhìn gần như là số không,” Lewis nói. “Nếu có ai đi lạc, thì về lại theo tọa độ từ xa đo thẳng từ áo của tôi. Gió sẽ càng mạnh hơn khi ta đi xa căn Hab, nên mọi người hãy sẵn sàng.”

Họ đi xuyên qua cơn bão, chuệnh choạng về hướng MAV.

“Này,” Watney thở hổn hển nói. “Hay là chúng ta có thể chống trụ thêm cho MAV. Như vậy nó sẽ không dễ dàng bị lật.”

“Làm thế nào?” Lewis gắt gỏng.

“Chúng ta có thể dùng dây cáp từ dàn pin mặt trời làm dây dẫn.” Anh dừng lại thở khò khè một hồi rồi nói tiếp. “Mấy chiếc rover có thể dùng làm neo. Chỗ khó sẽ là lấy sợi dây đem ra…”

Một mảnh vỡ bay vụt đập vào Watney, đưa anh đi theo con gió lớn.

“Watney!” Johanssen la lên.

“Chuyện gì xảy ra?” Lewis nói.

“Cái gì đó đã đánh trúng anh ấy!” Johanssen báo cáo.

“Watney, báo cáo,” Lewis nói.

Không có tiếng trả lời.

“Watney, báo cáo,” Lewis lập lại.

Lần nữa, cô chỉ nhận được sự im lặng.

“Anh ấy offline rồi,” Johanssen báo cáo. “Tôi không biết anh ấy ở đâu nữa!”

“Chỉ huy,” Beck nói, “Trước khi chúng ta mất tín hiệu từ xa, còi báo động giảm áp suất của anh ấy đã vang lên!”

“Cứt thật!” Lewis thảng thốt. “Johanssen lần cuối cùng cô nhìn thấy anh ấy là ở đâu?”

“Anh ấy đang ngay phía trước rồi rồi bỗng nhiên biến mất,” cô nói. “Anh ấy bay về hướng Tây.”

“Ok,” Lewis nói. “Martinez, đến MAV và chuẩn bị cất cánh. Những người còn lại, về chỗ của Johanssen.”

“Bác sĩ Beck,” Vogel vừa nói vừa lảo đảo đi trong cơn bão, “Một người có thể sống bao lâu nếu bị giảm áp suất?”

“Ít hơn một phút,” Beck nói, cảm xúc nghẹn ngào trong giọng nói.

“Tôi không thể thấy gì cả,” Johanssen nói khi những phi hành gia còn lại đến đứng bọc quanh cô.

“Xếp thành hàng và đi về hướng Tây,” Lewis ra lệnh. “Đi bước nhỏ thôi. Có lẽ anh ta té sấp xuống; chúng ta không muốn phải dẫm trúng lên ngừơi anh ấy.”

Họ giữ khoảng cách để có thể nhìn thấy nhau, lê từng bước một đi qua sự hỗn độn.

Martinez té vào khoang khóa khí của MAV và đẩy cửa đóng lại trước cơn gió. Một khi áp suất khôi phục, anh lập tức cởi bỏ áo phi hành gia. Anh men theo chiếc thang để leo lên buồng chỉ huy, trườn người vào ghế phi công và khởi động hệ thống.

Một tay anh chộp lấy danh sách kiểm cho trừơng hợp cất cánh khẩn cấp, còn tay kia vội bật những công tắt lên. Từng việc một xong xuôi, hệ thống báo cáo tình trạng bay đã sẵn sàng. Khi mọi thứ online, anh chú ý một điều đặc biệt.

“Chỉ huy,” anh nói qua radio. “Chiếc MAV hiện đang nghiêng 7 độ. Nếu nghiêng đến 12.3 độ là nó sẽ lật.”

“Đã rõ,” Lewis nói.

“Johanssen,” Beck vừa nói vừa nhìn về phía máy tính trên cánh tay mình. “Máy quan sát sinh học của Watney gửi gì đó trước khi nó offline. Máy tính của tôi chỉ ghi ‘Tín hiệu xấu.’”

“Tôi cũng có nó,” Johanssen nói. “Nó chưa gửi xong. Một số dữ liệu bị mất và không có tổng số dữ liệu. Chờ tôi chút.”

“Chỉ huy,” Martinez nói. “Tin nhắn từ Houston. Chúng ta chính thức bị hủy. Cơn bão chắc chắn sẽ rất dữ dội đấy.”

“Đã rõ,” Lewis nói.

“Họ gửi tín hiệu đó bốn phút rưỡi trước,” Martinez tiếp tục, “khi họ nhìn thấy tín hiệu từ vệ tinh cách đó chín phút.”

“Đã hiểu,” Lewis nói. “Tiếp tục chuẩn bị cất cánh.”

“Đã rõ,” Martinez nói.

“Beck,” Johanssen nói. “Tôi có tín hiệu raw đây. Chữ ghi là BP 0, PR 0, TP 36.2. Đó là tất cả những thông tin tôi có thể lấy được.”

“Đã rõ,” Beck buồn rầu nói. “Huyết áp 0, mạch đập 0, nhiệt độ bình thường.”

Toàn kênh im bặt một thời gian. Họ vẫn tiếp tục đi về phía trước, lê chân qua cơn bão cát, hy vọng có một kỳ tích.

“Nhiệt độ bình thường?” Lewis nói, giọng cô có chút hy vọng.

“Phải mất một thời gian…” Beck lắp bắp. “Phải mất một thời gian mới lạnh xuống.”

“Chỉ huy,” Martinez nói. “Đang nghiêng ở 10 độ rưỡi. Gió đang sắp thổi nó thành 11.”

“Đã rõ,” Lewis nói. “Anh đã trong tình trạng tháo rời chưa?”

“Xác định,” Martinez nói. “Tôi có thể cất cánh bất cứ lúc nào.”

“Nếu nó lật, anh có thế cất cánh trước khi nó hoàn toàn rơi xuống không?”

“Ơ,” Martinez nói, hơi bất ngờ vì câu hỏi. “Vâng thưa sếp. Tôi sẽ chuyển sang chế độ lái tay và mở hết ga. Rồi tôi sẽ hướng mũi tàu lên và trở về chương trình cất cánh đã lập trình sẵn.”

“Đã rõ,” Lewis nói. “Mọi người về theo hướng áo của Martinez. Theo hướng đó sẽ về được cửa khóa khí của MAV. Đi vào trong và chuẩn bị cất cánh.”

“Còn cô thì sao, Chỉ huy?” Beck hỏi.

“Tôi sẽ tìm kiếm thêm chút nữa. Đi đi. Và Martinez, nếu anh bắt đầu lật thì cất cánh ngay.”

“Cô thật sự nghĩ rằng tôi sẽ bỏ cô lại à?” Martinez nói.

“Tôi vừa ra lệnh cho anh,” Lewis trả lời. “Ba người, về tàu.”

Họ miễn cưỡng nghe lệnh của Lewis, và đi về hướng MAV. Cơn gió khủng khiếp ngăn trở từng bước chân họ đi.

Lewis không thấy mặt đất, nhưng vẫn lê chân về phía trước. Chợt cô nhớ ra điều gì đó, cô với tay ra sau lưng và lấy ra một cặp mũi khoan đá. Cô đã gắn mũi khoan 1 mét vào thiết bị của mình hồi sáng, định rằng sẽ dùng để lấy mẫu địa chất vào ngày hôm nay. Mỗi tay cô cầm một mũi khoan, cô kéo chúng theo dọc con đường mình đang bước đi.

Sau 20 mét, cô quay lại và đi về gướng ngược lại. Đi thẳng thành một hàng rõ là một điều không thể. Cô không những không có chỗ mốc nào để nhìn, gió bão bất tận còn thổi cô đi khỏi đường đã định. Chỉ mỗi lượng cát quất vào người cũng đủ để chôn vùi mỗi bước chân cô. Cô làu bàu nhưng vẫn tiếp tục đi.

Beck, Johanssen và Vogel chen nhau vào cửa khóa khí của MAV. Khoang cửa được thiết kế để chứa hai người, nhưng ba người vẫn có thể dùng trong trường hợp khẩn cấp. Khi áp suất cân bằng lại, giọng Lewis vang lên từ radio.

“Johanssen,” cô nói. “Máy camera hồng ngoại của rover có dùng được không?”

“Không,” Johanssen trả lời. “Tia hồng ngoại cũng không khá hơn ánh sáng bình thường là mấy trong việc chiếu xuyên qua cát.”

“Cô ấy đang nghĩ gì vậy?” Beck hỏi sau khi tháo mũ của mình ra. “Cô ấy là nhà địa chất học. Cô ấy biết rằng tia hồng ngoại không thể chiếu xuyên cát.”

“Cô ấy đang cố níu kéo,” Vogel nói rồi mở cửa bên trong. “Chúng ta phải vào ghế ngồi. Nhanh lên thôi nào.”

“Tôi cảm thấy có gì không ổn trong chuyện này,” Beck nói.

“Tôi cũng vậy, Bác sĩ à,” Vogel vừa nói vừa leo lên thang. “Nhưng Chỉ huy đã ra lệnh. Không tuân lệnh cũng chẳng giúp ích được gì.”

“Chỉ huy,” Martinez nói từ radio ra. “Chúng ta đang nghiêng ở 11.6 độ. Chỉ một cơn gió mạnh nữa là chúng ta sẽ bị lật.”

“Còn ra-đa gần thì sao?” Lewis hỏi. “Nó có thể dò tìm bộ áo của Watney không?”

“Không thể nào,” Martinez nói. “Nó được thiết kế để dò Hermes trong quỹ đạo, chứ không phải dò kim loại trong một chiếc áo du hành.”

“Cứ thử xem sao,” Lewis nói.

“Chỉ huy,” Beck nói, vừa đeo điện đài vừa trườn người vào ghế tăng tốc của mình. “Tôi biết cô không muốn nghe điều này, nhưng Watn… Mark đã chết rồi.”

“Đã rõ,” Lewis nói. “Martinez, thử ra-đa đi.”

“Nhận lệnh,” Martinez nói qua radio.

Anh mở ra-đa lên, chờ cho nó xong một lượt tự kiểm tra. Liếc nhìn sang bên Beck, anh nói “Anh bị gì thế?”

“Bạn tôi vừa chết,” Beck trả lời. “Và tôi không muốn Chỉ huy của mình cũng đi theo luôn.”

Matinez nghiêm nghị nhìn anh ta. Rồi anh chuyển sang chú ý đến máy ra-đa, anh nói “Không có tiếp xúc nào với ra-đa gần.”

“Không có gì cả ư?” Lewis hỏi.

“Nó chỉ có thể thấy căn Hab mờ mờ thôi,” anh hói. “Cơn bão cát làm mọi thứ rối tung lên. Ngay cả khi không có bão, thì cũng chẳng đủ kiem loại trong… Cứt thật!”

“Cài dây an toàn!” Anh hét lớn với phi hành đoàn. “Chúng ta đang bị lật!”

Chiếc MAV bắt đầu kêu cọt kẹt và nghiêng càng lúc càng nhanh.

“13 độ,” Johanssen la lên từ ghế của mình.

Vogel cắn dây an toàn của mình vào và nói “Chúng ta đã quá xa mức cân bằng rồi. Chúng ta sẽ không thể lắc để quay về vị trí cũ.”

“Chúng ta không thể bỏ lại cô ấy!” Beck la lớn. “Để nó lật đi, chúng ta sẽ sửa nó sau!”

“32 tấn bao gồm cả nhiên liệu,” Martinez nói, hai tay vung vẫy phía trên bàn điều khiển. “Nếu nó mà rớt xuống đất, nó sẽ làm hư hỏng cấu trúc bình xăng, khung tàu và có thể cả động cơ dự trù. Chúng ta sẽ không thể nào sửa nó được.”

“Anh không thể bỏ rơi cô ấy!” Beck nói. “Anh không thể nào.”

“Tôi có một mánh. Nếu cách đó không thành công, tôi phải nghe theo lệnh cô ấy.”

Anh mở Hệ thống Thao diễn Quỹ đạo (Orbital Maneuvering System), phóng ra một tia lửa liên tục từ dàn máy hình chóp mũi. Những cú bắn phản lực nho nhỏ cố sức cân bằng trọng lượng ì ạch của chiếc phi thuyền đang chầm chậm nghiêng mình.

“Anh bắn OMS à?” Vogel hỏi.

“Tôi không biết cách này có được không. Chúng ta không bị lật quá nhanh,” Martinez nói. “Tôi nghĩ nó đang chậm dần lại…”

“Mấy cái nắp khí động sẽ tự động bắn nhả ra.” Vogel nói. “Đây sẽ là một cú cất cánh bấp bênh khi có ba lỗ thủng bên hông tàu.”

“Cảm ơn anh đã mách nước,” Martinez nói, vẫn giữ tia lửa cháy và quan sát độ nghiêng đang hiện trên màn hình. “Nào, nào…”

“Vẫn còn 13 độ,” Johanssen báo cáo.

“Chuyện gì đang xảy ra trên đó?” Lewis nói qua radio. “Các anh đột ngột im lặng. Trả lời đi.”

“Sẵn sàng,” Martinez đáp lại.

“12.9 độ,” Johanssen nói.

“Làm được rồi,” Vogel nói.

“Bây giờ thì thế,” Martinez nói. “Tôi không biết nhiên liệu dùng cho thao tác này sẽ duy trì được bao lâu.”

“Giờ thì 12.8 độ.” Johanssen tiếp thêm thông tin.

“Nhiên liệu OMS đang ở mức 60 phần trăm,” Beck nói. “Anh cần bao nhiêu mới cập vào Hermes được?”

“10 phần trăm nếu tôi không làm hư mẹ nó bất cứ thứ gì,” Martinez vừa nói vừa điều chỉnh góc độ phản lực.

“12.6 độ,” Johanssen nói. “Chúng ta đang nghiêng ngược lại.”

“Hoặc sức gió đã giảm dần một tí,” Beck đưa ra giả định. “Nhiên liệu ở mức 45 phần trăm.”

“Còn có nguy cơ hư hại các lỗ thông gió,” Vogel cảnh báo. “Thiết bị OMS không phải được tạo ra để bắn phản lực lâu dài.”

“Tôi biết,” Martinez nói. “Nếu cần, tôi có thể cập tàu ngay cả khi không có những lỗ thông gió hình mũi kia.”

“Sắp được rồi…” Johanssen nói. “Ok giờ chúng ta dưới 12.3 độ rồi.”

“Tắt OMS,” Martinez thông báo khi kết thúc đợt bắn lửa.

“Vẫn đang nghiêng ngược lại,” Johanssen nói. “11.6… 11.5… vẫn giữ tọa độ 11.5.”

“Nhiên liệu OMS ở mức 22 phần trăm,” Beck nói.

“Ừ, tôi thấy rồi,” Martinez nói. “Nhiêu đó cũng đủ.”

“Chỉ huy,” Beck nói vào radio. “Cô cần đến tàu ngay.”

“Đồng ý,” Martinez tiếp lời. “Anh ấy đi rồi, sếp à. Watney đã đi rồi.”

Bốn người còn lại trong đoàn chờ đợi câu trả lời từ người chỉ huy của mình.

“Đã rõ,” cuối cùng cô cũng lên tiếng. “Đang đến đây.”

Họ nằm đó trong im lặng, người được thắt chặt vào ghế và sẵn sàng cất cánh. Beck nhìn sang chiếc ghế trống của Watney và thấy Vogel cũng đang làm thế. Martinez chạy một chương trình tự kiểm tra cho mũi phản lực OMS. Chúng không còn đủ an toàn để dùng nữa. Anh ghi chú việc hư hỏng xuống nhật trình của mình.

Cửa khóa khí đóng lại. Sau khi cởi bỏ áo phi hành của mình, Lewis đi đến khoang lái. Cô chẳng nói chẳng rằng thắt dây an toàn vào ghế, gương mặt cô như một chiếc mặt nạ lạnh băng. Chỉ có Martinez dám lên tiếng.

“Vẫn trong tình trạng chờ,” anh trầm mặc nói. “Sẵn sàng cất cánh.”

Lewis nhắm mắt lại vầ gật đầu.

“Tôi xin lỗi, Chỉ huy,” Martinez nói. “Cô cần phải lên tiếng…”

“Cất cánh,” cô nói.

“Vâng, Chỉ huy,” anh trả vời và khởi động chuỗi lệnh.

Kẹp khóa tàu mở ra từ giàn cất cánh và rơi xuống đất. Vài giây sau, thiết bị đánh lửa khởi động bắn ra, đưa lửa đến động cơ chính, và chiếc MAV tròng trành bay vút lên.

Con tàu từ từ tăng tốc trong khi, gió mạnh thổi nó khỏi đường bay ngang. Con tàu cảm ứng được vấn đề, và phần mềm đưa tàu lên liền nghiêng tàu ở góc độ thuận chiều gió để trung hòa.

Khi nhiên liệu được dùng dần hết, con tàu trở nên nhẹ hơn, và nó tăng tốc càng nhanh hơn. Với gia tốc tăng theo luật số mũ, con tàu chẳng mấy chốc đã lên đến mức gia tốc cao nhất. Một giới hạn không được quyết định bằng sức mạnh của tàu, mà bằng cơ thể mong manh của những con người bên trong.

Trong khi con tàu bay vút lên thì cũng là lúc những lỗ thông hơi OMS đang mở bắt đầu xấu đi. Cả đoàn lắc lư trong ghế ngồi của mình còn con tàu thì rung động dữ dội. Martinez và phần mềm đưa tàu lên giữ cho nó được cân bằng, nhưng đó vẫn là một cuộc chiến liên miên không ngớt. Sự nào động dần nguôi ngoai đi và cuối cùng nó rơi vào khoảng không khi bầu khí quyển càng ngày càng mỏng dần đi.

Rồi đột nhiên tất cả các lực mạnh dừng lại. Giai đoạn đầu đã qua. Cả phi hành đoàn cảm nhận được sự vô trọng lượng trong vài giây, rồi họ lại bị đè xuống ghế của mình khi giai đoạn tiếp theo bắt đầu. Bên ngoài, thùng xăng rỗng của giai đoạn đầu tiên rơi ra khỏi tàu, và một lúc nào đó sẽ đâm sầm vào một khu vực chẳng ai hay biết trong hành tinh bên dưới.

Giai đoạn thứ hai đẩy con tàu càng cao hơn nữa, vào thẳng quỹ đạo thấp. Giai đoạn này không mất nhiều thời gian như giai đoạn đồ sộ thứ nhất, và nó cũng êm ái hơn, dường như khi chưa kịp nghĩ đến thì nó đã xong.

Bỗng nhiên động cơ ngừng lại, và một sự bình tĩnh đầy ngột ngạt thay thế cho những lộn xộn chói tai ban nãy.

“Tắt động cơ chính,” Martinez nói. “Thời gian bay lên: 8 phút, 14 giây. Đi đúng hướng để giao điểm với Hermes.”

Bình thường thì một cú cất cánh không sự cố đã là một lý do chính đáng để ăn mừng. Nhưng lần này sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng nấc dịu dàng của Johanssen.

***

Bốn tháng sau…

NASA bị kinh tởm vì hay phí phạm thời gian nghiên cứu. Những chuyến đi về sao Hỏa cũng bận bịu nhưng những phi vụ trên bề mặt. Cả đoàn gần như đã bắt kịp những công việc bị trì trệ. Thời gian biểu đã được đề ra cho một nhóm sáu người chứ không phải năm.

Beck cố không nghĩ đến lý do đau đớn khiến mình phải làm những thí nghiệm trồng cây trong môi trường không trọng lực. Anh quan sát kích thước và hình dáng của những lá dương xỉ, chụp hình và ghi chú lại mọi thứ.

Sau khi hoàn thành chương trình khoa học của mình cho ngày hôm nay, anh kiểm tra đồng hồ. Vừa đúng lúc. Dữ liệu truyền cũng sắp xong. Anh bay bồng bềnh ngang qua lò phản ứng để đến thang Semicone-A.

Bay dọc thẳng chân phía trước theo cầu thang, anh nhanh tay nắm chặt nó khi lực hướng tâm của con tàu xoay vòng bắt đầu có hiệu lực. Khi đến thang Semicone-A thì anh đã ở vùng trọng lực 0.4g.

Trọng lực nhân tạo chẳng phải là thứ xa xỉ gì, vì nó giữ cho cơ thể họ luôn sung sức. Nếu không có nó, họ sẽ ở cả tuần đầu tiên của họ trên sao Hỏa trong tình trạng không thể đi đứng được. Chế độ thể dục thể thao có thể giữ cho tim mạch và xương mạnh khỏe, nhưng chẳng có chế độ nào đủ để cho họ có thể khôi phục hoàn toàn các chức năng từ ngày Sol 1.

Bởi vì con tàu đã được thiết kế sẵn như thế, họ cũng dùng hệ thống ấy trên chuyến bay về.

Johanssen ngồi ở trạm của mình. Lewis ngồi ở ghế bên cạnh trong khi Vogel lởn vởn quanh đó. Việc truyền dữ liệu thường gửi kèm email và video từ nhà lên. Đó là khoảng thời gian vui vẻ của một ngày.

“Đã đến chưa?” Beck hỏi khi bước vào khu cầu vượt.

“Gần đến,” Johanssen nói. “98%.”

“Trông anh có vẻ vui vẻ đấy Martinez,” Beck nói.

“Hôm qua con trai tôi vừa được tròn ba tuổi.” Anh rạng rỡ nói. “Chắc sẽ có vài bức hình từ buổi tiệc. Còn anh thì sao?”

“Chẳng có gì đặc biệt,” Beck nói. “Chỉ vài bài thẩm định của đồng nghiệp cho một nghiên cứu tôi viết cách đây vài năm.”

“Xong,” Johanssen nói. “Tất cả những thư từ cá nhân đều được chuyển vào máy tính của mọi người. Có một cập nhật đường truyền cho Vogel và một cập nhật hệ thống cho tôi. Hả… có một tin nhắn âm thanh gửi đến cả đoàn.”

Cô quay đầu nhìn về hướng Lewis.

Lewis nhún vai. “Mở nó lên đi.”

Johanssen mở tin nhắn ra, rồi ngồi dựa lưng xuống ghế.

“Hermes, đây là Mitch Henderson,” tin nhắn bắt đầu.

“Henderson?” Martinez kinh ngạc nói. “Nói trực tiếp với chúng ta mà không thông qua CAPCOM?”

Lewis giơ tay lên ra hiệu mọi người im lặng.

“Tôi có tin tức,” giọng Mitch tiếp tục nói. “Chẳng có cách nào vòng vo để nói chuyện này: Mark Watney vẫn còn sống.”

Johanssen thảng thốt.

“Cái cái…gì…” Beck lắp bắp.

Vogel đứng há hốc mồm với một biểu hiện bị sốc quét ngang gương mặt anh.

Martinez nhìn về hường Lewis. Cô đang nghiêng người về phía trước tay chống cằm.

“Tôi biết đó là một điều bất ngờ,” Mitch nói tiếp. “Và tôi biết mọi người sẽ có rất nhiều câu hỏi. Chúng tôi sẽ trả lời những câu hỏi đó. Nhưng giờ thì chúng tôi chỉ cho mọi người biết những điều sơ lược.

Cậu ấy còn sống và khỏe mạnh. Chúng tôi phát hiện ra điều đó hai tháng về trước và quyết định không nói cho mọi người biết; chúng tôi còn kiểm duyệt tất cả những tin nhắn cả nhân. Tôi đã kịch liệt phản đối tất cả những điều đó. Bây giờ chúng tôi mới nói cho mọi người biết vì mãi đến giờ mới thiết lập được liên lạc với cậu ấy và chúng tôi đã có được một kế họach cứu hộ có thể đạt được. Nói tóm lại đó chính là sẽ dùng Ares 4 để đón cậu ấy với một chiếc MDV được cải tiến.

“Chúng tôi sẽ viết báo cáo lại cho mọi sự việc đã xảy ra, nhưng chắc chắn đó không phải là lỗi của mọi người. Mark đã nhấn mạnh điều đó mỗi lần anh ta nói đến chuyện ấy. Đó chỉ là vận xui.

“Hãy dành chút thời gian để những thông tin này ngấm vào người. Ngày mai mọi thời gian nghiên cứu khoa học của các bạn đều để trống. Gửi tất cả những câu hỏi mà các bạn muốn hỏi và chúng tôi sẽ trả lời. Henderson nói xong.”

Tin nhắn kết thúc đem đến sự im lặng đầy choáng váng trong khoang cầu.

“Anh ấy… anh ấy còn sống?” Martinez nói, rồi mỉm cười.

Vogel phấn chấn gật đầu. “Anh ấy vẫn sống.”

Johanssen nhìn đăm đăm vào màn hình với đôi mắt to tròn vẫn chưa tin mọi thứ vừa nghe.

“Quỷ thần ơi,” Beck phá lên cười. “Quỷ thần ơi! Chỉ huy! Anh ấy vẫn còn sống!”

“Tôi đã bỏ anh ta lại,” Lewis trầm lặng nói.

Những hân hoan chúc mừng lập tức biến mất khi cả đoàn nhìn thấy vẻ mặt đau đớn khôn nguôi của chỉ huy.

“Nhưng,” Beck bắt đầu. “Chúng ta cùng rời…”

“Các anh chỉ nghe theo lệnh,” Lewis ngắt lời. “Tôi bỏ anh ta lại. Trong một vùng đất hoang, cằn cỗi, không ai đến được, cả chúa trời cũng lãng nên nó.”

Beck nhìn sang Martinez với ánh mắt nài xin. Martinez mở miệng, nhưng chẳng thể tìm được từ ngữ nào để thốt nên lời.

Lewis lê bước rời khỏi khoang cầu.

CHƯƠNG 13

Nhân viên ở Deyo Plastics làm việc hai ca. Có tin đồn sẽ phải làm cả ba ca nếu NASA tăng yêu cầu đơn hàng lần nữa. Chẳng ai thấy phiền. Tiền lương làm thêm giờ quá tuyệt còn vốn tài trợ thì không giới hạn.

Những sợi carbon dệt với nhau chạy chầm chậm qua máy ép, nằm xen giữa hai tấm nhựa polymer. Vật liệu hoàn chỉnh sẽ được gấp lại bốn lần và dán lại với nhau tạo thành một tấm vật liệu dày, sau đó nó được bọc lại bằng nhựa resin mềm, và đem sang một phòng nóng để nung chặt lại.

***

Nhật trình: Sol 114

Giờ khi NASA có thể nói chuyện với tôi, họ chẳng chịu im mồm gì cả.

Họ muốn cập nhật thường xuyên cho tất cả các hệ thống trong căn Hab, và họ có cả phòng đầy người để quản lý từng li từng tí chuyện trồng trọt của tôi. Thật tuyệt vời khi có cả đống kẻ mắc dịch mắc gió dưới Trái đất chỉ cho tôi, một nhà thực vật học, làm thế nào để trồng cây.

Hầu như tôi lờ họ hết. Tôi không muốn tỏ ra hơi kiêu ngạo ở đây, nhưng tôi là nhà thực vật học giỏi nhất hành tinh này.

Một cái lợi lớn: Email! Cũng như những ngày trên Hermes, tôi được truyền dữ liệu. Đương nhiên họ gửi email từ bạn bè và gia đình, nhưng NASA cũng chọn lọc vài tin nhắn từ công chúng để gửi kèm theo. Tôi đã có email từ mấy ngôi sao nhạc rock, vận động viên, diễn viên và thậm chí là từ Ngài Tổng thống.

Bức đọc sướng nhất là từ trường học của tôi, Đại học Chicago. Họ nói một khi bạn đã gieo trồng cây trái ở đâu đó, bạn đã chính thức chiếm nó làm thuộc địa. Do đó, về mặt kỹ thuật, tôi đã chiếm sao Hỏa làm thuộc địa.

Sáng mắt ra chưa, Neil Armstrong!

Tôi sang con rover mỗi ngày năm lần để kiểm tra email. Họ có thể truyền tin nhắn từ Trái đất đến sao Hỏa, nhưng không thể đưa nó đi thêm 10 mét đến căn Hab. Nhưng mà này, tôi không thể càm ràm. Cơ hội sống sót của tôi trong vụ này giờ đã cao hơn nhiều rồi.

Lần cuối cùng nghe tin tức, họ đã giải quyết được vấn đề trọng lượng chiếc MDV của Ares 4. Khi nó hạ cánh xuống đây, họ sẽ bỏ miếng chắn nhiệt, và tất cả những thứ để duy trì sự sống khác, và một vài thùng xăng rỗng. Rồi họ có thể đem cả bảy người bọn tôi (đoàn Ares 4 và tôi) đi tuốt luốt đến Schiaparelli. Họ đã tính toán hết các nhiệm vụ bề mặt mà tôi sẽ phải làm rồi. Hay quá đi chứ?

Một tin khác nữa,  tôi đang học mã Morse. Tại sao? Bởi vì đó là hệ thống liên lạc phòng hờ của chúng tôi. NASA cho rằng dùng một con tàu do thám hơn chục tuổi làm hệ thống liên lạc duy nhất chẳng phải là một điều lý tưởng lắm.

Nếu Pathfinder trở chứng, tôi sẽ đánh vần tin nhắn bằng sỏi đá, và NASA có thể nhìn thấy nó qua vệ tinh. Họ không thể trả lời, nhưng ít ra chúng tôi cũng có thể liên lạc được một chiều. Vì sao dùng mã Morse? Đó là vì dùng sỏi đá để tạo dấu chấm và gạch ngang thì dễ dàng hơn là viết thành chữ.

Đó thật là một cách rối rắm để liên lạc. Hy vọng không phải dùng đến.

***

Các phản ứng hóa học đã hoàn thành, và tấm vật liệu được tiệt trùng rồi đem đến một phòng sạch. Ở đó, một người công nhân cắt từng dải từ mép của nó. Anh ta chia những dải ấy thành những ô vuông nhỏ, rồi cho từng miếng vuông ấy trải nghiệm những chuỗi thí nghiệm khắc nghiệt.

Sau khi qua được khâu kiểm tra, tấm vật liệu được cắt thành hình dạng của nó. Phần méo được xếp lên, may lại và dán lại lần nữa bằng nhựa resin. Một người đàn ông với tấm bảng kẹp kiểm tra lại lần cuối cùng, xác định một cách độc lập lại tất cả kết quả đo lường, và duyệt cho nó được đem ra sử dụng.

***

Nhật trình: Sol 115

Đám thực vật học thích xen vào chuyện của người khác đã bất đắc dĩ thừa nhận rằng tôi làm rất tốt. Họ đồng ý rằng tôi sẽ có đủ thức ăn để sống đến Sol 900. NASA ghi nhớ điều đó, và đã làm rõ hết những chi tiết cho phi vụ đem đồ dự trữ lên.

Ban đầu, họ tính ra được một kế hoạch liều lĩnh đến chết để đưa tàu lên đây trước Sol 400. Nhưng tôi đã cho họ thêm 500 sol nhờ vào nông trại khoai tây của mình nên họ có thêm thời gian để làm.

Họ sẽ phóng tàu vào năm sau vào Thời Điểm Chuyển Giao Hohmann 6 , và sẽ mất gần 9 tháng để đến được đây. Nó sẽ đến khoảng Sol 856. Và nó sẽ mang theo nhiều thức ăn, một máy lọc ôxy, máy lọc nước và hệ thống liên lạc. Đúng hơn là ba hệ thống liên lạc. Tôi đoán là họ không muốn làm liều điều gì, với cái kiểu tôi có thói quen ở gần mấy cái radio bị hư hỏng như thế.

Hôm nay tôi nhận được email đầu tiên từ Hermes. NASA bữa giờ đã giới hạn những liên hệ trực tiếp. Tôi đoán rằng họ sợ tôi sẽ nói mấy lời như “Tụi bây bỏ lại tao trên sao Hỏa hả đám chết dịch kia!” Tôi biết cả đoàn sẽ bất ngờ khi nghe tin tức từ Bóng Ma của Phi vụ Sao Hỏa, nhưng mà thôi đi chứ. Đôi khi tôi ước gì NASA đừng có như cô vú em vậy. Dù sao thì, cuối cùng học cũng cho phép Martinez gửi một email đến.

Watney thân mến: Xin lỗi đã bỏ anh lại, nhưng chúng tôi không thích anh. Anh là một kẻ hơi bị tinh tướng quá. Và trên Hermes này cũng rộng chỗ hơn khi không có anh. Chúng tôi phải thay phiên làm những nhiệm vụ của anh, nhưng chỉ là ba mấy cái thực vật học (vốn không phải môn khoa học thật sự) nên cũng dễ ẹc thôi. Sao Hỏa thế nào?

- Martinez

Trả lời của tôi:

Martinez thân mến: Sao Hỏa cũng thường thôi. Khi tôi cô đơn tôi nghĩ đến đêm nóng bỏng mà tôi đã được tận hưởng bên mẹ của anh. Mọi chuyện trên Hermes thế nào? Chật chội và sợ hãi sự ngột ngạt đúng không? Hôm qua tôi ra ngoài và nhìn đường chân trời bao la. Nói anh biết nha, Martinez, chúng đi đến vô tận vô cùng!

-Watney

***

Những công nhân cẩn thận xếp tấm vật liệu, và đặt nó lên một công ten nơ dùng để gửi hàng được chứa đầy khí argon và khóa chặt lại. Một người đàn ông với tấm bảng kẹp in ra một tấm giấy dán, và ịn nó vào cái thùng. “Dự án Ares-3; Vải bạt Hab; Mẫu AL102.”

Thùng hàng được đặt lên một máy bay chuyên dụng và bay đến Trạm Không Quân Edwards ở California. Nó bay ở một độ cao bất thường, tốn rất nhiều xăng dầu, để đảm bảo một hành trình êm ả.

Khi đến nơi, thùng hàng được cẩn thận một đoàn hộ vệ đặt biệt vận chuyển nó đến Pasadena. Đến đó, nó được mang đến Phòng Trắng JPL để lắp ráp vào con tàu. Trong vòng 5 tuần tới, các kỹ sư trong những bộ đồng phục toàn thân màu trắng lắp ráp Tàu Dự Trữ 309. Nó chứa AL102 cũng như 12 thùng Vải Bạt Hab khác.

***

Nhật trình: Sol 116

Đã sắp đến kỳ thu họach thứ hai.

A lế a lê.

Tôi ước gì mình có một cái mũ rơm và một vài sợi dây đeo quần.

Những củ khoai tây được gieo hạt lại mọc rất tươi tốt. Tôi bắt đầu thấy rằng trồng trọt trên sao Hỏa cực kỳ sai quả, nhờ vào những thiết bị duy trì sự sống đáng giá hàng tỷ đô là xung quanh tôi. Bây giờ tôi có 400 cây khoai tây xanh tươi, mỗi cây tạo sẽ tạo ra những viên khoai tây đầy calorie cho tôi tận hưởng. Chỉ trong mười ngày nữa thôi chúng sẽ chín đến nơi!

Vào thời điểm này, tôi không trồng hạt của chúng lại. Đây là nguồn lương thực của tôi. Tất cả đều là khoai tây sao Hỏa tự nhiên, hữu cơ. Bạn chẳng nghe điều đó mỗi ngày, đúng không nào?

Bạn có lẽ đang tự hỏi tôi sẽ dự trữ chúng thế nào. Tôi không thể chất nó thành đống; phần lớn bọn chúng sẽ hư mất trước khi tôi kịp ăn chúng. Cho nên, tôi làm việc mà nếu ở dưới Trái đất thì sẽ chẳng thể nào làm được: Ném chúng ra ngoài.

Phần lớn lượng nước bên trong sẽ bị hút ra ngoài trong tình trạng gần như chân không; những gì còn lại sẽ đông lạnh cứng ngắt lại. Bất cứ tên vi trùng nào đang dự tính làm mục rữa mấy củ khoai của tôi sẽ chết không kịp ngáp.

Còn một tin khác, tôi có email từ Venkat Kapoor:

Mark, vài câu trả lời cho những câu hỏi trước của cậu:

Không, chúng tôi sẽ không nói với Đội Thực vật học của mình “Tụi bây đi chết đi.” Tôi biết rằng anh đã một thân một mình khá lâu rồi, nhưng giờ chúng tôi đã có mặt đây,và tốt nhất là anh nghe những gì chúng tôi muốn nói.

Đội Chicago Cubs mùa bóng này nằm chót giải NL Central.

Vận tốc chuyển dữ liệu không đủ để gửi những tệp tin âm nhạc, ngay cả khi chúng được nén lại. Cho nên yêu cầu “Gì cũng được nhưng Chúa ơi, đừng gửi Disco” của anh đã bị từ chối. Hãy thưởng thức mấy ‘ca khúc bất hủ’ của anh đi nhá.

Ngoài ra, một điều vặt hơi khó chịu nữa… NASA đang thành lập một hội đồng. Họ muốn xem xét coi có lỗi nào đã có thể tránh được nhưng lại dẫn đến chuyện anh bị mắc kẹt. Cảnh báo cho anh biết trước thôi. Sau này họ có thể có câu hỏi dành cho anh.

Nhớ cho chúng tôi biết những hoạt động của anh.

- Kapoor

Thư trả lời của tôi:

Venkat, nói với hội đồng điều tra rằng bọn họ có thể làm một cuộc săn thần bắt quỷ mà không có mặt tôi. Và nếu họ cứ vậy mà đổ lỗi cho Chỉ huy Lewis thì nên nhớ rằng tôi sẽ chối đây đẩy trước công chúng nhé.

Còn nữa, làm ơn nói với mỗi người bọn họ rằng mẹ của họ là những con gà móng đỏ.

- Watney

PS: Cả chị em gái của họ nữa.

***

Những chiếc tàu gửi đồ dự trữ cho Ares 3 xuất phát trong 14 ngày liên tục vào thời điểm Chuyển giao Hohmann. Tàu đồ dự trữ 309 là chuyến thứ ba khởi hành. Hành trình 251 ngày đến sao Hỏa chẳng có biến cố nào, ngoại trừ hai lần điều chỉnh đường đi nho nhỏ thôi.

Sau vài thao tác thắng trong không khí để đi chậm lại, nó làm cú hạ cánh cuối cùng về hướng Acidalia Planitia. Đầu tiên, nó chịu đựng giai đoạn trở về khí quyển nhờ tấm chắn chống nhiệt. Sau đó, nó thả dù và tự tháo rời khỏi tấm chắn đã không còn dùng được.

Khi ra-đar trên tàu nhận thấy rằng nó chỉ còn cách mặt đất 30 mét, nó sẽ cắt dù và thổi phồng bong bóng xung quanh vỏ tàu. Nó rơi lấc cấc xuống bề mặt, bậc nẩy lên xuống rồi lăn quay ra đó cho đến khi nào dừng lại mới thôi.

Máy tính trên tàu làm xẹp những quả bóng, rồi báo cáo lại với Trái Đất rằng nó đã hạ cánh thành công.

Rồi nó chờ 23 tháng.

***

Nhật trình: Sol 117

Máy lọc nước lại trở chứng nữa.

Sáu người sẽ dùng 18 lít nước mỗi ngày. Cho nên máy được thiết kế để lọc 20 lít. Nhưng gần đây, nó chẳng làm nổi nhiêu đó nữa. Nhiều nhặn lắm là 10 lít thôi.

Mỗi ngày tôi có thể tạo ra 10 lít nước không? Không, nhưng tôi cũng chẳng phải là nhà tiểu tiện vô định. Chính là đám nông sản. Độ ẩm bên trong căn Hab giờ cao hơn hẳn định mức nó được thiết kế để chịu đựng, cho nên máy lọc liên tục chắt lọc nước từ không khí.

Tôi không lo lắng vì điều đó. Nước là nước thôi. Cây cỏ dùng nước, tôi dùng nước. Nếu cần, tôi có thể tè trực tiếp lên cây luôn. Nó sẽ bốc hơi và đọng lại trên tường. Tôi chắn rằng mình có thể tạo ra một thứ gì đó để thu thập nó. Vấn đề là, nước không thể đi đâu được cả. Đây là một hệ thống kín. Hơn nữa, tôi đã tạo ra 600 lít nước từ nhiên liệu của MDV (bạn còn nhớ sự kiện “vụ nổ căn Hab” chứ?). Tôi có thể tắm vài bồn nước mà vẫn còn thừa lại cả mớ ấy chứ.

Tuy nhiên, NASA đang quýnh quáng cả lên. Họ xem máy lọc nước là một nhân tố quyết định cho sự sống còn. Chẳng có gì để dự phòng, và họ nghĩ tôi sẽ chết không kịp ngáp nếu không có nó. Đối với họ, hệ thống hư hỏng là một điều khiếp hãi. Đối với tôi, đó là một ngày “thứ ba” như bao ngày khác thôi.

Cho nên thay vì chuẩn bị thu họach vụ mùa, tôi phải làm thêm vài chuyến đi tới đi lui đến chỗ con rover để trả lời những câu hỏi của họ. Mỗi tin nhắn mới lại có hướng dẫn tôi thử vài giải pháp và báo cáo kết quả.

Đến giờ chúng tôi đã kết luận đó không phải do điện tử, điện lạnh, trang thiết bị chung chung, và nhiệt độ. Tôi chắc rằng nó hóa ra là một cái lỗ nho nhỏ đâu đó, rồi NASA sẽ có một cuộc họp dài bốn tiếng đăng đẳng trước khi kêu tôi dùng băng keo chuyên dụng dán nó lại.

***

Lewis và Beck mở thùng Presuppy 309. Họ cố gắng hết sức khi phải làm việc trong bộ đồ EVA cồng kềnh, họ trải ra những phần khác nhau của vải bạt căn Hab và đặt chúng xuống đất. Có đến tận ba chuyến tàu gửi đồ dự trữ chỉ dành riêng cho căn Hab thôi.

Họ làm theo quy trình đã tập luyện cả trăm lần, lắp ráp từng mảnh một cách đầy hiệu năng. Những dải băng dán đặc biệt giữa các mảnh vải bạt lớn đảm bảo các mối vải được kín hơi.

Sau khi dựng lên cấu trúc chính của căn Hab, họ lắp ráp ba cửa khóa khí vào. Tấm AL102 có một cái lỗ vừa vặn cho Cửa khóa khí 1 (Airlock 1). Beck kéo tấm vải căng ra trên dải băng dán đặc biệt nằm bên ngoài cửa khóa khí.

Khi tất cả các cửa khóa khí đã đâu vào đấy, Lewis thả ngận không khí vào căn Hab và đó là lần đầu AL102 cảm nhận được áp suất bên trong. Họ đợi một giờ. Không bị mất áp suất; việc dựng trại đã hoàn thành mỹ mãn.

***

Nhật trình: Sol 118

Cuộc đối thoại của tôi với NASA về máy lọc nước chán như con gián và nói những chi tiết kĩ thuật khó hiểu. Cho nên để tôi giản dịch lại cho bạn:

Tôi: “Rõ ràng đây là một vụ tắc nghẽn. Hay là tôi tháo từng bộ phận của nó ra để kiểm tra các ống dẫn bên trong?”

NASA: (Sau 5 tiếng đồng hồ suy tính thiệt hơn) “Không. Anh sẽ làm sai be bét và ngủm ngay.”

Thế nên tôi tháo nó ra.

Vâng, tôi biết. NASA có rất nhiều người thông minh xuất chúng siêu đẳng và tôi rất là nên làm theo lời họ nói. Và tôi quá ư là đáng ghét, nhất là khi họ dành cả ngày tìm cách để cứu mạng tôi.

Nhưng chỉ là tôi thấy ngán ngẩm vì cứ được chỉ dẫn làm thế nào để tự lau mông của mình. Tự lập là một trong những tư chất họ tìm kiếm khi lựa chọn phi hành gia cho Ares. Đó là một phi vụ kéo dài 13 tháng, và phần lớn thời gian là ở nơi cách Trái Đất và vài phút ánh sáng. Họ muốn người đó có thể tự hoạt động theo chủ kiến, nhưng cùng lúc đó cũng nghe lời Chỉ huy của họ.

Nếu Chỉ huy Lewis ở đây, tôi sẽ làm bất cứ điều gì cô ấy yêu cầu, chẳng vấn đề gì cả. Nhưng một hội đồng quan liêu không mặt không mũi tuốt dưới Trái Đất? Xin lỗi, tôi thấy chuyện đó thật khó mà thuận theo được.

Tôi đã rất cẩn thận. Tôi dán nhãn cho tất cả những miếng tôi gỡ ra, và đặt chúng lên bàn. Tôi có sơ đồ sẵn trong máy tính, nên cũng chẳng có gì bất ngờ với tôi.

Và ngay như tôi dự đóan, có một ống dẫn bị nghẽn. Máy lọc nước được thiết kết để thanh lọc nước tiểu và vắt hết độ ẩm ra khỏi không khí (lượng nước bạn thở ra cũng nhiều bằng lượng nước bạn tiểu ra). Tôi trộn nước với đất, biến chúng thành một nước khoáng. Khóang chất tích tụ lại trong máy lọc nước.

Tôi lau chùi sạch sẽ chiếc ống dẫn và ráp mọi thứ lại như cũ. Nó hoàn toàn giải quyết vấn đề ấy. Một ngày nào đó tôi phải làm chuyện này lại lần nữa, nhưng chắc cũng phải 100 sol không chừng. Chẳng vấn đề gì cả.

Tôi nói cho NASA biết mình làm gì. Đoạn hội thoại (được giản dịch) của chúng tôi như sau:

Tôi: “Tôi tháo nó ra, tìm ra vấn đề, sửa nó xong rồi.”

NASA: “Đồ chết bầm.”

***

AL102 run lập cập trong cơn bão kinh khiếp. Nó chịu đựng những lực đập và áp suất cao hơn nhiều so với thiết kế vốn có, nó phập phồng mạnh bạo dọc theo dải băng dán đặc biệt của cửa khóa khí. Những bộ phận khác của tấm vải bạt cũng dập dờn theo, như thể chúng là một mảnh vải lớn, nhưng AL102 thì không như thế. Cửa khóa khí thậm chí còn không nhúc nhích chút xíu nào, khiến cho AL102 phải gánh hết tất cả những sự giận dữ mạnh bạo của cơn bão.

Tầng tầng lớp lớp của tấm nhựa lớn liên tục bị uốn cong, duy chỉ lực ma sát thôi cũng đủ làm nhựa resin bị nóng dần lên. Môi trường mới lạ khiến những sợi carbon tách rời dễ dàng.

AL102 cứ thế mà giãn ra.

Không nhiều lắm. Chỉ 4 milli mét thôi. Nhưng những sợi carbon ấy, thường chỉ cách nhau 500 micron, ở đâu đó trên người chúng giờ lại có một khoảng cách dài gấp tám lần khoảng cách bình thường.

Sau khi cơn bão qua đi, người phi hành gia đơn độc còn lại tiến hành một cuộc kiểm tra toàn diện cho căn Hab. Nhưng anh không để ý thấy có điều gì bất thường. Phần suy yếu của tấm vải bạt được che dấu dưới mảnh băng dán đặc biệt.

AL102 được thiết kế cho một phi vụ chỉ kéo dài 31 sol, nhưng nó đã tiếp tục nhiệm vụ quá hạn sử dụng của mình nhiều ngày lắm rồi. Hết sol này rồi đến sol khác, người phi hành gia đơn độc ra ra vào vào căn Hab gần như mỗi ngày. Airlock 1 nằm gần trạm sạc điện của rover hơn, nên người phi hành gia ấy thích dùng cửa ấy hơn hai cửa kia.

Khi có áp suất, cửa khóa khí hơi giãn ra; khi giảm áp suất, nó teo lại. Mội lần người phi hành gia ấy dùng cửa khóa khí, AL102 cứ giãn ra, rồi lại căng lên.

Kéo, duỗi, giãn, yếu dần đi…

***

Nhật trình: Sol 119

Tối qua tôi thức giấc trong sự rung động của căn Hab.

Cơn bão cấp trung kết thúc bất ngờ như sự bắt đầu của nó. Chỉ là một cơn bão cấp 3 với sức gió 50km/giờ. Không có gì đáng lo ngại. Nhưng, tôi vẫn có một chút luống cuống vì nghe tiếng gió hú, nhất là khi tôi đã quen thuộc với sự tĩnh mịch hoàn toàn.

Tôi lo lắng về Pathfider. Nếu cơn bão làm hư hỏng nó, tôi sẽ mất liên lạc với NASA. Theo logic thì tôi không nên nghĩ ngợi. Nó đã nằm trên bề mặt cả vài thập kỷ. Một chút gió hiu hiu chẳng làm được gì nó cả.

Khi tôi ra ngoài, tôi xác định được rằng Pathfinder vẫn còn hoạt động bình thường trước khi tiếp tục phần công việc phiền não đẫm mồ hôi của ngày hôm đó.

Vâng, mỗi cơn bão cát đem đến một nhiệm vụ chẳng trốn đi đâu được đó là Phủi bụi các bản pin mặt trời. Đó là một truyền thống được những Người Sao Hỏa nồng nhiệt chân thành như tôi luôn trân quý. Nó gợi tôi nhớ lại thời gian lớn lên ở Chicago và phải xúc tuyết. Tôi sẽ nói lời cảm tạ đến bố tôi; ông không bao giờ lập luận rằng những việc đó để xây dựng tính cách con người tôi hoặc dạy dỗ tôi giá trị của việc lao động cật lực.

“Máy thổi tuyết quá mắc tiền,” ông thường hay nói thế. “Còn mày thì miễn phí.”

Có một lần, tôi muốn ‘kháng cáo’ lên với mẹ. “Đừng có mà nhõng nhẽo,” mẹ tôi đáp.

Còn một tin tức khác, chỉ bảy ngày nữa thôi là đến ngày thu hoạch, và tôi vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng. Trước hết, tôi cần phải tạo ra một cái cuốc. Ngoài ra, tôi cần phải xây thêm một cái chòi bên ngoài để chứa khoai tây. Tôi không thể cứ thế mà chất chồng chúng ngoài kia được. Cơn bão kế tiếp sẽ dẫn đến Cuộc di cư lớn của Khoai Hỏa tinh mất.

Dù sao thì những chuyện đó cũng phải chờ thôi. Hôm nay tôi có đủ việc cho cả ngày. Sau khi lau chùi các bảng pin, tôi phải kiểm tra tổng thể cả dàn pin để đảm bảo cơn bão đã không gây hư hại nào. Rồi tôi phải làm y chang vậy cho con rover.

Tôi nên bắt đầu thôi.

***

Airlock 1 chầm chậm giảm áp suất xuống còn 1/90 atm. Watney trong bộ áo EVA của mình đang chờ đợi cho xong xuôi. Anh đã làm việc này cả trăm lần. Nếu anh đã từng có sự e dè nào vào ngày Sol 1 thì nó cũng đã ra đi từ lâu rồi. Giờ nó thỉ là một việc vặt chán chường trước khi đi ra ngoài.

Trong khi sự giảm áp suất tiếp tục, khí quyển trong căn Hab đè nén cửa khóa khí và AL102 giãn ra một lần cuối cùng.

Vào Sol 119, căn Hab bị thủng lỗ.

Một vết xước ban đầu dài chưa đến 1 millimet. Những sợi carbon nằm hướng trực giao đã có thể phòng ngừa vết rách càng toạc to ra thêm. Nhưng vô số những lần lạm dụng đã khiến nó giãn đến độ những sợ dọc bị thưa thớt hẳn và những sợi ngang suy yếu không còn có thể dùng được.

Toàn bộ khí quyển của căn Hab trào qua lỗ thũng. Chỉ trong vòng một phần mười giây, vết rách đã dài cả mét, chạy song song với băng dán đặc biệt. Nó lan truyền một vòng cho đến khi gặp lại điểm bắt đầu. Cửa khóa khí giờ đây không còn dính vào căn Hab nữa.

Khi căn Hab bùng nổ, áp suất không gì ngăn cản liền hung tợn phóng cửa khóa khí như phóng một viên đại bác. Bên trong, kẻ đang kinh ngạc, Watney, bị lực thải ném văng vào cửa sau của cửa khóa khí.

Cửa khóa khí bay 40 mét rồi mới rơi xuống đất. Watney vẫn chưa kịp hoàn hồn sau cú sốc thứ nhất, liền phải chịu ngay một cú sốc nữa khi anh văng đập mặt vào cửa trước.

Miếng che mặt của áo anh chịu mũi giùi của cú đập, kiếng an toàn vỡ toang thành trăm mảnh nho nhỏ. Đầu anh đập mạnh vào bên trong của nón bảo hiễm khiến anh choáng váng.

Cửa khóa khí loạng choạng lăn vòng trên bề mặt thêm 15 mét nữa. Phần đệm dày cộm trong bộ áo của anh đã cứu anh khỏi gãy thêm vài cái xương sườn. Anh cố gắng hiểu xem tình hình là như thế nào, nhưng anh đang trong tình trạng gần như bất tỉnh.

Cửa khóa khí cuối cùng cũng xong với việc lăn cù mèo, nó nằm nghiêng nghỉ ngơi trong đám bụi mù mịt.

Watney nằm ngửa ra, đăm đăm nhìn vô hồn phía trên qua cái lỗ nhỏ trên miếng che mặt đã vỡ vụn của mình. Một vết cắt trên trán anh nhiễu từng giọt máu xuống gương mặt.

Anh dần dần khôi phục chút tỉnh táo, và định hình lại phương hướng của mình. Anh quay đầu sang một bên, nhìn xuyên qua cửa sổ trên cánh cửa phía sau. Căn Hab đã bị sụp đổ đang bay phấp phới ở xa xa, một bãi tha ma đầy những mảnh đổ nát vương vãi khắp địa hình trước mặt nó.

Rồi, một tiếng huýt gió vang vọng đến tai anh. Anh cẩn thận lắng nghe, và nhận ra nó không phải đến từ bộ áo của mình. Đâu đó trong căn khóa khí to bằng cái buồng điện thoại này, một lỗ thủng nhỏ đang để khí thoát ra ngoài.

Anh chăm chú nghe tiếng rít. Rồi anh chạm tay vào miếng che mặt bị vỡ của mình. Rồi anh nhìn ra cửa sổ lần nữa.

“Mày đang đùa với tao ấy à?” Anh nói.