← Quay lại trang sách

Người Mỹ

Nếu không vì đứa con gái và bà vợ, James Carver hẳn không bao giờ đánh liều tới Việt Nam, một xứ sở mà ông hầu như chẳng biết gì về nó ngoại trừ hình dáng của nó khi nhìn từ trên cao cỡ mười hai cây số. Nhưng Michiko đã nhất quyết thăm viếng xứ ấy sau khi Claire rủ họ, thư điện tử của nó đề gởi cho Má với Ba nhưng thực ra muốn nói chuyện với má nó. Michiko là người muốn tới Việt Nam, sau khi nghe những người họ hàng từng du lịch đến đó nói rằng xứ này gợi nhớ đến quá khứ điền viên của nước Nhật, trước khi tướng MacArthur dùng bàn tay tái thiết hậu chiến để trét lớp son phấn Tây phương lên khuôn mặt đất nước hoa anh đào. Tuy nhiên, Carver không quan tâm lắm đến những huyễn tưởng điền dã, sau khi đã trải qua tuổi thơ tại một ngôi làng ở Alabama từng bị rút sạch hy vọng trước khi ông ra đời. Ông đã không chịu đi cho đến khi Michiko thỏa hiệp, đề nghị lấy Angkor Wat làm khúc dạo đầu và những bãi biển cùng đền đài Thái Lan làm hậu từ cho một quãng lưu trú ngắn ở Việt Nam.

Ðó là nguồn gốc của chuyện Carver thấy mình có mặt ở Huế vào tháng Chín, thả bộ chậm rãi qua khuôn viên của một lăng mộ hoàng gia cùng Michiko, Claire, và Khôi Legaspi, bạn trai của nó. Thái độ lạc quan và bình thản của Legaspi khiến Carver khó chịu, cũng như vẻ lạc điệu giữa bề ngoài Á Ðông và cái họ của Legaspi, vốn nhận được từ cha mẹ nuôi của cậu ta. Chàng thanh niên, có lẽ thấy được cảm giác mâu thuẫn này, nên rất quan tâm tới ông trong suốt thời gian lưu trú, nhưng Carver thấy sự chăm sóc này có vẻ kẻ cả hơn là ân cần.

Trước khi bước vào chuyến thăm viếng các lăng mộ hoàng gia sáng nay chẳng hạn, Legaspi đã cố tỏ ra đồng cảm với Carver bằng cách kể chuyện bố cậu ta bị buộc phải dùng gậy chống khi đi bộ như thế nào. “Vậy còn tệ hơn tình trạng của bác,” Legaspi nói. Nhận xét ấy khiến Carver bực mình, vì nói vậy là hàm ý rằng ông hơi than vãn về việc bị gãy xương hông ba năm trước do té cầu thang trong nhà của chính ông. Bây giờ ông đã sáu mươi tám và khập khiễng, quyết tâm không để Legaspi đi nhanh hơn khi cậu ta dẫn họ qua khuôn viên của khu lăng mộ vốn trông rất giống một hành cung mùa hè, tháp lầu của nó nhìn xuống một đường hào trồng đầy sen.

“Có thể cháu sẽ trở lại và học xong bằng tiến sĩ,” Legaspi nói để trả lời cho một câu hỏi của Michiko. Gọn gàng và thanh mảnh trong chiếc quần kaki và áo thun thể thao màu cam sẫm, cậu ta trông giống những sinh viên ở Bowdoin la cà ngoài đường mà Carver thấy mỗi khi ông lái xe xuống phố. “Nhưng cũng có thể không. Nghĩ lại, cháu thấy nghiên cứu không thôi thì chưa đủ. Cháu muốn ứng dụng việc nghiên cứu.”

“Bác muốn thấy người máy của cháu hoạt động.” Michiko lướt tay theo sườn của một bức tường phủ rêu cả ngàn năm tuổi, đen bóng lên theo thời gian. Cái quá khứ hoàng gia được ám chỉ tới thì hầu như chẳng hề vĩ đại như điện Buckingham hoặc Versailles mà Carver từng thấy trong những lúc tạm nghỉ trên những tuyến đường Âu châu khi ông còn lái máy bay cho Pan Am, nhưng lăng mộ này có vẻ quyến rũ u sầu riêng của nó. “Với con cầy lỏn nữa.”

“Còn ngày kia thì sao?” Legaspi nói. “Cháu có thể tổ chức một buổi trình diễn.”

“Ba nghĩ sao, ba?” Carver lại nhìn thấy dấu chân chim quanh mắt Claire, mới hằn thêm từ khi nó rời nhà qua Việt Nam hai năm trước. Con bé mới hăm sáu. “Nó sẽ có tính giáo dục.”

“Angkor Wat khá mang tính giáo dục.” Carver không thích bị giáo dục trong những kỳ nghỉ. “Và chúng ta đã tham quan bảo tàng chiến tranh khủng khiếp đó ở Sài Gòn. Ba thực tình không thích thấy những cảnh kinh hoàng nữa.”

“Thứ mà ba sẽ thấy là tương lai của việc gỡ mìn,” Claire nói. “Không phải cảnh người ta bò bằng đầu gối rồi đào mìn lên bằng tay nữa.”

“Thế loại người máy này không khiến người ta mất việc sao?”

“Ðó không phải loại công việc mà người ta nên làm,” Legaspi nói. “Người máy được chế ra để giải phóng con người khỏi nguy hiểm và nô dịch.”

Hai tai của Carver co giật. “Cậu nói Bộ Quốc phòng tài trợ nghiên cứu của giáo sư hướng dẫn cho cậu ở MIT. Chính xác thì cậu nghĩ tại sao Bộ Quốc phòng lại quan tâm tới mấy con người máy này?

“Ba,” Claire kêu.

“Tìm thấy tiền ở chỗ nào thì phải lấy ở chỗ đó bác ơi.” Legaspi nhún vai. “Thế giới đâu phải là một nơi thuần khiết.”

“Ồ, vậy sao...”

“Jimmy,” Michiko nói.

“Bác chỉ muốn nói rằng đừng đánh giá thấp khối công nghiệp – quân sự.”

“Con nghĩ ba biết rồi,” Claire nói.

“Một bức ảnh thì sao nhỉ?” Legaspi đề nghị. Carver rên thầm trong bụng. Ông ghét chụp hình, nhưng Michiko thích ghi nhớ mọi dịp, quan trọng cũng như vặt vãnh. Chiều lòng bà, ông đứng vào chỗ của mình giữa vợ và con gái, chính họ cũng được hộ vệ bằng những tượng quan lại bằng đá xám, có râu dê và đeo gươm trên vai. Họ còn thấp hơn cả Michiko và Claire, và Carver cho rằng đó là kích cỡ thật của họ vào thời của vị hoàng đế này mà bất ngờ ông không nhớ được tên khi Legaspi nhìn vào ống kính. Thực sự đây là khu lăng thứ ba dọc sông Hương mà họ đến viếng, nhưng Carver vẫn phiền lòng vì ông không nhớ được tên của vị hoàng đế mà Legaspi đã nhắc đến nhiều lần.

Ông vẫn chưa sẵn sàng trước việc đầu óc ngày càng trở nên kém minh mẫn vì tuổi tác. Người ta cho rằng “gừng càng già càng cay”, nhưng ông không chắc chắn được sự khôn ngoan sẽ như thế nào, trong khi ông biết về mặt khoa học, sự thông minh là việc phóng tín hiệu liên tục qua khu tiếp hợp giữa các thần kinh, não bộ là một khẩu súng máy Gatling sáu nòng xoay đang hoạt động. Bây giờ trí óc của ông chỉ bắn ra những ý tưởng qua một hoặc hai nòng. Ông không chậm như thế này hồi Claire và William mới sinh, khi tiếng quấy khóc về đêm của tụi nhỏ thường đánh thức ông. Bây giờ con trai ông đã hăm tám, và Carver xác định mình bắt đầu xuống sức là từ lễ tốt nghiệp Học viện Không quân của William hồi sáu năm trước, một trong những khoảnh khắc đáng tự hào nhất trong đời Carver. William cũng trở thành phi công, nhưng nó không sung sướng gì khi lái một chiếc KC-135, tiếp nhiên liệu cho những oanh tạc cơ và chiến đấu cơ đang tuần tra trên vùng trời Iraq và Afghanistan. “Thiệt là chán, ba,” William đã nói thế qua điện thoại trong lần trò chuyện gần đây nhất giữa hai cha con. “Con là loại tài xế chở hàng.”

“Chở hàng cũng tốt,” Carver nói. “Chở hàng cũng đáng trọng chứ.”

Quan trọng nhất là, lái máy bay chở nhiên liệu thì an toàn, không như công việc của chính Carver trong những năm tại ngũ khi ông lái B-52, thứ máy bay như con cá voi xanh vụng về mà ông yêu thương sâu đậm đến mức giờ đây trong ông vẫn còn vương chút thèm khát. Trong những đợt phục vụ khác nhau vào cuối thập niên sáu mươi và đầu thập niên bảy mươi, ông đã cất cánh từ Guam, Okinawa, và Thái Lan, chưa bao giờ cảm thấy tự do hơn khi ở trong buồng lái chật cứng, được giao phó một cỗ máy dũng mãnh mang theo ba mươi tấn bom sắt, và mặc dù thế nó cũng dễ tổn thương như một á thần Hy Lạp. Hai oanh tạc cơ trong phi đội của ông đã tông vào nhau trên biển Ðông, xác của phi hành đoàn không bao giờ được tìm thấy, trong khi một chiếc B-52 khác trong tổ của ông bị biến thành một thập giá bốc cháy lúc nó rơi trong bầu trời đêm, cái đuôi bị hỏa tiễn đất đối không cắt cụt, hai phi công sống sót lưu trú bốn năm sau đó trong khách sạn Hilton Hà Nội[link=#_ftn14][14][/link]. An toàn vẫn tốt hơn, Carver muốn nói với William như thế nhưng kềm lại được. William có thể đã nghe một lời nói dối. Là phi công, William biết rằng nếu được sống lại từ đầu, cha của nó sẽ không ngần ngại một lần nữa chui qua khe hẹp sau khẩu súng trong phần bụng của thân máy bay B-52, động tác bước vào luôn khiến ông rùng mình với cảm giác trông đợi.

Sáng hôm sau Claire thuê một xe tải nhẹ, chạy xe hai tiếng đồng hồ để đưa ba mẹ ra Quảng Trị, nơi cô đang sống và cũng là nơi đặt cơ sở cho hoạt động gỡ mìn của Legaspi. Khi Claire dẫn họ tới căn hộ của cô, Carver nhẹ nhõm khi thấy chỉ có một cái giường nhỏ, giăng sẵn mùng. Một cửa sổ và những khe hẹp nằm ngang trên đầu các bức tường làm chỗ thông gió, không khí được lùa quanh phòng bằng một cái quạt trần quay chậm rãi như con gà trên xiên nướng. Khu bếp có một giàn lò ga gọn nhẹ với hai miệng lò bị lửa cháy sém đặt trên mặt quầy bếp xây bằng gạch, trong khi buồng tắm không có gian vòi sen riêng, chỉ có một lỗ thoát nước dưới sàn bên cạnh bệ vệ sinh, còn đầu hoa sen được gắn vào một ống dẫn mềm. Bích chương về những ban nhạc rock – Dengue Fever, Death Cab for Cutie, Hot Hot Heat – được dán trên tường phía trên những khối gạch xi măng và ván gỗ nơi Claire xếp quần áo của nó.

“Không tìm được chỗ nào tốt hơn sao, cưng?” Michiko tự quạt bằng cái nón rộng vành. “Thậm chí con còn không có được cái máy lạnh nữa.”

“Vầy là tốt hơn nhiều người rồi. Cho dù người ta kiếm được chỗ như vầy thì sẽ có cả một gia đình ở chung.”

“Con đâu phải dân bản xứ,” Carver nói. “Con là người Mỹ.”

“Ðó là điều mà con đang cố thích nghi.”

Nhớ lại bài học từ phép trị liệu theo cặp mà Michiko đã thuyết phục ông tham gia, Carver đếm ngược từ mười xuống. Claire khoanh hai tay lại, quan sát, khuôn mặt trơ ra y như hồi ông đét đít lúc cô còn nhỏ, hoặc la rầy cô những năm mới lớn khi cô liên tục vượt qua bất kỳ giới hạn nào mà ông vạch ra.

“Ðủ rồi, hai cha con,” Michiko nói. “Người ta vẫn hơi cáu kỉnh khi thiếu cà phê, đúng không?”

Căn hộ của Claire nằm bên trên một quán cà phê. Carver nhấm nháp cà phê đá bên cái bàn đặt trên lề đường, ông ngồi trên ghế đôn nhựa và ngó Michiko bỏ năm đô la mua bưu thiếp và hộp quẹt của bốn đứa nhỏ đi chân đất, đen như bụi đất, vừa thấy họ ngồi xuống đã bật ngay dậy mời mọc. Sau khi bán hàng, bộ tứ đó lui ra vài bước và đứng dựa vào một hàng xe gắn máy, cười rúc rích và nhìn chăm chăm.

“Bộ tụi nó chưa nhìn thấy du khách bao giờ sao?” Carver hỏi.

“Không như mình đâu.” Claire khui một bao thuốc lá và đốt một điếu. “Mình là một đám hỗn tạp.”

“Chúng không biết phải hiểu mình ra sao hả?” Michiko nói.

“Con quen chuyện đó rồi, nhưng ba má thì chưa.”

“Thử làm một bà vợ Nhật trong một căn cứ không quân ở Michigan năm 1973 coi.”

“Nói trúng phóc,” Claire nói.

“Thử làm một người da đen ở Nhật,” Carver nói. “Hay Thái Lan đi.”

“Nhưng ba lúc nào cũng có thể về nhà được,” Claire nói. “Luôn có chỗ cho ba ở đâu đó. Nhưng chưa từng có chỗ nào cho con.”

Cô nói điều đó một cách rất thực tế, không có chút cường điệu nào về tuổi thơ của mình, cái hồi cô từ trường về nhà và khóc nức nở vì thái độ coi thường của một bạn cùng trang lứa hoặc một kẻ lạ, một biến thể theo kiểu hỏi khinh thịMày là cái gì?. Nước mắt của cô làm Carver khổ sở, khiến ông cảm thấy có lỗi vì đã đưa cô vào một thế giới đã quyết tâm đặt mỗi người vào đúng chỗ của họ. Ông muốn tìm ra thủ phạm đã làm tổn thương con gái ông và tống một bài học vào đầu thằng nhóc đó, nhưng ông kềm mình lại, như ông đã làm mỗi khi bắt gặp ánh nhìn từ người khác như muốn nóiÔng làm cái gì ở đây? trong thư viện ở thị trấn nhỏ cách khu làng của ông khoảng tám cây số theo con lộ; ở Ðại học bang Pennsylvania, nơi ông theo học diện học bổng ROTC (Quân đoàn huấn luyện sĩ quan dự bị); trong trường bay tại Căn cứ Không quân Randolph; hay trong bộ đồng phục phi công, trên chiếc B-52 và sau đó là chiếc Boeing dân dụng, ông chưa bao giờ ở nơi mà lẽ ra ông phải có mặt. Ông đã sống sót bằng cách tập trung vào mục tiêu của mình, vươn lên cao hơn, không chấp nhận sự yếm thế hay hoài nghi bản thân.

Nhưng bây giờ, khi đã về hưu, khập khiễng ở tuổi ngoài sáu mươi, ông không còn biết mục tiêu của mình nên là gì. Ông ghen tỵ với Claire, với ý thức về sứ mạng của cô, dạy tiếng Anh cho những người nghèo như những nông dân và tá điền bẩn thỉu hồi ông còn nhỏ, da của họ nâu và nứt nẻ như lớp đất họ cày bừa, thứ đất khô khốc của những tháng hè ngột ngạt. Cô bộc lộ một sự tự tin khiến ông hài lòng khi nhìn cô vẫy một chiếc taxi, chỉ đường bằng tiếng Việt để đến ngôi trường dạy tiếng Anh, và chào tụi học sinh tụ họp dưới bóng những cây phượng vĩ trong sân. Khi Claire phác tay về phía Carver và Michiko rồi nói gì đó bằng tiếng địa phương, đám học sinh chào họ bằng tiếng Anh đúng giọng. “Hello!” “How are you!” “Good morning, Mr. and Mrs. Carver!” Carver mỉm cười với chúng và vẫy tay đáp trả. Việc mỉm cười với những người bà con chưa bao giờ đưa bạn đi xa lắm, nhưng mỉm cười với những người lạ và người quen đôi khi làm được điều đó.

Qua vài khung cửa dọc hàng cột chạy từ sân vào là lớp của Claire, cái bàn gỗ của cô đối diện với mấy dãy bàn và băng ghế thấp. Những vết hồ vữa trắng lốm đốm như sẹo trứng cá lộ rõ, lớp vôi vàng trên các bức tường đã bong tróc rất nhiều nơi. Trên tấm bảng đằng sau bàn giáo viên, ai đó – có lẽ chính là Claire – đã viết “The Passive Voice” bằng những mẫu tự đậm, lớn. Bên dưới đó là những dòng “my bicycle was stolen” và “mistakes were made.”

“Cưng, con dạy bao nhiêu đứa?” Michiko hỏi.

“Bốn lớp mỗi lớp ba chục.”

“Ðông quá,” Carver nói. “Bao nhiêu đó lương đâu đủ.”

“Tụi nó thực tình muốn học. Và con thực tình muốn dạy.”

“Vậy là con đã ở đây hai năm.” Carver dí mũi giày vào một tấm gạch bị bong ra trên mặt sàn nhà. “Con định ở đây bao lâu nữa?”

“Không biết đến chừng nào.”

“Ý con là sao, không biết chừng nào?”

“Con thích chỗ này, ba à.”

“Con thích chỗ này,” Carver nói. “Nhìn nó đi.”

Claire từ từ lướt nhìn khắp phòng học. “Con đang nhìn đây.”

“Ý ba con là ba má muốn con về nhà vì ba má thương con.”

“Ý ba là vậy.”

“Con đang ở nhà mình mà, má. Nghe thì thấy kỳ, con không biết diễn tả làm sao, nhưng con cảm thấy tựa như đây là chỗ con nên có mặt. Con mang trong mình một tâm hồn Việt.”

“Ðó là điều ngu ngốc nhất mà ba từng nghe.” Carver kêu lên.

“Nó không hề ngu ngốc,” Claire rít lên. “Ðừng nói vậy. Ba lúc nào cũng nói vậy.”

“Kể thử ba lần ba nói vậy đi.”

“Khi con rời Maine để đi học.” Claire giơ ba ngón tay phải và chậm rãi gấp từng ngón vào lòng bàn tay khi cô đếm, kết thúc với một nắm đấm. “Khi con chọn môn phụ nữ học. Khi con nói với ba là con sẽ tới Việt Nam dạy học. Và đó mới là những lần gần đây nhất hiện ra trong đầu thôi đó.”

“Nhưng những chuyện đó đúng là ngu ngốc mà.”

“Ôi, Chúa ơi, Chúa ơi, Chúa ơi.” Claire đập tay lên trán. “Tại sao có lúc con nghĩ rằng mọi chuyện sẽ khác đi với ba nhỉ?”

“Lạy Chúa tôi,” Carver lầm bầm. Tiếng thì thào khiến ông hướng sự chú ý ra cửa, nơi một nhóm học sinh đã tụ lại. Claire chùi nước mắt. “Coi đó! Ba làm con mất mặt với tụi nó.”

“Mất mặt sao?” Carver nói. “Con thực tình nghĩ rằng con đang biến thành một người giống tụi nó.”

“Thôi đi, James.” Michiko chen qua ông để đưa cho Claire một miếng khăn giấy. “Em nghĩ chuyện nhà mình tới đây là đủ rồi, phải không?”

Trong khi Claire đưa Michiko đi mua sắm các loại vải địa phương, Carver buộc phải tự giải khuây, đó là chuyện khó vì Quảng Trị chẳng có gì để giới thiệu với khách nước ngoài ngoại trừ việc nó gần kề khu phi quân sự cũ. Thành phố này chỉ là một thị xã từng bị tàn phá trong cuộc chiến, và qua tất cả các báo cáo, trước khi bị tàn phá thì nó cũng chẳng có gì để tới xem. Carver giết thời gian bằng cách ngồi ở hàng hiên lề đường của một quán rượu và nhìn đám trẻ con địa phương chơi đá banh trên một bãi cỏ. Ðến buổi chiều khi trời nổi gió, ông đã uống kha khá bia 33 để nhắc ông nhớ rằng chẳng có gì thay đổi so với thứ bia 33 ông uống ở Thái Lan ba chục năm trước. “Nếu mày sắp giội bom một xứ sở,” thằng bạn cùng phòng ở phi trường U-Tapao có nói, “thì ít nhất mày phải uống bia của xứ đó”. Hồi đó ý tưởng này nhạt nhẽo và bây giờ cũng nhạt nhẽo luôn. Khi màn mưa quét trên đường phố, ông kêu một chai bia Huế để thay đổi. Nhìn nước chảy tràn mương rãnh, Carver thấy nhớ ngôi nhà ván ghép của ông bên bờ vịnh Basin Cove, mùa thu vung cây đũa thần biến hình của nó lên mảng xanh của rừng. Cái thế giới mới của màu đỏ tía và vàng lùi ra xa hơn khi bà chủ coi sóc cửa hàng kế quán bia tăng âm lượng của máy thu thanh. Át tiếng lộp độp không ngớt của cơn mưa, giọng the thé của một phụ nữ rền rĩ cùng với một thứ nghe như âm thanh của đàn phiến gỗ, âm nhạc đầy nỗi buồn, mặc dù có lẽ chỉ mình Carver nghe được lời than van ở chỗ nó không hề tồn tại.

Ðịa điểm gỡ mìn cách khách sạn ở Quảng Trị mà họ ngủ lại vào chiều hôm sau khoảng nửa tiếng, xa khỏi ngoại vi thành phố. Legaspi hứa sẽ đón họ trên một con trâu trắng, và khi Carver hỏi phải chăng cậu muốn nói tới một con trâu trắng thật, Legaspi nháy mắt và nói, “Rồi bác sẽ thấy.” Con trâu trắng hóa ra là một chiếc Toyota Land Cruiser màu trắng lốm đốm những vết gỉ như mụn sởi, đồng hồ của nó đã vượt quá 300.000 cây số.

“Dân ở đây gọi những thứ này là trâu trắng vì chúng nhiều như trâu trắng vậy,” Legaspi nói khi ngồi ở ghế tài xế. “Người nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ với Liên Hiệp Quốc thích loại Land Cruiser này.”

“Tiền của các nhà tài trợ,” Carver nói. “Tất cả bánh rán và chuyện đi lại bằng xe bốn bánh mà cậu có thể mua.”

“Khá nhiều đó, bác Carver.”

Michiko và Claire ngồi ở băng sau, Carver ở ghế trước. Dọc theo con đường ngoại ô Quảng Trị là những ngôi nhà trệt hoặc một lầu bằng gỗ bạc màu và tôn thiếc, một vài biệt thự nhỏ tô xi măng và mới sơn vươn lên bên trên những ngôi nhà cổ xung quanh, tất cả đều dài và hẹp. Thỉnh thoảng một nghĩa trang hay đền chùa hiện ra, được khảm những hình thù trang trí giống như rồng, cùng với đôi ba nhà thờ, những bức tường khổ hạnh của chúng quét vôi và không trang trí.

Những cánh đồng phẳng đằng sau những nếp nhà phần lớn không có cây và bóng râm, vài mảnh ruộng trồng lúa, những mảnh khác trồng những loại cây mà Carver không nhận ra được, màu của chúng là màu xanh buồn tẻ, câm lặng của mảng tảo nở rộ, vùng nông thôn không hề xanh tốt và sum suê như phong cảnh Thái Lan mà ông thấy từ buồng lái khi chiếc B-52 bay ngang vùng nước của hồ Thale Sap Songkhla, hướng đến những thành phố của địch quân ở phía bắc Cánh đồng Chum. Có một lý do khiến ông thích lái máy bay. Hầu như mọi thứ nhìn từ xa đều đẹp, trái đất trở nên hoàn hảo hơn khi người ta bay lên cao và tiến gần tới chỗ nhìn thế giới bằng con mắt của Thượng đế, những túp lều và cung điện của con người biến mất, những chóp núi và thung lũng mờ đi thành những nét cọ quẹt lên một cõi thần thánh. Nhưng, khi nhìn gần, ở độ cao này, vùng nông thôn trông nghèo nàn đến độ sự nghèo khó chẳng có vẻ gì như tranh vẽ hay thôn dã: những túp nhà mái tôn với nền đất, một người vén ống quần đùi lên để đái vào một bức tường, những nhân công đi dép đẩy xe cút kít chất đầy gạch xây nhà. Khi Carver quay kính cửa sổ xuống, ông nhận ra mùi của nông thôn cũng khó chịu không kém, không khí đầy hơi ám khói từ những chiếc xe tải chạy qua, mùi hoai mục của phân trâu bò, vị lên men của các món ăn địa phương mà ông thấy quá mặn và buồn nôn. Mọi hình ảnh, âm thanh, và mùi ấy, cộng với việc Claire và Michiko cứ im im không nói tiếng nào với ông suốt từ hôm qua tới giờ, khiến Carver chán nản.

Chỉ có Legaspi là còn quan tâm, mở tuyển tập Giant Steps trên máy nghe nhạc, rõ ràng Claire đã cho cậu ta biết chuyện ông thích nghe nhạc Bebop, cái kiểu âm nhạc chảy trực tiếp từ ống tai vào dòng máu. Trong những miền đất mà Carver từng đi qua, ông thích Pháp và Nhật nhất vì sự tán thưởng nhiệt tình của dân bản địa đối với nhạc jazz, một sự ngưỡng mộ mà họ dành cho ông. Ông thấy chính vì định mệnh mà ông gặp Michiko trong một quán rượu chơi nhạc jazz ở Roppongi, Tokyo, cô ấy là hầu bàn chưa tới hai mươi còn ông già hơn cô cả chục tuổi, từ Okinawa tới đây trong một đợt nghỉ xả hơi, hào hứng trước hình ảnh những nhạc công Nhật đội mũ vành cong và để túm râu ngay dưới môi dưới.

“Bác ngủ được không, bác Carver?”

“Không ngon lắm.” Carver hài lòng khi có người quan tâm hỏi han. “Tôi cứ thức giấc hoài.”

“Ác mộng hả bác?”

Carver ngần ngừ. “Chỉ bồn chồn thôi. Bối rối.”

Không ai hỏi ông đã mơ thấy điều gì, nên ông không nói nữa. Mươi phút sau họ tới địa điểm gỡ mìn, cách đường lộ chừng nửa cây số, theo một con đường đất tới một căn nhà nhỏ và một nhóm ba căn chòi nằm kề bên một cánh đồng trơ trọi có rào dây kẽm gai. Khi chiếc Land Cruiser đậu lại, hai cậu trai mới lớn nhảy khỏi mấy cái võng treo giữa hai cây mít. Carver quên ngay tên của chúng sau màn giới thiệu. Hai đứa mặc quần đùi to quá khổ và áo thun khác thường, một cái in biểu tượng của đội khúc côn cầu trên băng Edmonton Oilers, cái áo kia kỷ niệm chuyến lưu diễn năm 1987 của Bryan Adams. Ðứa cao hơn có gắn cánh tay giả từ khuỷu tay trở xuống, trong khi đứa kia mang chân giả tới nửa đùi. Carver đặt biệt danh cho cậu cao là Tom và cậu thấp là Jerry, hai cái tên mà ông và bạn cùng phòng ở U-Tapao, một gã gốc Thụy Ðiển sống ở Minnesota, đặt cho những cậu bé dọn phòng cho họ.

“Tụi nó bị cụt từ hồi nhỏ do chơi với bom bi,” Legaspi giải thích. Tom và Jerry mỉm cười bẽn lẽn, chân tay giả của chúng có vẻ như lấy từ những tượng mẫu quần áo, màu cà phê sữa nhạt của nhựa dẻo không tiệp lắm với màu da sôcôla sữa của chúng. Ðiều ám ảnh Carver ở những khúc tay chân tháo ra được này không chỉ là màu sắc không hợp, mà ở chỗ chúng nhẵn nhụi không lông. “Tụi nó canh chừng khu vực này và chăm sóc bọn cầy lỏn.”

“Không phải lũ cầy lỏn sao?” Michiko hỏi.

“Dứt khoát là bọn cầy lỏn, bác à.”[link=#_ftn15][15][/link]

Con cầy lỏn mà Tom bắt ra từ trong một cái chòi được đặt tên Ricky, to bằng con mèo nhưng có lớp lông xù dày hơn và một cái đầu tam giác, có góc cạnh rõ rệt của con chuột. “Tụi cháu dùng cầy lỏn vì bọn chúng rất nhẹ, không làm lật quả mìn được,” Legaspi nói. “Với lại, khứu giác của tụi nó đủ nhạy để phát hiện chất nổ.”

Jerry mang ra một cặp người máy từ túp lều khác. Thay vì một cỗ máy bằng thép không gỉ bóng loáng mà Carver trông đợi, tên người máy này trông giống như hai lon kem sữa gắn vụng về vào nhau, miệng lon này ráp với miệng lon kia, mỗi lon mang một cặp chân làm bằng ống cao su. Giống một bầy ngựa được chọn, hai người máy này được đóng cương cạnh nhau, có nẹp ở trước và sau bằng mấy que sắt. Que sắt hướng tới trước được gắn vào một cái đĩa màu xanh to bằng cái đĩa Frisbee, rồi Ricky được buộc vào cái đĩa xanh đó qua một tấm áo cao su, toàn bộ công cụ người máy cộng cầy lỏn này dài chưa tới một mét và rộng chưa tới nửa mét.

“Cháu sẽ chỉ huy cỗ máy bằng hộp điều khiển từ xa này.” Legaspi giơ lên một cái hộp đen bằng cỡ bàn tay giống thứ mà William dùng để lái mấy phi cơ mô hình của nó. “Ricky đánh hơi tìm mìn. Cái đĩa xanh là bộ phận cảm ứng chướng ngại vật, và khi nó báo cho người máy biết có thứ gì đó cản đường, người máy sẽ điều khiển Ricky rời xa chướng ngại đó. Còn khi Ricky tìm được mìn, nó đánh hơi được mìn cách nó tới ba mét, nó sẽ ngồi xuống.”

“Thiệt là khéo,” Michiko khen ngợi.

“Thầy hướng dẫn của cháu phát triển dụng cụ này để gỡ mìn ở Sri Lanka. Nhưng ở đây bọn cháu cũng thử nghiệm với người máy và cầy lỏn.”

“Vậy cậu còn đang kiểm nghiệm cái gì?” Carver nói.

“Mấy cái chân. Thiệt khó mà bắt chước được sự vận động của chân người hay thú vật, nhất là trên địa hình gồ ghề. Xài một người máy để hút bụi cho sàn phòng khách hay leo vài bậc thang thì hoàn toàn khác hẳn chuyện cho nó làm việc với cát, cỏ, đá, hay bất cứ món gì bất ngờ mà ngay cả đứa bé năm tuổi cũng biết vòng tránh qua chỗ khác.”

Những trái mìn đã gỡ ngòi được cài trên cánh đồng. Ðứng cùng Claire, Michiko và Carver bên dưới một tấm bạt ngoài rìa cánh đồng, Legaspi điều khiển người máy và con cầy lỏn. Tom và Jerry đi theo con cầy lỏn khi nó chạy trên mặt đất, Tom đeo trên lưng một cái máy dò kim loại, còn Jerry đeo một cái bao nhét đầy cờ đỏ. Chỗ nào Ricky dừng lại và đứng trên hai chân sau, Tom sẽ bước tới với máy dò kim loại để xem ở đó có mìn hay không, và Jerry đánh dấu chỗ đó bằng cờ đỏ.

“Một nhóm người phải mất mấy tháng mới dọn sạch khu này,” Legaspi nói. Lưng áo vải lanh của cậu đẫm mồ hôi, không khí ẩm thấp mặc dù trời xam xám và u ám, “Bác có thể dùng xe ủi, nhưng như thế sẽ phá hỏng lớp đất bề mặt khiến đất đai không canh tác được. Tụi cháu có thể dọn sạch khu này trong vài tuần mà chỉ tốn ít chi phí.”

Carver quan sát Legaspi với Claire khi thuật ngữ đầy tính nhân văn về hiệu quả kinh tế, cải thiện đất trồng, nghĩa vụ đạo đức, sử dụng kỹ thuật viên địa phương, và những từ ngữ khác được nhắc tới. Cặp mắt sáng và sự tập trung trong mắt Claire khi cô quan sát Legaspi giống hệt mắt Michiko khi Carver nói với bà trong lần hẹn hò đầu tiên của họ về chuyện lái xe từ State College tới New York để bắt kịp nhạc sĩ Thelonious Monk tại câu lạc bộ Five Spot Café trên phố St. Mark’s Place, nơi ông đứng đủ gần để nhìn thấy những hình bán nguyệt vàng ở chân móng tay của Monk nổi bật trên màu móng tay trắng ngà. Tài năng thiên bẩm của con người vĩ đại đó đã truyền tới ông đủ để ông tỏa sáng và giữ được ánh mắt chăm chú của Michiko. Sự vụ cũng tương tự như vậy với Legaspi, vay mượn ý tưởng của ai đó, và thế là đủ cho Claire rồi.

“Cậu thậm chí có biết mình đang đối phó với ai không? Cậu có bao giờ nghĩ về những việc mà Bộ Quốc phòng có thể làm với mấy con người máy này không?” Carver nói. Ðôi mắt Legaspi ánh lên cái nhìn lưỡng lự, e sợ, yếu ớt, cái nhìn của một kẻ chưa sẵn sàng đối mặt với thực tại trần trụi, với nắm đấm sắt của quyền lực. Sự ngây thơ của Legaspi khiến Carver hết sức phiền muộn. “Một đứa thông minh nào đó ở đại học làm việc trong một dự án quốc phòng sẽ mường tượng ra cách để đặt trái mìn trên người máy này. Rồi Lầu Năm Góc sẽ đẩy nó xuống một đường hầm có tên khủng bố đang ẩn náu.”

“Ðó là loại công việc ba có thể làm, ba. Ðừng nghĩ ai cũng giống ba.”

“Ổn thôi mà,” Legaspi nói. “Cháu đã nghe ý này rồi.”

“Không ổn đâu,” Claire nói. “Ba em già rồi, bực bội và gay gắt, hay trút vào bất cứ ai ổng gặp.”

“Ba không bực bội và gay gắt. Ba bực bội chuyện gì? Ba gay gắt chuyện gì? Rằng ba đang nghe lời thuyết giảng của một cậu nhóc đang nghĩ hắn sẽ cứu thế giới với một người máy bằng lon thiếc hả? Rằng ba có một đứa con gái cứ nghĩ nó là người Việt hả?”

“Con nói con mang trong mình một tâm hồn Việt. Ðó là một kiểu tu từ, một cách diễn tả thôi. Nó có nghĩa rằng con nghĩ mình đã tìm được chỗ mà con có thể làm điều tốt và đền bù cho một số việc ba đã làm.”

“Ba đã làm à? Ba đã làm gì?”

“Ba giội bom xứ này. Có bao giờ ba nghĩ mình đã giết bao nhiêu người không? Mấy ngàn? Mấy chục ngàn?”

“Ba không cần phải nghe chuyện đó.”

“Không giống như ba từng nghe bất kỳ ai nói trước đây.”

“Con chẳng hiểu gì hết. Ba má đã bảo bọc con để con không phải ưu tư về những chuyện mà ba má đã ưu tư. Ðiều đó không đúng sao?”

Carver quay sang Michiko tìm hậu thuẫn, nhưng bà đang ngắm nghía một đám dừa xơ xác ở mé bên kia của mô hình bãi mìn. Legaspi đã quay về với việc điều khiển Ricky, trong khi Claire khoanh tay trước ngực, thách Carver dám bỏ đi, y hệt như ông đã thách cô khi cô lên sáu, gào la đòi một con búp bê Barbie tóc vàng trong một cửa hàng đồ chơi. Con cứ ngồi đây và khóc tới lòi mắt ra, cô nương ạ. Cô đã ngồi ngay xuống lối đi và gào hú với tất cả nỗi đau khổ và giận dữ mà chỉ một đứa nhỏ hay ai đó bên bờ vực cái chết mới tập hợp được. Lúc đó ông đã bước khỏi cửa tiệm, để cô ở đó, và bây giờ ông không có lựa chọn nào ngoài việc bỏ đi chỗ khác.

Gió nồm nam thổi tới khoảng mười lăm phút sau đó, khi Carver đã đi khỏi địa điểm gỡ mìn chừng vài trăm mét, một quãng đường xa nhất mà ông có thể tới được trên con đường lõm vết bánh xe và với cái hông đau của mình. Cảm giác bị xúc phạm và tự thương thân thúc đẩy mỗi bước đi của ông. Ông chưa bao giờ giải thích cho Claire cái khó khăn của việc thả bom thật chính xác, từ cỡ mười hai cây số nhắm xuống những mục tiêu bằng cỡ sân banh, tựa như đứng trên mái nhà thả trái banh golf vào một tách cà phê. Toàn bộ trọng tải của trái bom rơi xuống rất xa đàng sau chiếc B-52 của ông sau khi nó được thả ra, và như thế ông không bao giờ nhìn thấy khối trọng lượng đó phát nổ hay thậm chí rơi xuống đất, tuy ông cũng nhìn thấy những máy bay khác trong phi đội rải những hạt giống đen ngòm của họ vào cơn gió, khiến ông phải tưởng tượng những điều mà ông sẽ thấy sau đó trên phim, những trái bom nổ tung, những bước chân của một gã khổng lồ vô hình giậm xuống mặt đất.

Tâm trí Claire không đủ phức tạp để thấu hiểu rằng cần phải đánh kẻ địch từ trên cao để cứu sinh mạng của những bạn bè người Mỹ ở dưới thấp, lại càng không hiểu được niềm tin của ông rằng Chúa là phi công phụ của ông. Cô đối lập hoàn toàn với ông, tham gia Tổ chức Ân xá Quốc tế từ hồi trung học và diễu hành phản đối chiến dịch Bão sa mạc ở Vassar, cứ như việc phản đối sẽ tạo được thay đổi vậy. Nếu đúng như vậy, nó sẽ đem lại sự giúp đỡ cho kẻ thù. Tuy cô thông cảm với rất nhiều người mà cô chưa từng gặp mặt, những kẻ hoàn toàn xa lạ vốn xem cô là kẻ lạ và họ có thể giết cô không chút ngần ngại nếu có cơ hội, nhưng cô không dành một tình cảm như thế cho ông.

Sự bất công trong chuyện này chiếm lấy tâm trí Carver đến nỗi ông không nhận ra những đám mây bão đã nhanh chóng kéo đến vây kín cho đến khi bầu trời gầm gừ. Trong vài giây, những giọt mưa rải rác rơi xuống trán ông. Rồi mưa xối xả. Áo ông ướt nhẹp, bết vào người, mưa dán quần áo ông vào người, nước chảy xuống phía sau cổ áo và đọng đầy trong đôi giày ống lội bộ. Ông dừng lại, lưỡng lự không biết nên đi tiếp ra lộ lớn trải nhựa hay quay trở lại điểm gỡ mìn. Con đường đất bây giờ giống như món bơ đậu phộng, và ông lún từng phân một vào bãi lầy nhầy của nó khi gió nồm tiếp tục tấn công. Ðây là lý do tại sao ông không muốn viếng thăm xứ sở này, một miền đất của điềm gở và bất hạnh trầm trọng đến độ ông chẳng muốn dính líu gì với nó ngoài việc bay lướt bên trên nó. Nhưng Claire đã kéo ông trở lại miền đất đỏ này, và ông không định chạy về chỗ cô để nhờ giúp đỡ, cho dù ông có thể làm thế. Ông nặng nề lết về phía đường nhựa, không thấy một bóng người hay gia súc, những cánh đồng xanh tẻ nhạt trải ra hai bên ông. Lúc này là giữa trưa, nhưng ánh chạng vạng đã phủ xuống theo những đám mây nặng nề.

Xa xa, phía sau ông, một chiếc xe nhấn còi. Ông rụt đầu và tiếp tục bước đi, mưa trút xuống dữ dội đến độ ông sợ mình sẽ chết đuối nếu ngước mặt nhìn lên trời. Ông nghe tiếng máy cũ kĩ của chiếc xe khi nó đến gần, khọt khẹt như con mèo cố khạc ra một nùi lông. Với ánh sáng từ ánh đèn pha rắc trên những hạt mưa rơi trước mặt ông, ông quyết định thay vì phớt lờ chúng, ông nên ngẩng cao đầu thách thức. Ông dừng bước và quay lại, nhưng do tính toán sai bước đi đơn giản này, bàn chân phải của ông bị lún trong vũng bùn bám lên tới cổ chân. Ánh đèn xe rọi thẳng vào khiến ông lóa mắt, ông lại bước sai một bước nữa, lần này đến lượt chân trái, đầu mũi giày cắm thẳng vào bùn, cẳng chân bị khóa ở chỗ đầu gối và thân người ông chúi tới trước, về hướng xe chạy tới. Bùn ướt và lạnh trên bụng và mặt ông, mùi và vị của nó gợi nhớ tới thứ đất ở cái sân hồi xa xưa trong tuổi thơ của ông, nơi ông thường nằm sấp mặt xuống và đóng vai người lính.

Chính Legaspi giúp ông đứng dậy và chui vào chiếc Land Cruiser đang chờ. Claire cầm dù che cho cả hai. Họ dìu ông vào băng sau, lạnh run, Michiko lấy cái khăn lụa mà bà mua hôm qua để chùi bùn trên mặt và trong mắt ông.

“Tụi tôi tưởng ông chỉ ra ngồi trong xe thôi, Jimmy,” bà nói. Legaspi bắt đầu chạy xe ra đường nhựa. “Ông bị cái chứng gì vậy?”

“Tôi sáu mươi tám rồi, mồ tổ nó.” Carver hắt hơi. “Tôi già nhưng chưa chết.”

“Ông sáu chín rồi.”

Ông định tranh cãi khi bà chùi bùn quanh mắt ông, nhưng rồi ông nhận ra Michiko nói đúng. Ngay cả số tuổi của chính mình ông cũng không nhớ nổi, nhưng thời gian cứ tàn nhẫn nhổ thưa dần mớ ký ức từng một thời rậm rạp của ông. Trong kính chiếu hậu, ông thấy Legaspi nhìn ông, và khi cậu ta lên tiếng, giọng cậu ta không phải là không tử tế.

“Bác nghĩ sẽ đi đâu, bác Carver?”. Legaspi bật máy nghe nhạc, những giai điệu trong Giant Steps lại vang lên lần nữa. “You don’t even know where you are” (Bạn thậm chí không biết mình ở đâu.)

Ðến tối hôm đó, Carver bị sốt. Giấc mơ mà trước đó ông không kể lại cho Legaspi nghe trở lại với ông trong căn phòng bệnh viện, nơi ông nằm ngửa trôi nổi trong một dòng chảy đen, gương mặt ông thỉnh thoảng lại ngẩng lên, thoáng nhìn những bệnh nhân khác trên ba cái giường kia, những người có tuổi, tóc bạc, được chăm sóc bởi những đám bà con họ hàng nói chuyện om sòm, đem theo những cái tô và các món khác bọc trong khăn. Ông ngửi thấy mùi cháo trắng, mùi thuốc đắng, mùi chó ướt của người già. Khi ông chìm vào dòng nước đen, những hình ảnh vụt nhanh qua giống như loài cá lạ phát sáng từ những khe đại dương. Những hình ảnh duy nhất mà ông có thể nhớ lại rõ ràng sau này đều được thể hiện trong giấc mơ, trong đó ông đã thức dậy để thấy mình là hành khách trong một máy bay tối om. Mọi người đều ngủ và các cửa sổ đều đóng. Vì lý do nào đó ông biết rằng không có ai lái chiếc máy bay này, và ông đứng dậy tiến tới trước, tình hình đang cần tới kỹ năng của ông. Toàn bộ mấy chục hành khách đều là người Á châu, mắt họ nhắm lại, trong số họ có đám trẻ đường phố, tụi học trò của Claire với Tom và Jerry. Ðược buộc vào ghế xúp dành cho tiếp viên ngay cạnh buồng lái là tay hướng dẫn du lịch cho họ ở Angkor Wat, anh chàng đã chỉ vào cây cầu hai bên có những tượng thần không đầu và nói, bằng một giọng hơi có vẻ kết tội, “Người ngoại quốc lấy mất mấy cái đầu.” Nỗi sợ hãi bao trùm lấy Carver, nhưng khi mở cửa buồng lái, ông chỉ thấy dòng sông đêm đen không ánh sao, cái ghế phi công trống trơn đang chờ ông.

“Ba.”

Claire đang quỳ cạnh giường ông trong căn phòng tối.

“Ba, ba nói gì hả?”

“Khát.”

Cô khui chai nước và rót cho ông một ly, kề ly nước sát môi ông bằng tay này còn tay kia nâng đầu ông dậy. Ông uống vội vàng và nước tràn qua môi ông chảy xuống áo. Claire hạ đầu ông xuống gối rồi lau cằm ông bằng một cái khăn ăn.

“Michiko đâu?”

“Má ở khách sạn,” Claire nói nhẹ nhàng. “Má ở đây cả ngày, nhưng không ở đây qua đêm nổi. Sàn cứng quá má không ngủ được.”

“Bao lâu rồi?”

“Ba ngày. Ba sốt dữ lắm. Ba bị viêm phổi. Ba nghỉ ngơi đi, được không?” Claire thở dài. “Ba ngoan cố quá. Tại sao ba lại bỏ đi một mình vậy?”

Ông trở mình trên nệm, ở đó khối nệm mút độn lên áp sát chỗ xương sống lõm vào ở eo lưng ông. “Ba là thằng ngốc hả?”

“Ðúng vậy.”

“Claire.”

“Sao ạ?”

“Ba muốn vào phòng tắm.”

Ông vòng tay qua cổ cô và giữ cứng khi cô bẩy ông nhổm dậy trên giường. Cô có mùi xà bông cục và dầu gội có mùi cam chanh, không có hương nước hoa để át đi mùi mồ hôi. Khi đã ngồi được trên giường với hai bàn chân chạm đất, ông gác một tay trên cổ cô và để cô lôi ông đứng dậy. Claire có kích cỡ vừa tầm để ông dựa vào, đầu cô hơi cao hơn vai ông một chút, cánh tay ông tựa thoải mái vào lưng cô. Cô đá chiếc chiếu làm bằng tre trải dưới sàn sang một bên và dìu ông theo lối đi hẹp giữa giường của ông và giường bên cạnh. “Cẩn thận, ba,” Claire nói, kéo ông qua một thân người trùm mền nằm dài dưới sàn, đầu quay ra phía khác. “Ba sẽ ổn thôi. Ba chỉ cần nghỉ ngơi.”

Ðiều mà cô muốn nói, nhưng sẽ không nói, là ông không nên hoảng sợ. Ông sẽ không chết ở đây đâu. Nhưng ông đã sợ, nhiều hơn những gì ông từng nghĩ. Trước mặt Michiko với các con, ông tin mình có thể chết trên một phi cơ hoặc sau tay lái của một chiếc xe chạy rất nhanh, bất cứ gì liên quan đến tốc độ cao và một cú dừng sững lại đột ngột. Bây giờ ông biết mình có thể chết với nỗi hoảng loạn đang tích lại trong phổi ông, ở một nơi mà lẽ ra ông không nên có mặt, ở một thế giới không dành cho ông. Ông bám chặt hơn vào Claire khi cô ôm eo ông, dẫn ông qua thân người thứ nhất rồi vòng qua một thân người nữa nằm ở chân cái giường cạnh cửa ra vào. Khi ông vấp vào cái chân chìa ra, một phụ nữ với mái tóc ngắn ngủn nhổm đầu lên và nạt, “Trời ơi, cẩn thận chút đi!” Nghe thế, Claire đáp lại, phân trần, “Xin lỗi cô!” bằng tiếng Việt.

Người đàn bà đó chắc là thân nhân của một bệnh nhân, hoặc có thể cũng là bệnh nhân. Claire chắc đã ngủ trên chiếu tre cạnh giường ông. Nhận thức này xua tan đám sương mù của nỗi sợ hãi và choáng váng, đem đến một sự thấu cảm với con gái ông mạnh đến mức nó khiến ông đau đớn. Ông nhớ thời thơ ấu của cô, khi Michiko cứ nhất định đặt Claire nằm giữa hai người lúc đi ngủ, ông đã lo sợ chuyện mình ngủ lăn đè lên Claire, đến độ ông cứ bồn chồn thức trắng cho đến khi không còn lo âu thêm, thì bước xuống sàn và ngủ trên thảm. Chỉ vài năm sau, khi Claire đang tập đi nhưng hầu như chưa biết dùng nhà vệ sinh, và vẫn còn ngủ chung giường với họ, cô thường thức giấc, tuột khỏi mép giường và té lăn xuống ngực ông, và khi ông mở hé một mắt, cô đòi ông dẫn vào phòng tắm. Việc đi một mình trong bóng tối là quá đáng sợ. Ông thường thở dài, ngồi dậy, và dẫn cô theo hành lang, bước từng bước cẩn thận, bàn tay cô nắm lấy một ngón tay của ông.

“Ba,” Claire nói. Cửa buồng tắm là một khung chữ nhật xanh nhạt trong ánh trăng xanh trước mặt họ. “Ba, ba khóc hả?”

“Không, đâu có, cưng,” ông nói, dù thật ra là ông đang khóc.

Chú thích:

[14]Biệt danh do tù binh Mỹ đặt cho nhà tù Hỏa Lò trong thời Chiến tranh Việt Nam. (ND)

[15] Cầy lỏn trong tiếng Anh là mongoose, và nó có hai dạng số nhiều là mongooses và mongeese (theo từ điển Merriam-Webster), nhưng mongooses thông dụng hơn. Tác giả cho Legaspi dùng mongooses, còn bà Carver dùng mongeese. Chúng tôi đành dịch gượng ép như trên. (ND)