← Quay lại trang sách

Chuyện cũ quê hương

Tôi sinh ra tại thôn Bình An, xã Đại Lan, huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, đến năm 20 tuổi mới rời khỏi gia đình. Cố hương với những ấn tượng sâu sắc chính là mạch nguồn và cũng là động lực sáng tác của tôi. Quan hệ của tôi với nông thôn cũng giống như quan hệ giữa cá với nước, như quan hệ giữa đất với cây; đương nhiên, nhìn từ một góc độ khác, còn là quan hệ giữa chim và lồng chim, là quan hệ giữa nô dịch và bị nô dịch. Tuy đã rời xa nông thôn mười mấy năm nay để lên thành phố nhưng về cơ bản, tôi vẫn hướng tình cảm của mình về với nông thôn, vẫn cho rằng tất cả những gì ở nông thôn cũng đều tốt đẹp. Nhưng nếu bảo tôi quay về nông thôn để làm một nông dân thì rõ ràng tôi không hề tự nguyện. Cho nên, có lúc tôi chửi bới thành phố nhưng không có nghĩa là tôi muốn xa rời thành phố; có lúc tán tụng nông thôn nhưng không có nghĩa là tôi quay về với nông thôn. Con người thường “khẩu thực tâm phi”, nói một đường nghĩ một nẻo, tất nhiên không ngoại trừ một số trường hợp cá biệt “tâm khẩu như nhất”.

Những ấn tượng về nông thôn là hồn, là phách trong các sáng tác của tôi. Đất sông, hoa trái, cây cỏ, chim bay, thú chạy, thần thoại, truyền thuyết, quỷ ma, yêu tinh, ân nhân, cừu nhân… của cố hương là nội dung chính trong các tiểu thuyết của tôi. Nếu đem quan hệ giữa tôi với nông thôn lý giải một cách thật rõ ràng thì quả thật là không hề dễ, do vậy ở đây tôi muốn đem vài chuyện rất khó quên nhưng chưa được đưa vào tiểu thuyết nào để hầu độc giả.

1. Dòng sông nóng bỏng

Suốt cả cuộc đời, chuyện khó quên nhất là tôi rơi vào hố phân suýt chết. Chuyện này xảy ra lúc tôi khoảng hai tuổi. Trong ký ức của tôi, đó là những ngày hè mưa rất lớn, mặt trời nóng như lửa. Chiếc hố phân lộ thiên của gia đình xây bằng gạch đầy ăm ắp nước, trên mặt nước những là tro đốt từ các loài cây cỏ, những con nòng nọc đang quẫy những chiếc đuôi dài trong tro. Tôi còn nhớ, sát bên bờ hố có cắm một chiếc cọc gỗ, là vật để giúp đỡ bà tôi đã già, chân tay yếu ớt và luống cuống. Tôi rất thích nắm chắc lấy cây cọc, ngửa đầu thật mạnh ra phía sau, vừa đại tiện vừa ngắm nhìn trời nghĩ ngợi lung tung. Vì chiếc cọc cắm đã quá lâu trong phân trong nước nên đã mục và gãy ngang. Thân hình tôi ngã ngửa về phía sau và rơi thẳng xuống hố, uống đầy một bụng nước bẩn, may mà có anh trai tôi phát hiện được nên mới cứu tôi lên. Anh cả bỏ vào túi một cục xà phòng thơm rồi lôi tôi ra sông tắm. Tôi vẫn nhớ, đó là lúc giữa trưa, ánh nắng đặc biệt gay gắt, nước sông loa lóa chiếu thẳng vào mắt khiến tôi không dám mở mắt. Người tắm đầy trên sông, người lớn thì bơi, trẻ con thì đùa nghịch té nước vào nhau. Anh cả thả tôi xuống mép sông, nước sông cũng nóng hầm hập, tôi khóc ré lên, ôm chặt lấy cổ anh, hai chân đạp mạnh làm nước bắn lên tung tóe. Anh cả bực mình đè tôi xuống nước, tôi lại khóc và giãy đạp. Tôi còn nhớ anh cả nói với tôi thế này: Mày cả người dính cứt, một đầu nòng nọc, không tắm cho sạch là chết liền đó! Tôi vẫn còn nhớ có mấy người đàn ông đang bơi chung quanh, chỉ có chiếc đầu ló lên khỏi mặt nước, nheo nheo đôi mắt hỏi: Mô Hiền, có chuyện gì vậy? Tuy nhỏ nhưng tôi vẫn nhận ra thái độ rất tôn kính của những người này khi gọi tên đi học của anh cả tôi. Anh cả lúc ấy đang học trung học ở dưới thị trấn Hạ Trang, là người duy nhất trong toàn thôn đang học đến trung học nên được mọi người trong thôn kính trọng. Anh cả nói: Rơi vào hố phân, suýt nữa thì chết! Những người đàn ông ấy cười hi hí hỏi tôi: Phân có mùi gì? Có ngon không? Anh cả xoa rất nhiều xà phòng lên đầu tôi, bọt xà phòng cay sè khiến tôi không thể mở mắt ra được. Tôi ngửi thấy mùi xà phòng có thoang thoảng mùi canh cá, cũng ngửi thấy mùi phân.

Tôi cho rằng, ba mươi mấy năm trước, mặt trời nóng hơn bây giờ nhiều nên mới có thể đốt nóng nước sông. Tôi chưa hề gặp lại dòng nước nào nóng đến như vậy trong đời. Mười mấy năm nay, những con sông ở quê tôi hầu hết đều cạn đến độ đáy sông ngửa mặt lên trời. Người ở quê tôi trồng hoa màu dưới đáy sông, lại dựng sân khấu diễn kịch dưới lòng sông nữa. Về chuyện dựng sân khấu diễn kịch dưới đáy sông, tôi đã có kể qua trong truyện vừa “Bạo tạc” của mình.

2. Cây cổ thụ thành tinh

Trong thời kỳ đại nhảy vọt, đại luyện kim, ăn cơm nhà ăn công cộng, tôi đã được ba tuổi. Ký ức đầu tiên của tôi về thời kỳ này là cây liễu cổ thụ to đến mấy người ôm đứng bên cạnh vườn rau nhà tôi đã bị chặt kéo về lò luyện kim để làm chất đốt. Khi người ta chặt cây, tôi bíu vào váy áo chị gái đứng từ xa nhìn mà trong lòng cảm thấy căm tức vô cùng. Nông thôn cùng bước vào thời kỳ xây dựng “cộng sản chủ nghĩa”, chẳng cần tiền làm gì, nhưng cảm tình với cây cổ thụ của gia đình chúng tôi là rất lớn, nó bị chặt, chúng tôi đau lòng lắm. Có đến mười mấy người tham gia vào việc giết cây này, người rìu người búa, người cưa, người cầm rựa, kẻ cầm dao, chan chát roèn roẹt. Từ lúc mặt trời bắt đầu lên cho đến lúc lặn về phía tây, chung quanh gốc cây đã có một lớp dăm trắng mà cây vẫn đứng vững, không chịu ngã. Người hàng xóm Tôn Nhị cầm rìu đi quanh gốc cây một vòng, nói: Đáng ra là phải đổ rồi, sao vẫn còn đứng được nhỉ? Những bà già tò mò đứng xem chung quanh bắt đầu thì thầm bàn luận, nói cây đại thụ này đã sống đến mấy trăm năm, đã thành tinh rồi, không dễ gì giết chết nó được đâu. Họ còn nói rằng năm ấy có một người dùng móc lôi một cành khô xuống để làm củi đun, về nhà lăn đùng ra ốm thập tử nhất sinh, huống hồ muốn giết chết nó. Sở dĩ tra rìu vào mà nó không chảy máu là vì tinh cây đã che mắt mọi người đó thôi. Nghe những người đàn bà bàn tán những lời ấy, cánh đàn ông bắt đầu sợ hãi và có người đã líu ríu lùi ra xa gốc cây đã chịu hàng ngàn nhát rìu mà vẫn không đổ ấy, đứng nấp bên cạnh bức tường thấp lặng lẽ hút thuốc. Mặt trời xuống càng thấp càng đỏ phóng ra những tia sáng đỏ rực như máu chiếu thẳng vào thân cây khiến nó thêm bi tráng huy hoàng. Những người chỉ đứng xem chặt cây cũng đã cảm thấy sợ, chẳng có ai dám đến gần nữa. Đúng lúc ấy, đội trưởng đại đội sản xuất Trương Bình Đoàn đến. Lão trừng đôi mắt vốn đã ngây ngây dại dại, trên lưng lão là một khẩu súng săn rất dài, bộ quân phục trên người vừa rách vừa bẩn, chiếc thắt lưng da trâu đen sì to bản, nút nịt bằng đồng lấp lánh. Nghe nói rằng lão thường dùng chiếc thắt lưng này để đánh vợ, nhưng điều này thì tôi không được chứng kiến tận mắt. Tôi đã nhiều lần trông thấy lão đánh vợ, nhưng những lần ấy lão không dùng chiếc thắt lưng này mà thường dùng chiếc que thông nòng súng hoặc gậy hoặc thước gỗ. Lần nào cũng thế, lão đánh cho đến khi trên thân thể còm nhom của vợ lão máu thịt bê bết mới thôi, người bình thường thì e là đã chết nhưng kỳ lạ là bà vợ của lão vẫn sống. Không những thế, với ba ngày một trận đòn nhẹ, năm ngày một trận đòn nặng mà bà ta vẫn đẻ đều đều, một đàn trẻ con đầu trọc lóc cao thấp khó phân, thu đông đều trần truồng như nhộng, đều có đôi mắt dài dại ngây ngây, chỉ thoạt nhìn thì nhận ra ngay là giống của đại đội trưởng. Lúc này đại đội trưởng ngẩng cao đầu, trợn đôi mắt, trông giống hệt Na Tra, hùng hùng hổ hổ bước thẳng đến đám người chặt cây, ngoác mồm chửi:

- Đồ ăn hại! Muốn đình công à? Mười mấy lao động chính trong một ngày mà chặt không đổ một cái cây, thế thì cần chúng mày làm quái gì? Mau kéo hết lại đây, chặt!

Tôn Nhị cúi khom người líu ríu đi tới, lắp bắp nói:

- Đại đội trưởng, không phải chúng tôi lãn công đình công gì cả, cây này đã thành tinh, chặt không đổ đâu! - Lão ta đưa tay chỉ vào gốc cây lúc này đã bị chặt gần đứt và những mảnh dăm nằm một lớp chung quanh gốc cây, giọng nói càng tỏ ra sợ hãi - Đã như thế này rồi mà nó vẫn không chịu đổ.

- Mày đánh rắm đấy à? - Đại đội trưởng chửi - Nghe nói có hồ ly thành tinh, chưa hề nghe nói cây liễu thành tinh bao giờ. Không đổ à, nó dựa vào cái gì mà không đổ, nó dám không đổ sao? Tao sẽ bắn một phát súng để đuổi tà khí cho mọi người!

Nói xong, lão lấy khẩu súng bắn chim trên lưng xuống cầm trong tay, quát lớn:

- Mấy đứa trẻ con mau tránh ra xa! - Quát xong, đưa súng lên ngang mắt ngắm ngắm. Một luồng khói vàng vàng từ trong nòng súng phun ra, kèm theo là một luồng lửa và một tiếng nổ kinh thiên động địa. Thân cây bị mấy chục viên đạn ria găm vào thành một chùm lớn hơn bàn tay. Hình như cây liễu có rung nhẹ nhưng vẫn đứng yên. Như một con mèo, đại đội trưởng đến sát bên gốc cây, đi quanh một vòng, nói:

- Đứt rồi, nhưng vì cây này ở trên quá nặng nên đè xuống, không đổ được. Tìm dây thừng buộc vào cành cây mà kéo, nhất định sẽ đổ!

Những người chặt cây mắt tròn mắt dẹt nhìn nhau, không ai muốn làm. Đại đội trưởng trừng mắt, cao giọng gắt:

- Không muốn ăn cơm tối nay à? Tôn Nhị, mày chạy nhanh đến kho mang dây thừng về đây!

Tôn Nhị dấm dẳng nói:

- Đại đội trưởng à, trời tối rồi. Tối tăm không thấy gì đâu, cây đổ đè phải người thì không phải chuyện chơi đâu!

- Nói bậy! - Đại đội trưởng quát - Để nó đứng thế này một đêm mà được sao? Đừng có lằng nhằng nữa, đi nhanh lên!

Tôn Nhị xiêu xiêu vẹo vẹo chạy đi tìm dây thừng. Đại đội trưởng nhân thời gian chờ đợi lớn tiếng giáo huấn đám người chặt cây. Mọi người yên lặng cúi đầu hút thuốc, không có một lời cự nự. Đại đội trưởng mất hứng, nhổ một bãi nước bọt, hai tay chống nạnh hướng về phía nhà kho chờ đợi Tôn Nhị.

Tôn Nhị vác một vòng dây nặng chạy từ phía nhà kho đến. Trông lão như một con chó bị lòi ruột, ì ạch mãi mới chạy đến nơi.

Đại đội trưởng lệnh cho một người leo lên cây để buộc dây. Trương Tam bảo chân lão bị đau, Lý Tứ bảo hông lão bị vẹo, Vương Nhất nói mắt lão bị quáng gà, không thấy gì… Nói chung không ai tự nguyện leo lên cây cả, dùng sào móc cũng không xong, đại đội trưởng bất lực đứng nhìn cây, nhìn mọi người. Cuối cùng lão cũng đã nghĩ ra cách hay là buộc một hòn đá vào đầu dây rồi ném. Một lần, hai lần, ba lần, cuối cùng cũng thành công. Nắm chặt dây, đại đội trưởng hô: Một hai ba, kéo. Nói thì chậm nhưng việc diễn ra thì nhanh, cây liễu kêu lên mấy tiếng răng rắc rồi bắt đầu nghiêng. Có người nào đó gào lên: Không xong rồi! Mọi người vất dây thừng co giò chạy, nhưng chạy nào có kịp. Như một đám mây đen, tán cây từ trên cao ụp xuống còn nhanh hơn cả gió. Rầm! Tán lá run rẩy một lát rồi nằm im như một ngọn núi nhỏ, bờ tường thấp bị đập cho tan tành, gạch đất văng đến tận giữa vườn rau, ba gian nhà tranh của nhà họ Tôn sập mất một gian rưỡi. Mười mấy người chặt cây không kịp chạy thoát lấy một người, đều bị tán cây đè lên, không thoát ra được, tiếng kêu la vang lên. Đại đội trưởng lúc ấy đứng bên cạnh hô một hai ba, thấy sự việc chẳng lành nên đã nhanh chân vọt ra khỏi vùng nguy hiểm. Suy cho cùng, qua mấy năm tham gia quân tình nguyện nên lão ta phản ứng cũng khá nhanh, chân tay cũng lanh lẹ vô cùng.

Ban đầu là tiếng kêu thét của những người đàn bà đứng xem, tiếp theo là tiếng kêu gào của đại đội trưởng chạy dọc theo con đường làng: Cứu người! Cứu… người! Cứu… người! Những công nhân đang đốt lò ở lò luyện gang gần nhất nháo nhào chạy tới, miệng hỏi dồn dập: Người ở đâu? Cứu ai?

Sau đó thì người ta hè nhau kéo tán cây. Làm sao mà kéo nổi? Một ông già nói:

Đừng kéo nữa! Kéo là cành cây sẽ đè nặng hơn, người vốn không chết nhưng kéo nữa là đè chết người đấy! - Nghe rất có lý nên mọi người thôi không kéo nữa, nhưng chẳng ai có cách gì. Ông già nói tiếp: Mau đi tìm thật nhiều cưa và rìu lại đây, chặt hết cành cây thật nhanh.

Ai đó đã mang đến những chiếc cưa cực lớn cho hai người kéo, lại đốt mấy chiếc đèn măng sông, bắt đầu cưa cành. Đại đội trưởng không còn quát tháo nữa, khẩu súng cũng đã vất đâu mất, khuôn mặt tái nhợt, tay xách một chiếc đèn măng sông soi cho những người đang cưa.

Thân nhân những người đang bị đè dưới tán cây đã nhận được tin khóc la om sòm như người thân của họ đã chết rồi không bằng. Nằm bên dưới tán cây, có người còn nói được đôi lời với người nhà, khuyên họ không cần phải khóc; những người bị thương nặng hơn thì đang kêu rên đau đớn; cũng có người im thít, người thân kêu réo tên mà vẫn không có tiếng trả lời, nếu không chết thì cũng đã hôn mê.

Tán cây dần dần quang, mấy tiếng đồng hồ sau đã có thể trông thấy mặt đất, người sống người chết đều đã được lôi ra đưa hết trạm xá đại đội. Mặt đất đầy máu. Khi người ta đã giải tán gần hết, đại đội trưởng vẫn xách chiếc đèn măng sông đứng đó, cứng đơ như một chiếc cọc gỗ.

Quê tôi mấy chục năm nay chưa hề có một sự cố nghiêm trọng đến như thế. Năm người chết, trong đó có Tôn Nhị, còn lại tất cả đều bị thương, nặng nhất là Vương Tứ Hải, gãy một chân và tám chiếc xương sườn.

Ông nội tôi ban đầu là căm hận chuyện chặt cây, trong tiếng chan chát đẵn cây ông chửi rủa không ngớt. Sự việc xảy ra, ông ngồi lặng lẽ rít thuốc không ngừng, gương mặt xanh lét, không nói câu nào.

3. Chuyện về ông nội

Trên thực tế, tôi muốn viết một vài truyện có liên quan tới ông nội, không hề hư cấu, trong đầu đề có hai chữ “cố sự”, rõ ràng là chẳng có ý thức ngụy tạo. Từ khi cuốn “Gia tộc hồng cao lương” của tôi xuất hiện, có một số độc giả viết thư hỏi tôi: Ông nội anh có phải là nguyên hình của tay thổ phỉ Từ Chiếm Ngao? Không phải đâu, ông nội tôi với tư lệnh thổ phỉ Từ Chiếm Ngao chẳng có quan hệ gì hết. Ông là một nông dân chân chính và ưu tú, dáng người bình thường, rất gầy, là một nông dân có tay nghề, lại là một thợ mộc khéo tay. Lúc đã già, lưng ông cong vẹo như một chiếc lưỡi câu, là hậu quả của việc lao động quá sức thời niên thiếu.

Thuở nhỏ, xương chân ông bị hoại thư, nghe đâu rằng bệnh tình vô cùng nguy hiểm, khó lòng giữ được đôi chân. Hết phương cứu chữa mới tìm đến một danh y nổi tiếng trong huyện có biệt danh là “đại nhân cắn người”. Y thuật của người này vô cùng cao diệu, đặc biệt là đối với những chứng bệnh thuộc về ung bướu, hoại thư. Nhưng khổ nỗi, người này tính tình cổ quái, không mang xe ngựa đàng hoàng đến rước thì không rời khỏi nhà, ăn toàn thịt cá cao cấp, uống rượu ngon, tiền công lại rất cao, do vậy mà mới có tên “đại nhân cắn người”. Thuê một chiếc xe đưa được vị này đến cũng nhờ có họ hàng dây mơ rễ má với nhau. Do vậy mà “đại nhân cắn người” không cắn người nữa, cho ba thang thuốc, quả quyết rằng sau mỗi thang là bệnh tình sẽ có chuyển biến. Ông nội Tứ - anh của ông nội tôi cũng là một thầy thuốc đông y - vốn không hề phục vị “đại nhân cắn người” này bao giờ, do vậy mà chứng kiến tận mắt bệnh tình của ông nội dần dần chuyển biến tốt như dự báo của “đại nhân cắn người”, lúc bấy giờ mới tâm phục khẩu phục. Ông nội bảo, sau khi uống xong ba thang thuốc, chân của ông bắt đầu sưng lên như một quả dưa chín mọng, gắn vào đó mười mấy cọng cỏ rỗng ruột, máu huyết theo đó chảy ra đến hàng lít, bệnh của ông nội khỏi hẳn. Nghe đâu là “đại nhân cắn người” còn có thể cho thuốc để chuyển những mụn nhọt lở loét trên đầu xuống dưới mông hoặc bất kỳ chỗ nào khác trên cơ thể, tuy đối với người khác có thể cho là huyễn hoặc nhưng tôi thì tin. Trong rất nhiều những thầy thuốc đông y có nhiều người nửa tiên nửa tục như thế.

Trong ký ức của tôi, mùa thu hoạch lúa mạch hàng năm là thời gian vui nhất. Lúc ấy, màu vàng bao phủ mặt đất. Để tranh thủ thời gian, cánh đàn ông thường ra đồng từ khi sao trời còn đang lấp lánh, cơm sáng thường phải mang ra tới tận ngoài đồng. Nhà nào cũng mang tất cả lúa mạch còn lại của năm trước xay hết để làm thật nhiều bánh bao khao mọi người. Năm mười ba tuổi, tôi rời khỏi đội nhi đồng thu nhặt những bông lúa rơi vãi để cầm liềm chính thức gia nhập vào đội gặt của đội sản xuất. Chiếc liềm của tôi được chính ông nội mài, sắc bén vô cùng, chỉ cần cứa nhẹ là thân lúa đứt gọn. Tinh thần cực kỳ phấn khởi, tôi cầm liềm theo chân người lớn ra đồng dưới bầu trời đầy sao để đến với những khoảnh lúa mạch đang tỏa hương thơm nồng, có lẽ sự hưng phấn của tôi có thể so sánh với những chiến sĩ lần đầu tiên được tham gia vào một trận đánh lớn.

Quê tôi đồng ruộng mênh mông, hoa màu thường được gieo trồng tập trung, những khoảnh ruộng cho dù là cao lương hay tiểu mạch đều ngút ngàn tầm mắt. Khoảnh ruộng buổi sáng đầu tiên tôi tham gia vào đội gặt được xem là ngắn nhất nhưng cũng kéo dài đến tận cây số. Mỗi người đảm nhận cắt hai hàng lúa, dàn thành hàng ngang, đội trưởng đứng ở đầu hàng, tôi đứng ở cuối hàng. Cắt được khoảng một tiếng đồng hồ, ngẩng đầu lên thì những người bên cạnh tôi đã biến đi đâu mất không còn bóng dáng. Lúc này, màu đỏ mới bắt đầu xuất hiện ở tít tắp chân trời, những đám mây ở bên ấy cũng biến thành mây đỏ. Những chú chim dậy sớm bắt đầu cất tiếng hót líu lo trên bầu trời xam xám, không khí ẩm thấp có mùi vị của bã rượu. Tôi ưỡn thẳng cái lưng mỏi nhừ chăm chú nhìn những luống lúa đã được cắt nằm rất chỉnh tề trên ruộng, những người lớn đang đứng trên bờ đê xa xa chờ cơm sáng. Thì ra tôi mới chỉ đi được nửa quãng đường mà người ta đã phân công cho mình.

Đội trưởng cùng với vài người nữa giúp tôi gặt xong hai luống lúa. Tôi xách liềm, cảm thấy hổ thẹn vô cùng bước lên bờ đê. Vừa định cầm bát để múc một ít cháo gạo trộn đậu xanh miễn phí, một người đàn ông dáng người nhỏ thó nhưng thành phần xuất thân rất tốt và thường ăn nói rất ngang ngạnh đã giật chiếc bát trên tay tôi vất xuống đất, nói một cách thâm độc: Còn mặt mũi mà ăn cháo nữa à? Mày nhìn hai hàng lúa mà mày đã gặt xem, chừa gốc rạ lại quá cao, bông lúa lại rơi vãi quá nhiều, hao phí quá. Đáng ra phải trừ vào phần lương thực được nhận của nhà mày! Đúng là lời của ông ta quá nặng nề, tôi nghẹn lời không nói được câu nào, nước mắt trào ra, uất ức.

Đội trưởng nói: Thôi, cậu quay trở về đội nhặt bông lúa rơi vãi vậy, lớn thêm vài tuổi nữa, lúc ấy sẽ là chủ lực của đội gặt.

Ngay buổi trưa hôm ấy, ông nội đã biết chuyện này, giận lắm. Ăn cơm trưa xong, ông cầm một chiếc liềm ra thẳng ngoài ruộng. Ông nội vốn không muốn vào hợp tác xã nhưng ông không thể chống đối với tư tưởng tiến bộ của bố tôi. Sau khi vào hợp tác xã, ông thề là không thèm ăn lương thực của hợp tác xã, ông ra đồng cắt cỏ để bán, khi không có cỏ thì đi làm thợ mộc. Do vậy mà việc ông xuất hiện trong ruộng lúa của hợp tác xã khiến mọi người lấy làm lạ. Đội trưởng rất lịch sự chào hỏi, ông nội không nói lấy một lời, chọn một luống tiểu mạch rất tốt, bông lúa nặng trĩu ngã rạp xuống đất, khom người xuống và bắt đầu vung liềm. Roạt roạt roạt… Một bó to tiểu mạch được cột một cách gọn gàng, hai đầu xòe rộng được quẳng xuống trước mặt mọi người. Những động tác gặt lúa của ông vô cùng thành thục, đẹp mắt và nhanh nhẹn, khó có ai có thể đọ được. Mặt người đã mắng té tát vào mặt tôi đỏ rần lên. Ông nội nói: Các người đã cắt được mấy mẫu tiểu mạch? Việc gì mà mặt mũi lấm lem bẩn thỉu thế kia? Mấy chục năm trước tôi đi gặt thuê cho địa chủ, mặc quần dài trắng, một tay vung liềm, một tay xách lồng họa mi, gặt lúa cả ngày, chiếc quần của tôi vẫn trắng tinh.

Lời ông nội quả thật có chút cường điệu, nhưng kỹ thuật gặt lúa của ông thì đúng là không chê vào đâu được, nhìn những khuôn mặt ngây độn của họ khi nhìn ông tôi cắt lúa thì biết. Ông nội nói xong, ai nấy đều len lén thở hắt ra.

Ông nội tôi biết đan lưới, biết đan lồng chim, biết bắt cá, bắt cua, lại bắn chim rất tài. Ông là một nông dân có nhiều tài vặt. Sau này, công xã tiến lên giai đoạn ăn tập thể, xem xã viên như các loài gia súc vục đầu vào chung một máng, mọi người vật vã trong cuộc sống bán quân sự hóa, muốn ra chợ cũng phải báo cáo với lãnh đạo công xã, con người không còn làm chủ thời gian sinh hoạt của chính mình nên những nông dân tài hoa như ông nội tôi cũng không còn xuất hiện nữa. Mấy năm gần đây, đất đai đã được phân đến tận tay các hộ nông dân, cuộc sống của họ khá lên rất nhiều so với thời tôi còn ở nông thôn. Tuy cuộc sống vẫn còn khổ lắm nhưng cá nhân con người đã được khôi phục sự tự do tương đối, trí tuệ của người nông dân có cơ hội được phát huy. Nếu ông nội tôi còn sống đến lúc này, nhất định ông sẽ cảm thấy hạnh phúc vô cùng.

Trên thực tế, ai cũng biết chuyện xây dựng công xã nhân dân là không thể thành công nhưng không ai dám nói ra. Thượng cấp thay đổi chính sách, ngay lập tức đã giải quyết được chuyện ăn no, mặc ấm, nhà cửa cũng đã được xây cất đàng hoàng hơn. Nắm trong tay một vùng đất phì nhiêu như vậy mà lại đói trong một thời gian dài, chuyện này không biết là nên oán hận ai. Ngày ấy, ông tôi chửi công xã nhân dân chỉ là một cái đuôi thỏ, không bao giờ có thể dài ra và bị xem là một tội lớn, bây giờ mới thấy nó quá đúng.

Nói về quê hương, về nông thôn quả thực là có rất nhiều vấn đề để nói, chẳng hạn như những nhận thức về chính trị của nông dân, vấn đề gia tộc, về thời vụ, về thời tiết, về hoa màu cây cối, đất đai sông ngòi, gia cầm gia súc, ruồi muỗi chấy rận, phong tục tập quán, lũ lụt hạn hán, chuyện lạ người kỳ… Tất cả đều có thể trở thành những đề tài để viết thành những bộ tiểu thuyết dài. Chỉ tiếc là số trang có hạn, đành lòng phải kết thúc bài viết chẳng ra ngô cũng chẳng ra khoai này ở đây, mong độc giả hạ cố ghé mắt nhìn qua.

Tháng 6 - 1990