Ba bài bút ký về chuyện đọc sách 1. Sở Bá Vương và chiến tranh
Điều vĩ đại nhất của Tư Mã Thiên trong “Sử ký” là nhà sử học đã triệt để đả phá mô thức tư duy “thành công thì trở thành vương hầu, thất bại thì biến thành đạo tặc” rất thịnh hành trong xã hội loạn lạc ngày xưa. Trong hoàn cảnh xã hội lúc ấy, đây là một nhãn quan độc đáo đầy tính nhân đạo, tất nhiên phải cần có dũng khí không sợ bị chặt đầu. Căn nguyên của cái nhìn nhân đạo và dũng khí này có liên quan mật thiết đến chuyện Tư Mã tiên sinh chịu nhục hình. Trong xã hội ấy, nhục hình và chặt đầu xem ra cũng chẳng khác gì nhau. Có rất nhiều người không thể chịu nỗi nhục hình mà sẵn sàng chấp nhận bị chặt đầu, nhưng vì trong lòng còn ôm ấp “Sử ký” đang dở dang nên Tư Mã Thiên đã cắn răng chịu nhục; cũng có thể chính vì do Tư Mã Thiên bị nhục hình mà mới có “Sử ký” vĩ đại truyền lại cho đời nay. Một lệnh truyền của Hán Vũ Đế đã dứt bỏ toàn bộ những tư tâm tạp niệm của Tư Mã Thiên, nhưng đồng thời cũng tạo dựng nên chân dung một anh hùng chân chính. Phàm là con người đang trong lúc đắc ý thì chỉ nhìn đời từ phía chính diện, dùng quan điểm của giai cấp thống trị để nhìn nhận thế giới; nhưng khi thân lâm vào nghịch cảnh thì con người mới có thể thay đổi cách nhìn đời ở một góc độ khác, thậm chí là từ mặt trái. Điều này có những nguyên nhân vật chất lẫn tinh thần, nhưng nguyên nhân nào cũng quan trọng như nhau. Vô luận là dùng quan điểm văn học hay quan điểm sử học để đọc “Sử ký” đều có thể nhận ra ý nghĩa trọng đại trong việc thay đổi góc nhìn này. Kết quả của việc thay đổi góc nhìn về thế giới là xóa bỏ được những thiên kiến và chấp nê để từ đó dễ dàng nhận ra bản chất của cuộc đời. Những người hiểu ra được điều này thường không thể không rơi vào trạng thái bi thương, cô đơn lặng lẽ nhưng cũng là tâm thế không ham không muốn, siêu nhiên bên ngoài sự vật. Tôi đã chịu được nhục hình vốn đáng sợ hơn cái chết, tôi giãy giụa để thoát ra từ con đường chết thì còn gì có thể trở thành kỵ húy đối với tôi? Có tinh thần “không kiêng dè gì nữa” làm tiền đề mới có thể bóc trần những quan điểm chính thống, hoàng quyền; đứng ở góc nhìn mới để vẽ lên một phương diện khác của “đạo tặc” - Bản sắc anh hùng của một người anh hùng thất bại. Thực tiễn của Thái sử công vẫn là một bài học, một sự gợi ý cho những tác gia hiện đại.
Thường nghe thầy giáo của tôi giảng rằng, Tư Mã Thiên sống trong một thời đại rất lãng mạn. Thời đại lãng mạn mới có thể sản sinh một đại tính cách lãng mạn. Quay về với thời Hán - Sở tranh hùng, nhân vật đại biểu của tinh thần thời đại, đầy ắp khí chất lãng mạn và được xem là anh hùng nhất, ngoài Hạng Vũ ra thì không ai xứng đáng hơn. Tinh thần của Hạng Vũ đã cộng hưởng với Tư Mã Thiên. Một thiên “Hạng Vũ bản kỷ”, từng chữ từng chữ đều gói trọn thâm tình của Thái sử công để từ đó chúng ta nhận ra bản sắc anh hùng vô song của con người thất bại Hạng Vũ. Thuở thiếu thời, Hạng Vũ đọc sách không thành, chuyển sang học kiếm thuật; học kiếm thuật không thành chuyển sang đọc binh thư; đọc binh thư không mong hiểu được một cách thấu đáo. Có thể xem đó là điều hay, bởi mọi tri thức quá cụ thể dễ dàng biến thành sự trói buộc, là sợi dây cương đối với con thiên mã tự do này. Mình cao tám thước, sức mạnh cửu đỉnh chính là khí độ anh hùng thiên bẩm. Lâm nguy không biến sắc, anh dũng quyết đoán là thiên bẩm của một chiến sĩ. Thuở nhỏ tôi sống ở Cao Mật, đã từng nghe qua rất nhiều truyền thuyết và tất nhiên trong đó có nhiều truyền thuyết có liên quan đến Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ.
Ông nội tôi nói: Sở Bá Vương do rồng sinh ra, uống sữa hổ mà lớn lên. Khi Tần Thủy Hoàng đi tuần du về phía Đông, đã từng giao hợp với con gái Đông Hải Long vương trong mơ. Hành sự xong, Tần Thủy Hoàng chia tay người đẹp mà không hề có tí lưu luyến nào, nhưng cô Long nữ thì đã hoài thai và sau đó thì sinh ra một thằng bé đen sì và mập mạp. Có thể Long nữ đã nghĩ thằng con này không hợp đạo lý, danh bất chính ngôn bất thuận, tin tức mà lọt ra ngoài làm ô uế thanh danh của Long cung nên đã đem bỏ vào rừng sâu. Vì thằng bé là giống rồng đúng nghĩa, không thể để cho nó chết đơn giản như vậy nên một con hổ đã đến cho nó bú, lớn lên chính là Hạng Vũ. Ngoài chuyện thuyết minh nguồn gốc cao quý và giải thích sức mạnh như thần của Hạng Vũ, truyền thuyết này còn có những ý nghĩa thâm vi khác. Đó là, nếu Hạng Vũ đoạt lấy giang sơn của nhà Tần và lên làm vua có nghĩa là đã kế thừa vương nghiệp của cha ông một cách danh chính ngôn thuận. Do đó mà suy, nguồn gốc của truyền thuyết này có lẽ là những điều đơm đặt từ miệng bọn thủ hạ của Hạng Vũ, cũng giống như chuyện Trần Thắng và Ngô Quảng khi phát động khởi nghĩa nông dân đã sai thuộc hạ viết câu “Đại Sở hưng, Trần Thắng vương” đem nhét vào bụng cá để lừa mọi người vậy thôi. Kiểu mị dân này thời nào cũng có, nhất là khi chuẩn bị lập quốc khai triều. Ông nội tôi bảo, Sở Bá Vương có thể “khí xuy thiềm ngõa”. Chính là khi Hạng Vũ đứng ở dưới mái hiên, hơi thở của ông ta mạnh đến độ làm cho mái ngói ở trên rơi xuống. Chuyện này quá hoang đường, nhưng hoang đường hơn cả là chuyện sau đây. Ông nội tôi nói, ngoài chuyện có thể thở làm rơi ngói bên thềm, Hạng Vũ còn có “quá đỉnh chi lực”. Đó là, Hạng Vũ có thể dùng tay tự nắm lấy đầu tóc của mình rồi nhấc lên, toàn thân ông ta sẽ nhấc khỏi mặt đất, nếu chuyện này mà có thật thì Sở Bá Vương là người duy nhất trong lịch sử loài người có khả năng tự nâng mình lên khỏi mặt đất. Thần lực này đích xác là siêu việt khác thường. Đến khi đọc “Sử ký - Hạng Vũ bản kỷ” mới đoán rằng, “quá đỉnh chi lực” mà ông nội tôi nói có thể là một cách biến tấu khả năng dùng sức mạnh nhấc đỉnh nặng của Hạng Vũ. Có lẽ bách tính không đủ khả năng để lý giải cụm từ lực năng giang đỉnh 力能¸鼎” nên đã hiểu thành “lực năng quá đỉnh 力能^頂?” để biến Hạng Vũ trở thành người tự nhấc mình lên khỏi mặt đất một cách thần thánh như thế.
Tôi nghĩ, hình tượng Hạng Vũ trong dân gian không hề là loạn thần tặc tử mà là một anh hùng cái thế nhất định có ảnh hưởng đến ngòi bút của Tư Mã Thiên để ông viết lên kiệt tác “Hạng Vũ bản kỷ”. Một đao “cung hình” của Hán Vũ Đế đã tạo nên một cái nhìn mới, một cây bút lớn, nói không quá đáng là đã sản sinh cho lịch sử văn minh nhân loại một anh tài và một kiệt tác. Không ít những bậc thức giả đương đại, chỉ cần gặp phải một chút oan khuất là cứ nhắc đi nhắc lại, nhưng so với Tư Mã Thiên quả thật không thể bằng. Đương nhiên, không phải là để cho những bậc thức giả đương đại có những tác phẩm tốt mà cố tình giáng oan khuất vào đầu họ, bởi nếu như vậy họ chỉ có thể trở thành một Lý Liên Anh hay là Tiểu Đức Trương mà không thể nào là một Tư Mã Thiên.
Đọc bản kỷ của Hạng Vũ, tôi có cảm giác con người này hình như không để tâm lắm đến việc đánh nhau. Hạng Vũ đánh nhau cũng giống như chuyện du hí vui vẻ. Đây chính là sự hoạt bát, là anh nhiên, là “đồng tâm - bản tính con trẻ”, là “đồng thú - thú vui con trẻ” của một người anh hùng. Ông “đập nồi dìm thuyền” thể hiện quyết tâm, đốt nhà… chính là những biểu hiện sự phá hoại theo ý thức “đồng tâm” điển hình. Mỗi lần giao chiến, Hạng Vũ dẫn đầu sĩ tốt, trông ông ta chẳng ra vẻ gì của một vị thống soái mà lại là một tên lính tiên phong, không xung phong không la hét không chém giết là cảm thấy chân tay ngứa ngáy và trong lòng không vui. Hạng Vũ chỉ biết đấu dũng đấu lực mà không thèm đấu trí, bảo ông sắp đặt một mưu kế nào đó là ngay lập tức cảm thấy đầu thống tâm phiền. Đến những thời khắc cuối cùng, Hạng Vũ vẫn cùng mỹ nhân và tuấn mã ca vang; thảm bại đến mức chỉ còn 28 kỵ binh bên mình mà ông vẫn còn cá cược với thuộc hạ, vẫn muốn chứng minh thần lực của mình. Cuối cùng, một mình ông đứng bên bờ Ô Giang mà vẫn đem tuấn mã tặng cho hảo hán, đem đầu lâu tặng cho người quen cũ. Ông không muốn qua Giang Đông không phải vì không đủ can đảm để gặp mặt Giang Đông phụ lão mà vì cảm thấy đánh nhau như thế đã đủ, đã phiền, không muốn đánh nữa. Không muốn đánh nữa thì dùng dao cứa cổ, thế thôi. Kỳ thực, Hạng Vũ chưa hề nghĩ đến chuyện soán đoạt giang sơn lên làm Hoàng đế, tất cả đều do bọn Phạm Tăng ép ông ta phải làm, những say mê của ông không phải ở chuyện soán đoạt giang sơn để lên làm Hoàng đế. Nếu để ông làm Hoàng đế, đó chính là “vượn đội mũ người”. Khi tự phong làm Tây Sở Bá vương, phân vương cho nhiều người khác, vai trò của Hạng Vũ chẳng khác nào Hoàng đế, nhưng rõ ràng vai trò này không hợp nên ông đã làm tất cả trở nên hồ đồ. Thử nghe cái tên hiệu của ông: Tây Sở Bá vương - đúng là rất trẻ con. Giống như tâm thế của một đấu sĩ dùng nắm đấm để tạo dựng uy phong, ông sinh ra là để đánh nhau, đánh nhau một cách dũng cảm chính là cảnh giới cao nhất, là lạc thú lớn nhất của ông. Nếu chọn một vị thần chiến tranh cho Trung Quốc, Hạng Vũ phải là ứng viên đầu tiên. Đừng tiếc nuối gì cho ông ấy cả, đã có đến mấy trăm người làm Hoàng đế nhưng chỉ có một Hạng Vũ trong lịch sử Trung Quốc. Đương nhiên, chúng ta cần phải cám ơn Lưu Bang. Trong vũ đài chiến tranh giữa Hán và Sở, Lưu Bang đã trở thành một trợ thủ đắc lực để làm phong độ hùng tráng oai phong của Hạng Vũ bộc lộ rõ ràng hơn, từ đó làm cho cục diện lịch sử trở nên phong phú hơn, đáng xem hơn. Giả sử cuộc chiến này có hai Hạng Vũ hoặc hai Lưu Bang đánh nhau thì lịch sử thời kỳ ấy chẳng có gì đáng bàn cả.
Nhìn ở góc độ chính trị, Lưu Bang đã thắng, Hạng Vũ đã thất bại; nhìn từ góc độ nhân sinh, cả hai đều đã thành công. Cả hai đều đã làm được những điều mà họ muốn làm, hơn nữa còn làm rất tốt. Lưu Bang thành công ở kết quả, Hạng Vũ thành công ở quá trình. Thiên “Hạng Vũ bản kỷ” dưới ngòi bút của Thái sử công, giá trị đầu tiên phải kể tới là mặt văn học, kế đến mới là sử học, là một áng văn chương thể hiện đầy đủ cái nhìn khách quan đồng thời cũng thể hiện cái nhìn chủ quan về sử học.
Ngẫm lại, chiến tranh - cho dù không phải là toàn bộ thì cũng là huy hoàng nhất, bộ phận hợp thành tráng lệ nhất trong lịch sử nhân loại. Chiến tranh sản sinh ra những nhân tài ưu tú nhất, tập trung trí tuệ cao nhất của mỗi thời đại, là sân khấu để con người biểu diễn sự thông minh tài trí của mình một cách tập trung nhất. Do vậy, trên một ý nghĩa nhất định nào đó, lịch sử chính là lịch sử chiến tranh, văn học cũng chính là văn học chiến tranh. Nhà tiểu thuyết quan sát những góc độ của chiến tranh, nghiên cứu những phương thức chiến tranh. Thái sử công là đại gia miêu tả chiến tranh, đương nhiên cũng là ông tổ của văn học chiến tranh. Ông cũng viết về quá trình phát triển của chiến tranh, nhưng quan trọng hơn cả là xây dựng những tính cách cực kỳ sinh động trong chiến tranh. Chúng ta đều đã biết viết như thế nào về chiến tranh cho hay, nhưng khi cầm lấy bút thì chúng ta quên mất văn học, quên văn học bởi chúng ta không quên được chính trị. Miêu tả những thảm họa của chiến tranh cũng như những số phận bi thảm của con người trong chiến tranh được xem là một hướng khai thác đúng đắn, nhưng thói đời vẫn là “Lý Đỗ thi thiên vạn khẩu truyền, Chí kim dĩ giác bất tân tiên - Thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ truyền qua hàng vạn miệng, đến nay mới hiểu là chẳng có gì mới”. Viết chiến tranh như thế nào, tôi đã nhiều lần muốn thử, nhưng có quá nhiều vấn đề nghĩ chưa thông suốt nên không dám động bút một cách dễ dãi. Trong đầu tôi đang ẩn tàng mấy câu chuyện chiến tranh rất hay, rồi sẽ có một ngày tôi sẽ đủ can đảm mà động bút thôi.
Anh hùng - trong bất kỳ ý nghĩa nào mà nói, đều phải vượt ra khỏi những phép tắc đã mặc định, tất nhiên không phải vượt qua toàn bộ mà một bộ phận nào đó, do vậy mà anh hùng một cách triệt để là không hề tồn tại. Hạng Vũ có chỗ chưa triệt để của Hạng Vũ, Tư Mã Thiên cũng có chỗ chưa triệt để của Tư Mã Thiên. Những người bình thường thường vướng víu những sợi dây trói buộc, do vậy mà có thể coi thường một vài phép tắc nào đó là anh ta đã đặt một chân lên con đường dẫn đến anh hùng. Tính cách đáng quý nhất của Hạng Vũ là thủy chung, ông vẫn giữ được cái “đồng tâm - tâm tình con trẻ”. Điểm này có chỗ tương thông với Tư Mã Thiên. Trong “Hạng Vũ bản kỷ”, Tư Mã Thiên biểu lộ sự đồng tình sâu sắc với Hạng Vũ, đồng thời có những phê phán đối với ông vua khai quốc của vương triều nhà Hán. Điều này nhất định có liên quan đến việc ông chịu nhục hình. Nếu như vậy, vấn đề đã nảy sinh: Hạng Vũ dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên có đúng là một Hạng Vũ trong cuộc đời thực hay không? Tương tự, có phải Lưu Bang trong sách của Tư Mã Thiên là trùng khít với Lưu Bang trong cuộc đời thực? Tôi chạnh nghĩ tới câu nói của Hồ Thích: “Lịch sử là một cô gái nhỏ được con người đánh phấn thoa son cho”. Thiết nghĩ, câu nói này cũng có phần hợp lý.
2. Trên đỉnh cái kỳ viết bản thảo
Trên một ý nghĩa nào đó, lịch sử luôn có tính chất truyền kỳ. Đây là cảm tưởng khi đọc lịch sử của tôi, cũng là kết luận đúc kết những kinh nghiệm cá nhân của tôi. Những năm lao động ở quê hương, tôi thường nghỉ giải lao cùng với những người lớn tuổi trên một phần mộ hoang giữa đồng, có lẽ đây là phần mộ mai táng một người anh hùng thảo dã nào đó. Trên chiếc cầu chòng chành xiêu vẹo xa xa kia có lẽ đã từng phát sinh một câu chuyện lãng mạn kinh tâm động phách. Phía sau con đê cao cao kia có lẽ đã từng có thiên binh vạn mã mai phục. Những người già ngồi bên cạnh tôi hút thuốc đây có lẽ là những người đã tận mắt chứng kiến câu chuyện ấy? Biết đâu trong số họ lại có người trực tiếp tham gia? Họ đang xúc cảnh sinh tình mà kể lại cho tôi nghe câu chuyện có thể là họ nghe kể lại, cũng có thể là chính mắt họ trông thấy. Tôi phát hiện ra rằng, cùng kể về một câu chuyện nhưng mỗi người lại kể mỗi khác; cùng một câu chuyện và cùng một người kể nhưng mỗi lần kể lại khác nhau. Cho dù câu chuyện cũng chỉ mới diễn ra mấy chục năm trước, nhưng trong những lời kể của họ đã biến thành thiên hình vạn trạng, dị bản quá nhiều, trừ sự kiện chủ yếu là có chỗ thống nhất, những tình tiết chung quanh cái sườn sự kiện ấy lại phong phú vô cùng, khó mà phân biệt là giả hay chân. Tôi phát hiện ra rằng, trong khi kể lại những điều ấy, người kể không ngừng tra dầu thêm mỡ, không ngừng nhuận sắc thêm tùy theo sự thăng hoa về cảm hứng. Anh hùng được thêu dệt cho thêm anh hùng, kỳ nhân được điểm xuyết cho thêm kỳ. Không có người kể nào không tra dầu thêm mỡ vào chuyện kể của mình; cũng không có nhà sử học nào dám khẳng định mình chỉ ghi chép lịch sử một cách khách quan. Bởi con người luôn luôn có đời sống tình cảm, có thiện có ác nên muốn khách quan cũng không thể khách quan nổi. Hãy xem “Sử ký” của Tư Mã Thiên, chúng ta dễ dàng phát hiện ông vô cùng phẫn uất với ngai vàng của họ Lưu. Phàm là những ai bị họ Lưu bức hại hoặc đè nén, Tư Mã Thiên luôn luôn có một sự đồng tình không hề giấu giếm, khi miêu tả những nghiệp tích của họ, ông thường có những lời tán dương rất nhiệt thành, thậm chí tán dương đến độ khoa trương. Chẳng hạn khi viết về Đại tướng quân Hàn Tín, Phi tướng quân Lý Quảng, Tây Sở Bá vương Hạng Vũ… Tư Mã Thiên dám liệt Hạng Vũ vào hàng “bản kỷ” để cho người anh hùng này thụ hưởng sự đối đãi ngang hàng đế vương. Khi viết “liệt truyện” về Hàn Tín và Lý Quảng, sự kính trọng của ông thể hiện ở chỗ ông không gọi tên hai người mà xưng hô là Hoài Âm hầu và Lý Tướng quân. Chỉ cần nhìn vào tiêu đề đã thấy tấm lòng kính trọng của Thái sử công đối với những người này. Xét đến ngọn nguồn của những nguyên nhân, có lẽ không ngoài một nhát dao vô tình của Hán Vũ Đế khiến ông chịu một nỗi nhục lớn nhất trong đời một kẻ sĩ. Thế thì làm sao mà khách quan cho được? Do vậy mà suy, những gì trong lịch sử mà hôm nay chúng ta đọc được đều đã bị các nhà sử học, nhà văn, kể cả bách tính, thêm dầu bớt mỡ, biến chúng thành những sản phẩm của sự yêu thương, căm giận hết cả rồi. Với những sự thật đó, chúng ta đọc lịch sử có khác nào chúng ta đang đọc truyền kỳ; chúng ta đọc “Sử ký” có khác nào chúng ta đang đọc một cuốn sử tâm linh của Tư Mã Thiên?
Đặc điểm lớn nhất trong cuộc đời Tư Mã Thiên là “hiếu kỳ” - tức rất ưa thích điều kỳ lạ. Ưa thích điều kỳ lạ là bản tính tự nhiên của nhân loại. Bản tính tự nhiên của con người dễ dàng biểu lộ trong thời niên thiếu, cho nên trẻ con “hiếu kỳ” nhất. Tư Mã Thiên đã già nhưng vẫn “hiếu kỳ”, do vậy mới nói ông là một nhà văn luôn mang tình “đồng tâm” - tâm hồn con trẻ. “Đồng tâm” của Tư Mã Thiên biểu hiện trong văn chương, “đồng tâm” của Hạng Vũ biểu hiện trong chiến tranh.
Dương Hùng đời Hán là người phát hiện ra Tư Mã Thiên “hiếu kỳ” sớm nhất. Tô Triệt đời Tống cũng nói: “Thái sử công đi khắp thiên hạ, du lãm tứ hải danh sơn, giao du với những kẻ hào kiệt ở vùng Yên Triệu, do vậy mà văn của ông thông suốt, có khí vị thần kỳ”.
“Hiếu kỳ” chính là hạt nhân tinh thần lãng mạn của Tư Mã Thiên.
Khoảng 20 tuổi, Tư Mã Thiên đã “phía Nam đến vùng Giang, Hoài; lên Hội Kê khảo sát mộ vua Vũ; qua Cửu Nghi, du lãm Hoàn, Tương; phía Bắc đến tận Vấn Thủy, Tứ Châu, đến đất Nghiệp, kinh đô hai đời Tề Lỗ; xem di phong Khổng Tử; đến đất Trâu, Dịch; bị khổn ở đất Phàn, Tiết, Bành Thành; qua Lương Sở rồi quay về”. Tinh thần “hiếu kỳ” dẫn dắt ông du lãm sơn lâm, truy tìm nguồn cội để làm cho tầm nhìn của mình rộng mở, tăng thêm kinh nghiệm thực tiễn. Tất cả những điều ấy làm cho văn của ông dồi dào sinh lực, kỳ lạ siêu nhiên, biến hóa khôn lường.
Điểm “hiếu kỳ” đặc biệt nhất là cái kỳ bên trong con người. Cái kỳ bên trong con người cũng gọi là cái tài, tức kỳ tài.
Dưới ngòi bút của ông, những nhân vật thành công trong cuộc đời đều có những chỗ “kỳ”, đều có những hành vi kỳ quái vượt qua bình thường. Mà tất cả những kỳ nhân kỳ tài dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên đều là những “gà trống độc hành”, là “ngựa trời giữa mây”. Cái kỳ của Hạng Vũ là đọc sách không thành, học kiếm không thông, đọc binh pháp không hiểu, cuối cùng là không học mà có thuật riêng, kỳ ở chỗ là ông chiến đấu một cách tự nhiên thiên thành. Cái kỳ của Hàn Tín là lấy cái tâm hùng vĩ để khuất phục chịu nhục, sau khi thành đại tướng thì sử dụng kỳ mưu kỳ kế; kỳ ở chỗ chịu chết một cách mơ mơ hồ hồ; kỳ ở chỗ là người giết Hàn Tín cũng chính là người tiến cử Hàn Tín. Đó chính là “thành cũng do Tiêu Hà, bại cũng do Tiêu Hà”. Cái kỳ của Lý Quảng chính là sức khỏe hơn người, xạ tiễn xuyên qua cả đá cứng, thân lập kỳ công mà lại chịu kỳ oan… Kỳ không kể hết được. Cho nên mới nói, một bộ “Sử ký” chính là nơi Thái sử công thi triển cái “kỳ học”, chuyển tải cái “kỳ khí”, gửi gắm cái “kỳ oan”, thể hiện cuộc đời của một “kỳ nhân”, để lại cho thiên thu vạn cổ một “kỳ thư”.
Thưởng thức cái kỳ tài, thích nghe kỳ nhân kỳ sự chính là sự biểu hiện cái bản tính “hiếu kỳ” rất tự nhiên của nhân loại. Trong thời đại đạo đức hiện nay, người ta thụ lập nên không biết bao nhiêu là bia, dựng nên không biết bao nhiêu là tường… mục đích cuối cùng là rất đơn giản: phòng ngừa mọi người “hiếu kỳ”. Cho nên, đứng ở một ý nghĩa nào đó mà nói, bất kỳ xã hội nào cũng đều là xiềng xích đối với bản tính hiếu kỳ tự nhiên của con người. Đương nhiên chuyện đó không thể nào khác hơn được.
Chỉ có “hiếu kỳ”, con người mới có những tư tưởng diệu kỳ, mới có thể có những cái mới. Có những cái mới về tư tưởng mới có thể có những sáng tạo mới trong nghệ thuật. Từ một ý nghĩa nào đó mà nói, sự sáng tạo cái mới trong nghệ thuật chính là những tiến bộ của đời sống xã hội.
Những người “hiếu kỳ” thường không được người ta ưa thích, mặc dù người ta luôn “hiếu kỳ”.
“Hiếu kỳ” và bảo thủ vốn là một cặp mâu thuẫn.
Kẻ “hiếu kỳ” luôn luôn gặp phải những kết cục kỳ dị.
Cả một đời “hiếu kỳ”, Kim Thánh Thán đã vì “hiếu kỳ” mà gặp đại họa, khi sắp bị hành hình, nói: “Chặt đầu đau lắm, tịch biên gia sản thảm lắm, nhưng Thánh Thán này lại không tự nguyện mà lại được. Đại kỳ!”.
Thì ra “hiếu kỳ” cũng có cái giá của nó!
Đối với một tiểu thuyết gia, “hiếu kỳ” còn quan trọng hơn chuyện học tập nhiều. Học tập chỉ là một trong những biểu hiện của “hiếu kỳ”.
Nếu không có người kỳ việc kỳ, thế giới này chẳng khác một vũng nước ao tù.
Cứ “hiếu kỳ” đi, nhưng không nhất định phải làm một “kỳ nhân”.
3. Ánh trăng như nước chiếu áo đen
Lỗ Tấn tiên sinh trong “Đúc kiếm” đã xây dựng nên hai nhân vật có khí chất anh hùng, đó là Mi Gian Xích và người hiệp sĩ áo đen. Mi Gian Xích vì báo thù cho cha mà khẳng khái vung kiếm cắt đầu mình giao cho hiệp sĩ áo đen. Hiệp sĩ áo đen đã vì cậu báo thù xong, trong thời khắc quyết định nhất cũng tuân thủ những kế hoạch đã định sẵn, vung kiếm lên tự chặt đầu mình. Kiểu anh hùng “nhất ngôn ký xuất”, lấy đầu lâu để phó thác và cũng lấy đầu lâu để làm vật hứa là phong độ của những hiệp khách xưa, nay đọc lại cũng khiến chúng ta bồi hồi.
Mi Gian Xích vẫn còn là một đứa trẻ con, tính khí vẫn còn bồng bột nhưng rất quyết đoán và cũng đầy thiện lương. Cậu bé thậm chí còn thương cả con chuột “chìm trong nước, chỉ có chiếc mũi hồng hồng là còn ló lên khỏi mặt nước”; cứu con chuột lên, lại cảm thấy nó đáng ghét; muốn đập chết nó, lại cảm thấy nó đáng thương. Kiểu tâm lý này đích thực là mô hình tâm lý của nhà nghệ thuật, điều cốt yếu là tình yêu nóng bỏng đối với sinh mệnh, là sự mẫn cảm, là tính thiện, là sự dao động. Kiểu tâm lý này chỉ thích hợp với việc viết tiểu thuyết, không phù hợp với chuyện báo cừu.
Nhưng đã có những đột biến phát sinh. Khi biết phụ thân vì đúc kiếm cho Sở vương mà bị Sở vương giết hại, thời niên thiếu thuần khiết của Mi Gian Xích như có một thanh kiếm thật sắc chặt đứt, chỉ cần một bước nhỏ là cậu đã biến thành người lớn, “toàn thân như có một ngọn lửa thiêu đốt, cảm thấy mỗi sợi lông trên thân thể mình như phát ra những đốm lửa, đôi nắm đấm phát ra những tiếng kêu răng rắc trong bóng tối”. Những lời của mẹ làm cho cậu nhận ra rằng, là một nam tử Hán, mục đích duy nhất của cả một đời là báo thù. Trong khi ngọn lửa phục thù đang âm ỉ cháy trong lòng, cậu đã cầm thanh hùng kiếm “làm cho ánh trăng bên ngoài cửa sổ và ngọn lửa tùng trong nhà mất hẳn ánh sáng”, “cậu cảm thấy tính tình yếu mềm của mình đã biến đổi; cậu quyết tâm cần phải như người không hề có tâm sự buồn phiền gì trong lòng, vùi đầu vào gối ngủ say, sáng sớm tỉnh dậy, không hề có một chút thay đổi nhỏ trên gương mặt, ung dung đi tìm kẻ thù không đội trời chung”. Nhưng những vẻ điêu luyện về tâm tình như thế là quá phần ấu trĩ, những quyết tâm thầm kín của cậu chẳng khác nào những đứa trẻ lúc đánh nhau cắn răng phát hận. Khi đem kế hoạch báo thù thực hiện thì những quyết tâm của cậu bắt đầu dao động. Trên đường, “một đứa bé đột nhiên chạy tới, suýt chút nữa thì va phải thanh bảo kiếm đeo trên lưng khiến cậu sợ toát mồ hôi”. Khi xông vào xe ngựa của Sở vương, “chỉ bước được năm sáu bước rồi ngã chỏng vó”, lại bị một thằng bé mặt đầy tàn nhang ôm lấy chặt cứng. Xem ra, việc báo thù cho cha chỉ có quyết tâm không thôi mà không có bản lĩnh lâm nguy không biến sắc và những kỹ thuật vượt người thường thì không xong rồi. Đang lúc Mi Gian Xích bị thằng bé mặt đầy tàn nhang ôm chặt cứng thì người mặc áo đen “râu đen mắt đen, gầy như một thanh thép” xuất hiện, ông ta nhìn Mi Gian Xích “cười một cách lạnh lẽo”, “giơ tay lên phát vào mông thằng bé nọ mấy cái, đồng thời cũng nhìn thẳng vào mặt nó”. Thằng bé “bất giác nới lỏng tay, phóng chạy mất”. Đôi mắt ông ta hình như có “hai đốm lửa lân tinh”. Đó là một hình tượng báo cừu tàn khốc điển hình. Ông ta không muốn Mi Gian Xích gọi mình là “nghĩa sĩ”, cho mình là “đồng tình với quả phụ con côi”. Ông ta có vẻ phật ý nói: “Ôi, cậu bé, cậu đừng nói đến những cái danh xưng ô nhục đó”. Ông ta nói thật nghiêm trang: “Trượng nghĩa, đồng tình, những chuyện ấy người xưa đều đã thực hiện rồi, lúc này đều đã trở thành những khoản nợ với ma quỷ thôi. Trong lòng ta, về cơ bản, không có những điều như cậu vừa nói. Ta chỉ muốn báo thù cho cậu thôi”.
Ý thức “ta chỉ muốn báo thù cho cậu thôi” đã biểu hiện niềm ưu tư phẫn uất trong lòng, một nỗi niềm gần như tuyệt vọng. Những kích động của ông ta đã thông qua sự rèn luyện đầy gian khổ, giống như quá trình đúc kiếm, đã đạt đến trình độ “thoạt nhìn hình như không có gì cả”. Đây là hình tượng một chiến sĩ chân chính: rèn luyện đã đến mức thượng thừa nên linh khí và tinh khí đã lặn vào bên trong. Trên con người ông ta tìm không ra một biểu hiện nào của “quyết tâm”, “dũng khí” thô thiển như Mi Gian Xích, như ông ta từng nói: “Trong linh hồn của ta có rất nhiều người đã từng bị ta sát hại, ta đã từng căm ghét chính ta”.
Một người từng căm ghét mình như vậy đương nhiên sẽ không bao giờ đem quyết tâm và dũng khí treo trên miệng như một đứa trẻ. Ông ta chỉ theo đuổi cách thức hành động. Những trò quỷ thuật kỳ dị trong truyện chính là sự miêu tả một cách sinh động nghệ thuật báo thù của ông ta.
Tất cả những bạo chúa đều ưa thích sự chém giết. Biết được điều đó, người áo đen đã dùng cái đầu của Mi Gian Xích để dẫn dụ bạo chúa, ông ta đã đúng. Cái đầu của kẻ rất thích xem đầu người chính là một tình tiết tối quan trọng trong quy trình báo thù, một tình tiết rất có ý nghĩa.
Tôi đọc truyện này trong sách trích giảng ngữ văn trung học khi mười mấy tuổi, mười mấy năm sau vẫn không thể quên truyện ngắn này đã kích động tinh thần mình như thế nào. Cho dù lúc ấy, không thể nói là tôi đã hiểu truyện ngắn này một cách đầy đủ, nhưng có thể nói, tôi cũng đã cảm thụ được nội hàm thâm sâu cũng như những hình tượng tượng trưng phong phú và mị lực trong nghệ thuật viết của nó.
Những chiếc đầu lâu rời khỏi thân thể lại vẫn có thể ca hát vang trời, vẫn tiếp tục đấu chọi với kẻ thù, đúng là một cách miêu tả đầy mị lực. Ai cũng hiểu là trong chuyện này có nhiều yếu tố tượng trưng nhưng nào có ai giải thích một cách thấu đáo. Đầu lâu tượng trưng cho cái gì? Thanh kiếm màu xanh tượng trưng cho cái gì, hiệp sĩ áo đen tượng trưng cho ai? Tất cả là đầu lâu mà không phải đầu lâu, là kiếm mà cũng không phải là kiếm, là người nhưng cũng không phải là người. Đây là một dạng tinh thần đen đến độ phát sáng, cũng giống như nhân vật Grigori trông thấy một vầng thái dương màu đen; là một kiểu rét đến độ nóng bức, nóng nực đến độ rét căm. Tất cả những điều đó hoàn toàn phù hợp với tinh thần Lỗ Tấn.
Mỗi lần đọc “Đúc kiếm” tôi đều có cảm giác nhân vật áo đen chính là hóa thân của Lỗ Tấn. Phong cách của Lỗ Tấn giống hoàn toàn với nhân vật áo đen này. Những năm cuối đời, ngòi bút trong tay Lỗ Tấn chẳng khác nào thanh hùng kiếm trong tay người áo đen, hữu hình nhưng vô hình, thô mà rất sắc, giết người không thấy máu, chém người không để lại dấu vết. Những suy tính trong quá trình báo thù của người áo đen chính là những phương pháp mà Lỗ Tấn đã sử dụng để đấu tranh với kẻ thù.
Gần đây tôi có đọc một số tiểu thuyết kiếm hiệp và tôi cũng có những suy nghĩ của riêng mình, nhưng cũng tiếc rằng tính cường điệu khoa trương của chúng quá lớn khiến cho tính ngụ ngôn và tính tượng trưng của tiểu thuyết mất đi khá nhiều. Văn tự và ngôn ngữ sẽ mất sức sống và giá trị thẩm mỹ nếu người viết không biết sử dụng nghệ thuật khoa trương thế nào cho vừa phải, do vậy tiểu thuyết chỉ còn có thể dựa vào sự ly kỳ của cốt truyện để hấp dẫn độc giả mà thôi. Đề tài của “Đúc kiếm” có từ tiểu thuyết truyền kỳ nhưng do Lỗ Tấn gửi gắm rất nhiều tình cảm vào trong đó nên có thể xem đó là một sáng tác mới mà không phải là “Chuyện cũ viết lại”. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến vấn đề những tiểu thuyết nghiêm túc có thể học được những gì từ tiểu thuyết kiếm hiệp, làm thế nào để tiếp thu những điểm mạnh khiến người đọc bị hấp dẫn, từ đó hễ cầm sách lên là đọc một mạch cho đến hết. Có lẽ đây chính là con đường rất thoáng cho tiểu thuyết hiện đại.
Mi Gian Xích chỉ cần nghe những yêu cầu của người áo đen là đã quả cảm vung kiếm lên cắt đầu mình. Hành động này khiến tôi kinh sợ. Thằng bé này sao lại tin tưởng một cách lạ lùng vào con người mới quen biết ấy thế nhỉ? Kỳ thực, nhát kiếm này của Mi Gian Xích còn khó thực hiện hơn với việc tự tay cầm kiếm đi báo thù rất nhiều lần. Lòng tin người khác của cậu ta khiến đất trời cũng phải nức nở. Những tâm hồn phi thường vốn được khoác bên ngoài một vẻ đần độn.
Xét ở nhiều góc độ, những phấn đấu, đau khổ, thành công, thất bại trong cuộc đời của một con người cũng chỉ là mây bay ngang mắt. Người áo đen anh hùng, Lỗ Tấn trong chừng mực nhất định nào đó cũng là anh hùng. Chỉ có như vậy mới xem chuyện sống chết như là lông hồng, nhìn những đổi thay lớn lao của cuộc đời mà không hề nhíu mày nháy mắt.
“Đúc kiếm” sỡ dĩ gây được những xúc động cho người, mấu chốt là ở chỗ nó có một khoảng cách khá xa với hiện thực. Tiểu thuyết không nhất thiết phải giúp người nông dân giải quyết vấn đề ăn mặc, càng không thể giải quyết được chuyện thất nghiệp của công nhân. Điều mà tiểu thuyết muốn nói chính là một thứ tinh thần siêu việt cái bình thường, đương nhiên đó cũng chỉ là loại tiểu thuyết theo sự ưa thích của cá nhân tôi.
Những truyện khác trong “Chuyện cũ viết lại” còn thể hiện nhiều điều khác ở Lỗ Tấn. Tiên sinh thường đem những điều oán hận thay hình đổi dạng đưa vào truyện của mình. Như trong truyện “Lý thủy”, những trang viết về Cố Hiệt Cương theo tôi có thể xem là “bại bút”. Nhưng bất luận là thế nào, “Chuyện cũ viết lại” vẫn xứng đáng là một bộ “kỳ thư”. Cuốn sách này có lẽ đã mang dáng dấp của những trào lưu tiểu thuyết hiện đại, ngay cả những trang bị tôi xem là “bại bút” cũng được người đương đại ca tụng hết lời. Ranh giới giữa sáng láng và tối tăm chỉ là một tờ giấy mỏng.
Đến hôm nay tôi vẫn còn nghĩ rằng, “Đúc kiếm” là tác phẩm hay nhất của Lỗ Tấn, cũng là tác phẩm hay nhất trên văn đàn Trung Quốc.
Tháng 6 - 1990