- 3 . 4 -
Sau cảm giác căng thẳng thần kinh kéo dài từ cả một tuần lễ vừa qua, đột nhiên, tôi cảm thấy một sự mệt mỏi lớn lao. Mệt đến như chưa bao giờ mệt thế. Lúc đang mệt mỏi đó, nếu có ai báo cho tôi biết rằng khi xuống phi trường Tân sơn Nhất tôi sẽ thấy Ngọc đứng chờ đón tôi, có lẽ tôi cũng không đủ cả sức để mà mừng rỡ.
Khi lên phi cơ và khi phi cơ đã bay đi, tôi không thể nào ngủ được mặc dầu tôi rất mệt. Tôi cố gắng bắt tâm trí phải nghĩ tới những chuyện gì khác, tôi cố nhìn những hành khách quanh tôi để quên Ngọc, nhưng nhìn họ tôi lại chỉ thêm tưởng tượng ra Ngọc.
Tôi tưởng tượng ra Ngọc ngồi trong phòng phi cơ này trước đây một tuần. Phi cơ chật ních hành khách nhưng không có một khuôn mặt nào, đàn ông cũng như đàn bà, làm cho tôi phải chú ý. Trừ một người.
Người đó là một thiếu phụ trạc tuổi Ngọc, nàng hao hao giống Ngọc. Nàng đi một mình, và tôi thấy nàng dường như có một điểm giống tôi, hình như nàng cũng có chuyện gì lo âu. Nét lo sợ, khắc khoải, suy tư hiện rõ trên nét mặt nàng. Nhìn nàng tôi có cảm giác như nhìn một cô gái nhỏ bị bỏ rơi.
Và nhìn người thiếu phụ xa lạ ấy, tôi tưởng nhớ lại Ngọc, người đàn bà tôi yêu dấu nhất đời, người mà tôi quen thuộc như chính bản thân tôi vậy. Tôi thắc mắc tự hỏi không biết trong năm năm trời chung sống vừa qua, có bao giờ tôi nhìn thấy nét ưu tư hay chán chường trên mặt Ngọc hay không. Ngọc có bao giờ tỏ ra chán đời không? Không. Chắc chắn là không.
Ngọc là người yêu đời, nàng kiêu hãnh và tự tin. Tôi nghiệm thấy những người nào kiêu hãnh và tự tin không bao giờ chán đời, ít khi bi quan. Người kiêu hãnh không mấy khi than thở về đời sống của mình hoặc của người. Chưa bao giờ tôi nghe tiếng Ngọc than thở về những nỗi khổ đau của nàng. Đến bây giờ hồi tưởng lại tôi mới thấy rằng dường như Ngọc không bao giờ đau khổ.
Vậy mà … trong cơn buồn lo, bối rối của tôi, tôi không tìm thấy cái gì khác giữa người thiếu phụ xa lạ đang lo âu kia và Ngọc.
Tôi tưởng tượng ra vợ tôi dưới nét mặt âu lo của người đàn bà xa lạ kia.
Rất có thể là trong chuyến đi cách đây một tuần của nàng từ Nam Vang về Sàigòn, Ngọc cũng ngồi âu lo như vậy, và rất có thể là một gã đàn ông nào đó đã gợi chuyện làm quen với vợ tôi cũng như tôi đang nghĩ đến chuyện gợi ý làm quen với người thiếu phụ này. May sao chỗ tôi và chỗ người thiếu phụ kia ngồi cách xa nhau, tôi trông thấy nàng nhưng dường như nàng không biết là có tôi đang nhìn nàng. Và biết đâu Ngọc, vợ tôi, lại chẳng mất tích chỉ vì trên phi cơ về nước thăm mẹ, nàng đã nói vài lời với một gã đàn ông lạ …?
Tôi chợt rùng mình tỉnh lại.
Chỉ cần tôi nghĩ bậy như vậy về Ngọc cũng đủ cho tôi thấy rằng thần kinh tôi bị rung động và mất quân bình đến là chừng nào.
Vợ tôi nhất định không phải là một người đàn bà lẳng lơ đến cái độ có thể đi vào một cuộc phiêu lưu ái tình bậy bạ. Người chồng biết tự trọng nào cũng tin ở tình yêu và lòng chung thủy của vợ mình, nhưng riêng tôi, tôi có lý do để tin vợ tôi hơn ai hết.
Tôi vội nghĩ sang chuyện khác. Có lẽ anh Phúc nói đúng. Chắc Ngọc, giờ này, đang ở bên giường bệnh của Bà Ngà, và nàng sẽ ngạc nhiên nhiều, ngạc nhiên lắm, khi thấy tôi xách va ly tìm đến nhà. Nàng sẽ cảm động, nàng sẽ giải thích trong vài lời cái lý do làm cho tôi không có tin tức của nàng và tất cả những lo âu này sẽ tan biến đi như một cơn ác mộng.
Tôi cố nghĩ tới viễn ảnh tươi sáng đó.
Và tôi kinh hoàng nhận thấy là ngay lúc này, mới cách xa nhau mới mấy ngày, tôi đã thấy khuôn mặt và nét mặt của Ngọc như mờ, như xa, như lạ lắm. Tôi thấy tôi không còn quen thuộc mấy với nét mặt của Ngọc như tôi tưởng.
Tôi nằm ngả hẳn đầu lên thành ghế, mắt nhắm lại để tưởng tượng ra nét mặt Ngọc. Và những nét mắt, mũi, miệng … của Ngọc mờ mịt, lẫn lộn vào nhau. Đáng sợ và kỳ lạ nhất là những nét mặt riêng của Ngọc lại mờ lẫn với nét mặt của người thiếu phụ xa lạ ngồi kia. Tôi cố gắng nhớ đến mặt Ngọc, nhưng càng cố gắng, tôi càng thấy tâm trí mờ mịt. Sau cùng tôi ngủ thiếp đi.
Tôi ngủ một giấc nặng nề, say sưa, ngủ như người chết rồi.
Tôi tỉnh lại khi phi cơ sắp hạ cánh xuống phi trường Tân sơn Nhất. Trong vài giây đồng hồ đầu tiên tôi hoang mang không còn nhớ rõ tôi đang ngồi ở đâu, đang làm gì? Tôi nhìn quanh và thấy đông người, ai nấy đều ngồi im trên ghế và đèn sáng chung quanh, tôi tưởng rằng tôi đang ngồi trong một rạp hát bóng và tôi đã ngủ chợp đi trong rạp và bây giờ phim đã hết, đèn đã bật sáng, tôi nên ra về.
Quên hẳn là mình đang ở trên phi cơ, tôi loạng choạng đứng dậy định bước ra khỏi hàng ghế, cho đến khi cô tiếp viên hàng không áo xanh tới ra hiệu cho tôi ngồi xuống và thắt dây lưng, tôi mới nhớ.
Trời bình minh bắt đầu có nắng vàng chiếu chan hòa phi trường khi phi cơ hạ cánh và ngừng bánh trước cửa phi cảng. Tôi nhanh nhẹn xách cặp bước xuống sân nhựa. Giấc ngủ vừa qua làm cho tôi tỉnh táo hẳn lại.
Từ ngày lên Nam Vang lập nghiệp: “Nam Vang đi dễ khó về. Trai đi có vợ gái về có con …” tôi đã nhiều lần về Sàigòn vì công việc. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy phi cảng Tân sơn Nhất đẹp bằng trong buổi sáng sớm có nắng vàng hôm nay.
Anh chàng Hoàng Tuấn nhanh nhẹn, tháo vát của Đội Báo − Đội Hướng đạo sinh mà Huy làm đội trưởng ngày xưa − đã chiến thắng anh chàng Hoàng Tuấn “cù lần” lo sợ vẩn vơ. Trông tôi xuống phi trường lúc đó không ai có thể ngờ được rằng tôi là một kẻ yêu thương vợ nhất đời và vừa mới mất tin vợ, đang lo âu đến phát điên vì vợ, đang nhớ vợ. Tôi quên bẵng mất người thiếu phụ cùng đi trên phi cơ mà tôi thấy có vài điểm hao hao giống vợ tôi. Vừa vào tới phi cảng, nàng đã biến mất. Có lẽ nàng có người nhà ra đó đón và người nhà nàng quen với những nhân viên kiểm soát ở phi cảng cho nên nàng đi qua phòng kiểm soát mau hơn tất cả mọi người.
HUY… Tôi vui mừng được gặp lại Huy. Phải nói rằng ý nghĩ sắp gặp lại Huy, sắp được sống gần Huy nhiều ngày không có công việc gì làm chia cách – tôi vẫn tin rằng tôi sẽ dễ dàng tìm được Ngọc và chúng ta sẽ có dịp cùng sống vui với nhau ít ngày, có thể chúng ta sẽ cùng đi Đàlạt – đã làm cho tôi hứng khởi suốt chuyến đi. Tôi vẫn muốn chúng ta gặp nhau trong những dịp khác vui hơn, nhưng con người ta vẫn vậy, chỉ khi nào buồn phiền, chúng ta mới thấy những lúc vô sự, không âu lo là vui sướng. Khi tôi trông thấy Huy đứng chờ tôi trong phi cảng, tôi cảm thấy trái tim tôi chan hòa một niềm vui ngọt như mật.
Trông thấy Huy, tôi mừng vui và sung sướng như tôi được thấy một phần Ngọc.
Nhưng nỗi vui mừng ấy, tôi nói thật, Huy đừng nên giận tôi, Huy không giữ nổi cho nó sống được lâu trong lòng tôi. Chỉ mười phút sau, khi chúng ta đã bắt chặt tay nhau, khi tôi ngồi trong chiếc xe hơi của Huy chạy trên đường từ phi trường về thành phố, tôi lại cảm thấy buồn và cô đơn. Ngồi bên Huy, tôi vẫn thấy buồn và cô đơn hơn bao giờ hết. Như vậy tôi có bất công không? Có phải là lỗi ở tôi hay không? Tuy có Huy ở bên tôi vẫn nghĩ và thấy rằng tôi đang có một cuộc chiến đấu tuyệt vọng và tôi phải một mình chiến đấu, đơn độc và vô vọng, không một người nào, kể cả Huy nữa, có thể giúp được tôi trong cuộc chiến đấu này.
Như tất cả các bạn thân của tôi đều đã mất tích, như tôi không còn ai thân nữa.
Tôi đã mất tất cả, như tôi đã mất Ngọc.
Huy có còn nhớ những lời chúng ta nói với nhau buổi sáng đó không?
Tôi kể cho Huy nghe những chuyện vừa xẩy ra trong đời tôi và Huy tỏ ra ngạc nhiên nhiều. Nếu người kể chuyện đó không phải là tôi, chắc chắn Huy đã không tin. Huy ngạc nhiên nhất là việc Ngọc đã đi vắng cả tuần lễ mà không cho tôi biết là nàng đi đâu, ở đâu, làm gì? Sự ngạc nhiên này của Huy càng làm cho nỗi lo âu về tình trạng của Ngọc trong lòng tôi tăng thêm. Huy cho tôi biết là từ ngày đó, ngày Ngọc về tới Saigon bằng phi cơ Hàng Không Việt Nam, nàng không tới thăm Huy và cũng không hề cho Huy biết tin.
Huy khuyên tôi nên tới ngay nhà bà mẹ vợ tôi. Huy bận vụ kiện đang xử ở Tòa nên không thể cùng đi với tôi được, nhưng chúng ta hẹn nhau đến tối gặp nhau và cùng đi ăn bữa tối.
Huy lái xe đưa tôi về khách sạn Continental. Tôi chỉ lên phòng thay bộ đồ khác, rửa mặt qua loa, xuống nhà hàng uống một ly cà phê đậm, tôi không ăn gì được rồi nhẩy vào một chiếc xe tắc xi đi luôn.
Vào khoảng nửa năm nay, tôi không về Saigon. Sàigòn, hôm nay, với sự có mặt của binh sĩ Đồng Minh, đang kiến thiết nhiều và thay đổi quá rõ trước mắt một người Sàigòn đi xa lâu ngày mới về.
Nhiều bin-đinh lừng lững mọc lên ở những nơi mà lần trước về, tôi thấy còn là bãi hoang hoặc có những xóm nhà lụp xụp, tồi tàn. Và nhất là Sàigòn có nhiều Snack-bar. Xe tắc xi dường như trở nên hiếm. Tôi phải chờ khá lâu ở đầu đường Tự Do mới tìm được một chiếc tắc xi không có khách.
Từ ba năm nay, nghĩa là từ sau ngày tôi và Ngọc kết hôn, Bà Ngà sống trong một tòa nhà ở Trường Đua Phú Thọ. Trước ngày Ngọc thành vợ tôi, Bà Ngà cư ngụ trong một vi la ở gần trung tâm Sàigòn, nhưng về sau, vi la đó trở thành quá đắt đối với một bà góa sống một mình nên Bà đổi lên sống ở chỗ mới. Tôi chưa tới nhà mới của Bà lần nào song qua những lời nói chuyện của Ngọc, tôi biết qua đó là một loại nhà nhiều tầng, chia ra làm nhiều phòng cho mướn. Bà nhạc tôi ở đó một mình, đi khóa, về mở, tiện hơn.
Khi chiếc tắc xi lăn bánh trên đường Lý Thái Tổ tiến gần về phía Trường Đua, tôi lại cảm thấy bồn chồn, hồi hộp. Những cảm giác trước là lo âu, sợ hãi, hoang mang, đến lúc này tôi mới cảm thấy hồi hộp. Vì tôi sắp đi gần tới đích.
Tôi sắp được “biết” – chưa biết là tôi sắp được “biết” chuyện gì, tin gì ở đầu con đường này, nhưng chắc chắn là tôi sắp được biết một điều gì đó quan trọng, hoặc ít nhất cũng có liên hệ nhiều đến vợ tôi và sự vắng mặt đầy nghi vấn của nàng.
Tôi sắp gặp Bà Ngà, hoặc ít nhất tôi cũng sẽ gặp một người nhà nào đó nếu Bà Ngà đau nặng và phải đi nằm nhà thương, và người đó sẽ nói cho tôi biết vợ tôi hiện ở đâu, nàng có về đây hay không. Mà chắc chắn là vợ tôi phải về đây trước nhất. Nàng về đây rồi có đi đâu nàng mới đi. Người ta sẽ chỉ cho tôi nơi để tôi tới kiếm nàng. Sàigòn này tuy là thành phố lớn nhất Đông dương, cũng chỉ là một thành phố mà người ta có thể đi bằng xe tắc xi từ đầu nọ đến đầu kia trong vòng hai tiếng đồng hồ. Trưa nay, tôi sẽ được gặp Ngọc.
Và trưa nay, chậm lắm là trưa nay, bây giờ là 10 giờ sáng, giờ Sàigòn trên mặt chiếc đồng hồ Eternamatic của tôi, tôi sẽ gặp Ngọc. Và chính miệng Ngọc, bằng những lời ngọt ngào, êm dịu của nàng, sẽ nói cho tôi biết lý do tại sao tôi lại không nhận được tin tức gì của nàng từ một tuần nay.
Người Sàigòn đi lại thật đông. Trời nắng đang đẹp. Nắng xuyên qua những tàn cây đùa trong tà áo của những nàng thiếu nữ đi học về trên những chiếc xe Solex. Nhìn những cô nữ sinh đó, tôi lại nhớ đến những ngày nào xa xưa chúng ta đạp xe máy đi theo những nàng nữ sinh áo trắng của những Trường Trưng Vương, Sainte Mary Hà nội, những buổi sáng mùa thu nắng vàng thật đẹp đạp xe đi theo các nàng quanh Hồ Gươm … Rồi hình ảnh của Ngọc lại hiện ra, tôi nhìn những nữ sinh đó và tôi như trông thấy Ngọc ngày nào năm xưa cũng đạp xe đến trường như vậy. Ngọc đã từng đi học ở Sàigòn. Nàng là nữ sinh Gia Long. Rất có thể là trước đây mười năm, chính nàng đã nhiều lần đạp xe đi với các cô bạn đồng tuổi trên con đường nắng đẹp này.
Xe chạy tới trước cửa Trường Đua. Tôi nhớ mang máng địa chỉ nhà Bà Ngà ở đâu quanh đây. Tôi nghĩ đi bộ tìm nhà tốt hơn nên bảo xe ngừng lại.
- Ông cho năm mươi đồng.
Nghe ông tài xế tắc xi nói thế, tôi ngạc nhiên vì tôi nhớ lần trước về Sàigòn, tôi đi tắc xi và không thấy giá xe đắt quá đến như thế. Tuy ở Nam Vang và tuy cuộc bang giao giữa hai chánh phủ Sàigòn và Nam Vang có không được tốt đẹp mấy song nhờ làm việc trong cơ sở tư ngoại quốc được cả hai chánh phủ vị nể, nên tôi vẫn có nhật báo ở Sàigòn gửi lên đọc đều đều. Do đó tôi đọc thấy trên các báo những lời than phiền là hồi mới đây, kể từ ngày Sàigòn có bóng dáng binh sĩ ngoại quốc đông đảo, những binh sĩ này nhiều tiền, chịu chi, nên anh em tắc xi chỉ thích chạy xe chở họ. Và vì tình trạng cung cầu chênh lệch, người đi xe nhiều mà xe có ít nên sanh ra chuyện các ông tắc xi không chạy theo đồng hồ tính tiền nữa mà là chạy theo cuốc. Tiền xe tùy các ông tài định đoạt.
Tôi quên bẵng chuyện đó đi, nhưng tôi cũng móc tiền ra trả. Khi chiếc tắc xi đã chạy đi bỏ tôi lại đầu đường, tôi mới nhớ đến chuyện tôi đã được đọc trong các nhật báo về việc các xe tắc xi tại Sàigòn không chạy xe theo đồng hồ tính tiền trong xe nữa.
Tôi đứng một mình trước cửa Trường Đua, những cánh cổng đóng im ỉm. Bãi cỏ cao có nhiều chỗ cháy xém. Tôi đón hỏi một chú có vẻ là sinh viên đi ngang con đường mà tôi nhớ là có tòa nhà của bà Ngà.
Chú chỉ cho tôi con đường ngay trước mặt.
Đó là một con đường cụt, dài chừng hai trăm thước. Trong đó tôi chỉ thấy có mỗi một tòa nhà lớn. Nhưng trông tòa nhà ấy có nhiều vẻ tiêu điều. Những cánh cửa sổ trên mặt tiền tòa nhà cao bốn tầng ấy đóng kín. Vẻ tiêu điều, vắng lặng của tòa nhà cho tôi cái cảm nghĩ đó là một tòa nhà không có người ở. Cảm nghĩ đó làm cho nỗi lo âu trong tôi chợt tăng thêm.
Tôi nhìn lên tấm bảng tên đường gắn trên thân cột đèn đầu ngõ và thấy khác với cái tên phố tôi muốn tìm. Tôi hỏi cậu sinh viên:
- Đây không phải là phố đó? Tên phố trên bảng khác mà …?
- Tên phố mới đổi. Đúng đó mà. Tôi ở đây tôi biết.
Tôi chỉ tòa nhà:
- Có phải bin-đinh kia có phòng cho mướn không cậu?
Có lẽ tưởng tôi là người đi mướn phòng, cậu ta đáp:
- Phải đấy. Nhưng hồi mới đây hình như người ta đuổi khách Việt Nam đi để sửa nhà lại cho Mỹ mướn thì phải. Tôi thấy hồi này ít còn người Việt ở trong đó lắm. Chắc họ không cho người Việt mướn nữa đâu. Ông cứ vô hỏi coi, mất gì …
Khi nghe nói câu đó trong lòng tôi đã lờ mờ nghĩ đến chuyện Bà Ngà đã dọn nhà đi nơi khác. Tôi không dám nghĩ đến chuyện đó lâu, vì tôi sợ. Tôi sắp đi tới đích nhưng cái đích đó lại đe dọa lùi xa.
Nếu Bà Ngà đi nơi khác, chắc rồi tôi cũng tìm ra, nhưng tôi lại phải mất thêm một thời gian đợi chờ, tìm kiếm nữa.
Với tâm trạng âu lo đó tôi bước những bước nặng nề trên con đường chưa trải nhựa đi tới cửa vào tòa nhà. Đúng như cảm nghĩ đầu tiên của tôi khi tôi để mắt trông thấy tòa nhà đó, nó không có người ở, hoặc chỉ còn rất ít người ở. Từng đống vật liệu, gạch đá đã được sắp sẵn quanh nhà chờ sửa lại nhà. Cửa chính ra vào bin-đinh đóng kín. Nhìn qua khung cửa sắt vào nhà, tôi thấy cầu thang và lối đi đầy rác bẩn có cả nước trôi lõng bõng trên những bậc cầu thang. Dường như người ta đã cúp điện và cúp cả nước máy vào tòa nhà này.
Tôi nghĩ đến chuyện chủ nhà đuổi nhà. Biện pháp cúp điện nước là một biện pháp hữu hiệu nhất dùng để tống khứ ra khỏi những bin-đinh những thân chủ không còn được coi là tốt tiền nữa. Người thanh niên tôi vừa hỏi thăm nói đúng. Những người Việt Nam cư ngụ trong tòa bin-đinh này đang bị chủ nhà đuổi. Những người còn ở lại là những người gan lì nhất hoặc không có phương tiện đi mướn nhà khác.
Tôi đứng xớ rớ mãi ở đó.
Tôi đi vòng ra sau bin-đinh. Ở đây tôi thấy mấy đứa nhỏ chơi nghịch trên một đống cát cao như núi. Tôi hỏi đứa lớn nhất. Đó là một đứa con gái:
- Tôi muốn hỏi ông gác dan. Ông gác dan ở đâu em?
Như một lũ trẻ con vừa câm vừa điếc, hoặc như những đứa nhỏ nghe nói tiếng ngoại quốc, bọn trẻ trố mắt nhìn tôi.
Tôi nhắc lại câu hỏi đến hai ba lượt chúng cũng vẫn không trả lời.
Chợt tôi nghe tiếng người:
- Cái chi?
Tôi quay lại. Người đàn ông là một anh Chà lai. Chắc là lai Miên. Mặt anh ta đầy vẻ tàn nhẫn và đôi mắt anh tràn đầy nghi ngờ. Anh Chà này cho tôi có một linh tính xấu về cuộc đi tìm người của tôi. Xuất hành mà gặp anh Chà này thì nguy rồi.
Tôi bước tới. Anh Chà nói ngay, giọng nói trơ trớ, ngọng ngọng của anh ta nghe thật trối tai:
- Không có cho mướn đâu. Đừng hỏi mất công.
Tôi nén bực bội để hỏi:
- Không. Tôi không tới mướn nhà. Tôi hỏi thăm một người trước ở đây, chú làm ơn chỉ dùm bà ấy còn ở đây không …
Anh ngắt lời:
- Đi hết trơn rồi.
- Chú gác dan ở đây phải không?
Anh gật đầu.
- Chú có biết một bà trước kia ở đây. Bà ấy tên là Bà Ngà, bà ấy đã khá nhiều tuổi rồi … Bả ở một mình thì phải. Bả người thấp một chút …
- Biết số phòng bao nhiêu không?
- Không.
- Bao nhiêu là người ở đây. Hỏi vậy làm sao nói …
Anh xua xua tay đuổi tôi đi:
- Mà cũng đi hết rồi, không còn ai ở đây nữa …
Tôi cố bám lấy tia hy vọng nhỏ nhoi:
- Chú có biết bà ấy dọn đi đâu không?
- Làm sao biết được?
Anh ta thốt ra một câu chửi thề ngon lành.
Như sợ tôi lén vào tòa nhà quí báu của anh, anh gác dan thô bỉ cứ đứng đó mặc dầu anh cố trình bầy một bộ mặt để tống khứ tôi đi. Tôi cố nén giận để đứng lại, để hỏi thêm. Vì thực ra, tôi quen biết rất ít về bên họ hàng của Ngọc. Có thể nói là trừ Bà Ngà là mẹ vợ tôi ra, tôi không còn quen biết ai là thân nhân của nàng hết.
- Chú nhớ dùm tôi coi … Bà Ngà, bà ấy thâm thấp … người trắng …
- Đã bảo là không có biết …
Chợt một giọng nói vang lên sau lưng tôi:
- Ông hỏi ai thế?
Tôi quay lại, người hỏi tôi là một chàng thanh niên trạc hai mươi nhăm hai mươi sáu tuổi, có vẻ dễ thương và khinh bỉ, ác cảm với tên gác dan ra mặt.
- Tôi muốn hỏi thăm một người, một bà … ở trong nhà này …
Chàng hất hàm ra hiệu cho tôi đi theo:
- Ông hỏi mấy thằng khốn nạn gác cổng này làm gì …
Chàng nói lớn, dường như cố ý cho tên Chà lai Miên nghe tiếng.
- Bọn chủ nhà khốn nạn đang đuổi chúng tôi để lấy nhà lại cho các bố Mẽo chúng nó ở. Chúng nó cúp hết cả điện lẫn nước … Bọn khốn nạn … Nước mình có mất không phải là vì bọn Việt cộng hay hớm gì mà là vì những bọn con buôn này …
Tôi thấy cần phải dẹp cơn nóng nẩy của tôi lại để chia sẻ nỗi bực giận của chàng:
- Tôi mới ở trên Nam Vang về. Tôi có nghe nói hồi này ở Sàigòn nhà cho mướn hiếm lắm, nhưng tôi không ngờ người ta lại đuổi nhà quá thế này.
- Bọn chúng nó khốn nạn lắm … Ông mới ở Nam Vang về đấy à …?
Tôi theo chàng lạ mặt đi về phía đường. Chúng tôi đứng bên vệ đường, dưới hàng cây. Không hiểu sao tôi nghĩ rằng người thanh niên lạ này chính là người tôi cần gặp, và chàng có thể giúp tôi được nhiều trong việc tôi đi tìm Ngọc. Mà thực vậy, tôi chỉ còn trông cậy vào cái hy vọng thật mỏng manh này.
Tôi chờ chàng ta cất tiếng:
- Ông nói ông tới đây tìm ai?
Tôi vội vã:
- Bà mẹ vợ tôi … Bà ấy tên là Bà Ngà … đã có tuổi rồi … nhưng vẫn sống một mình …
Chàng gật đầu:
- Tôi không quen nhưng có biết bà ấy … Tôi là Thổ công trong nhà này, tôi biết tất cả mọi người đã sống ở đây. Tôi tới ở đây đầu tiên mà … Đến bây giờ tôi cũng là người cuối cùng đi ra khỏi đây …
- Bao giờ ông định đi?
- Chủ nó đuổi chúng tôi đi lâu rồi, nhưng tôi và mấy thằng bạn tôi ở cù nhầy, thêm được ngày nào hay ngày ấy … Ông không thấy nó phong tỏa chúng tôi bằng cách cắt nước cắt điện cho tối om đó sao?
Anh chàng đột ngột:
- Bà mẹ vợ ông dọn đi từ lâu rồi …
Tôi choáng váng:
- Lâu … là từ bao giờ?
- Cách đây khoảng nửa năm. Mới có chuyện đuổi nhà là bà ấy đi ngay. Bà ấy là một trong những người đầu tiên rời khỏi bin-đinh này … Bà ấy có tiền mà … Chỉ có bọn nghèo mạt như chúng tôi là cố chịu đấm ở lại thôi …
Chàng nhún vai:
- Ông bảo nhà cửa ở Sàigòn này bây giờ … Mỹ, Đại hàn, Phi luật Tân đến đông quá … Chúng nó ham tiền, đuổi hết đồng bào đi, lấy nhà lại, cho ngoại kiều mướn, lấy tiền nhiều hơn gấp cả chục lần … Bọn nhà văn, nhà báo chúng tôi lấy tiền đâu mà sang? Có Tây cũng không đấu tiền được với mấy anh Mẽo.
- Ông là nhà báo?
Anh chàng gật đầu:
- Nhà báo nghèo …
- Ông có biết Bà Ngà … bà mẹ vợ tôi dọn nhà đi đâu không ông?
Chàng lắc đầu:
- Tôi không biết, nhưng hình như có thằng bạn tôi nó biết. Ông có cần gặp bà ấy gấp lắm không? Tôi chỉ cho ông đến hỏi thằng bạn tôi, nó cũng làm báo … Ông có thể gọi điện thoại đến cho nó …
Chàng kéo tay tôi đi về sạp bán báo ở ngã tư đường:
- Ông ra đây mua tờ báo, lấy số điện thoại của nó. Tôi chúa hay quên … Ông có hỏi số điện thoại của chính tòa báo tôi, tôi cũng không nhớ …
Lại một tia hy vọng nữa lóe sáng trong bóng tối mù mịt của cuộc đi tìm. Tôi đi từ hy vọng đến thất vọng và ngược lại. Nhưng không sao, miễn là tôi còn hy vọng. Con người ta chỉ đau khổ, chỉ có thể chết nếu con người không còn hy vọng. Nhưng ngay khi đã tuyệt vọng rồi, con người vẫn còn tự bầy cho mình hy vọng để đánh lừa chính mình. Lúc đó có lẽ tôi chính là một kẻ tự cho mình hy vọng, những hy vọng mà thật ra tôi không thể có.
Tôi cầm tờ báo và cái tên của một phóng viên nhà báo mà tôi chưa bao giờ quen biết trở lại trung tâm của Sàigòn. Tôi về Nhà Bưu điện để gọi điện thoại về tòa báo và chừng nửa giờ sau, tôi đã tìm được địa chỉ mới của Bà mẹ vợ tôi.
Bà Ngà, sau thời gian ngụ tại bin-đinh gần Trường Đua, dời về số nhà 118 đường Hoàng Tử Cảnh.
– 4 –Sàigòn ngày tôi ra đi cách đây năm năm, còn là một thành phố có những tên đường Tây như Mayer, Général Lizé, Éryaud des Vergnes, Dixmude, Cầu Mac Mahon v.v…
Bây giờ, tất cả những tên đường phố đều đã được đổi thành tên danh nhân Việt Nam, tôi không thể biết đường Hoàng tử Cảnh nằm ở khu nào của thành phố. Từ phòng máy điện thoại ra, tôi hỏi thăm ngay mấy người đứng bên ngoài, không một ai biết đường Hoàng tử Cảnh ở đâu. Họ chưa từng nghe nói đến tên con đường ấy. Họ khuyên tôi ra ngoài hỏi mấy ông tắc xi.
Tôi trở ra cửa nhà Bưu điện.
Lúc đó kim đồng hồ trước cửa nhà Bưu điện chỉ 12 giờ.
Tắc xi ở Sàigòn thật hiếm. Người ta tranh cướp nhau vào xe trước cửa nhà Bưu điện, bất chấp cả lịch sự. Đàn bà có con nít đi theo và bà già mặc, có xe tới, các cậu, các cô trẻ tuổi nhào vô ngay cả từ khi xe chưa ngừng hẳn. Tôi thấy có những chiếc tắc xi chạy ngang và tài xế chê khách, lắc đầu quầy quậy. Tôi chờ mãi mới tranh được một xe, nhưng ông tài xua xua tay khi tôi hỏi đường về đường Hoàng tử Cảnh:
- Không biết …
Ông ta lái xe chạy thẳng bỏ tôi đứng lại ngẩn ngơ bên đường.
Tôi vừa giận vừa buồn, vừa nóng ruột. Mỗi phút trôi qua chỉ làm cho tôi thêm bàng hoàng và bối rối. Tôi trở lại phòng điện thoại tìm số điện thoại của Huy, gọi về văn phòng Huy và cô thư ký của Huy cho tôi biết rằng ông Trạng sư đi Tòa.
Tôi nẩy ra một sáng kiến: mua một tập bản đồ thành phố Saigon có bản đối chiếu tên đường cũ, đường mới. Tôi đến sạp bán tem và báo ở trước cửa nhà Bưu điện và mua được ngay một cuốn. Tôi mở tìm và thấy đường Hoàng tử Cảnh nằm ở bên đường Chi Lăng, Gia Định.
Tôi mướn hẳn một chiếc xe lô ở bến xe đường Lê Lợi. Trước đây, tôi quen gọi con đường này với cái tên cũ của nó là đường Bonard. Giá xe lô: 1.000 đồng một giờ. Giá đó có mắc, nhưng với tôi lúc này, mắc một chút còn hơn là đứng chờ xe bên đường cả tiếng đồng hồ.
Trời bỗng đổ mưa lớn, những cơn mưa trút xuống bất ngờ, đột ngột của Saigon. Trời đang sáng nắng bỗng tối xầm lại … Huy ơi, có bao giờ Huy vì sự thay đổi của trời đất mà cảm thấy buồn rầu và thất vọng không Huy? Buổi sáng đó, buổi sáng đầu tiên tôi đi tìm vợ tôi, người tôi yêu thương nhất đời ở Saigon, và chỉ một cơn mưa, tôi đã cảm thấy buồn rầu và thất vọng.
Có bị khổ đau, chúng ta mới biết là trước đó chúng ta đã sung sướng. Tôi nhớ đến một câu viết về Đạo Phật của vị Thượng tọa nào đó mà tôi được đọc ở Nam Vang trong một Tập san Tôn giáo xuất bản ở Paris do một số người Phật tử ở đó cho in. Câu nói về khổ đau và con người như sau: chúng ta cần có khổ đau để được giải thoát, con người chúng ta chết đuối trong khổ đau nhưng được giải thoát nhờ khổ đau …! Khi đọc câu đó, tôi cảm thấy “có một cái gì rất thực, rất quí nằm trong đó”, nhưng tôi chỉ cảm thấy suông vậy thôi. Tôi không xúc động gì, vì tôi chưa bị khổ đau, tôi chưa hiểu khổ đau là gì nên lúc đó, chính tôi, tôi chưa biết tôi đã sung sướng đến bực nào.
Đường đi tới đường Hoàng tử Cảnh thật xa. Nước mưa, tràn trên kiếng xe, mưa như không bao giờ tạnh. Quanh tôi trời đất đầy nước. Chỉ thấy có nước. Thành phố chìm trong màn mưa.
Chiếc xe lô đưa tôi đến một vùng vắng vẻ toàn những vi la mới được xây cất. Nhiều vi la treo bảng “House for rent”. Trong và trước nhiều vi la, tôi trông thấy những chiếc xe hơi treo bảng số Hoa kỳ. Có nhà có cả binh sĩ Mỹ đứng gác.
Xe dừng đúng số nhà 118. Tôi nhìn qua khung kiếng cửa xe, qua màn mưa vào nhà và thấy nhà không có qua một bóng người nào. Cảm giác đầu tiên của tôi là nhà này không có người ở. Mọi cửa sổ đều đóng kín.
Không có áo mưa, tôi đội mưa xuống xe. Ông tài, một ông khá lớn tuổi, có vẻ không lấy gì làm lưu manh lắm, thương hại tôi, ông hỏi lớn:
- Ông có chắc là số nhà này không?
Tôi chỉ có thể gật gật đầu. Chưa chắc nguồn tin ông nhà báo không quen biết đó cho tôi đã là đúng. Con đường đất đỏ chưa được tráng nhựa lũng bũng nước mưa. Tôi lội lõm bõm, nước lên đến cổ chân tôi. Cổng nhà số 118 có nút chuông điện. Tôi nhấn nút nhưng không chắc là trong nhà − nếu trong nhà có người − nghe được tiếng chuông hay là không.
Trước đó, tôi đã không còn tin ở chuyện Bà Ngà ốm nặng cần sự có mặt của Ngọc. Tôi không thể giải thích nổi tại sao tôi lại không tin, nhưng linh tính cho tôi biết là có một cái gì bí ẩn trong chuyện đó. Và tôi chỉ có thể biết khi tôi gặp Ngọc.
Vi la này cũng khá lớn. Bà Ngà nếu có đi đâu hoặc thật là bà đau nặng đi nằm bệnh viện, nhà này chắc chắn cũng có người ở coi giữ. Tôi đứng chịu trận dưới trời mưa, nhấn nút chuông mãi. Nước mưa chẩy từ cổ vào trong mình tôi. Vô ích. Nhà này đúng là không có ai ở. Chợt tôi nhìn thấy hộp thư làm bằng kẽm đặt ở một bên cánh cổng sắt.
Tôi đến gần và đọc thấy dòng chữ kẻ bằng sơn trắng trên hộp thư: Bà Thérèse Lê Thị Ngà.
Đúng là nhà bà mẹ vợ tôi đây rồi. Anh nhà báo không cho tin sai. Nhưng ngay lúc đó tôi thấy dòng chữ viết bằng phấn trắng dưới tên Bà Ngà. Nét phấn gặp nước mưa đã phai mờ gần hết. Dòng chữ phấn đó viết: “Đi vắng xa”.
Sự thật khi tôi đọc những dòng chữ viết bằng phấn mờ này, tôi không lấy gì làm ngạc nhiên cho lắm. Trong tôi như đã có sự chờ sẵn chuyện đó xẩy ra. Nhưng tôi cần được biết rõ: Bà Ngà đi vắng xa là đi đâu? Khi bà chủ nhà đau nặng và phải vào bệnh viện, người nhà không viết dòng chữ “Đi vắng xa” để cho khách tới đọc như thế này.
Tôi không có thể chờ đợi nhiều, lâu. Tôi cần biết rõ ngay trong thời gian ngắn nhất. Tôi nhìn quanh hy vọng tìm được một nhà nào có người ở gần nhất để tôi có thể hỏi thăm.
Vi la ngay bên cạnh đó có người ở. Tôi thấy cô bé nhìn qua cửa sổ ra chỗ tôi đứng. Tôi giơ tay vẫy cô bé. Cô bé trạc trên dưới mười tuổi, giơ tay vẫy lại tôi. Cô bé thông minh nên hiểu rằng tôi muốn hỏi thăm cô. Cô quay lại nói với người nào đó trong phòng. Một bà già nhìn qua vai cô ra ngoài. Thấy tôi, bà quay vào. Một lúc sau có một người đàn bà có vẻ là chị vú ra cổng.
Tôi đi vội qua:
- Chị làm ơn cho tôi hỏi thăm … Tôi muốn biết Bà ở vi la bên này đi vắng đã lâu chưa?
Gia đình tôi hỏi chắc chắn phải là một gia đình gia giáo, hoặc ít nhất, chủ nhà phải là một người rất tốt, vì chị vú vui vẻ trả lời tôi ngay:
- Thưa … tôi không được biết rõ lắm. Mời thầy vô nói chuyện với bà chủ tôi. Bà tôi chắc biết …
Tôi ngần ngại:
- Sợ phiền bà chủ …
- Thưa không sao. Bà chủ tôi mời thầy vô. Bà chủ tôi với bà bên đó có quen …
Tôi quay lại ra hiệu cho ông tài xe lô chờ và bước vào nhà. Bà chủ là bà già mà tôi trông thấy bên cửa sổ sau cô bé hồi nẫy. Bà trạc ngoài năm mươi tuổi, tóc bạc người nhỏ nhắn, trông thật đẹp lão. Nhìn bà, tôi nhớ lại mẹ tôi ngày xưa. Mẹ tôi cũng “đẹp” như bà cụ này. Ở đời có nhiều người đàn bà đẹp từ lúc trẻ đến già vẫn đẹp. Cái đẹp lúc già có khác, nhưng vẫn là đẹp. Trong số đó có mẹ tôi và bà cụ tiếp chuyện tôi ở Sàigòn buổi sáng trời mưa này.
Bà cụ tiếp tôi với một vẻ vui và niềm nở như tôi là người quen biết từ lâu. Bà cụ không tỏ ra có chút nghi ngờ nào về tôi hết. Bà cho tôi biết rằng bà là người Bắc di cư, trước bà ở Hà Nội, bà có ba ông con trai. Cả ba ông con đều ở trong quân ngũ. Ông cả hiện nay đã là Quan Tư hay Quan Năm gì đó. Bà cụ không phân biệt được hai cấp Trung tá và Đại tá của ông con. Cậu nhỏ nhất vừa mới ra trường sĩ quan ĐàLạt. Một ông, có lẽ là ông thứ hai, làm tỉnh trưởng. Bà cụ đã có nhiều cháu nội, cháu ngoại. Cô bé xíu tôi thấy ngồi cạnh bà cụ đó là cháu nội của bà cụ.
Tôi ngồi nghe chuyện mà lòng nóng như ngồi trên lò lửa. Song tôi không dám ngắt lời bà cụ. Có thể nói là tôi cũng không muốn ngắt lời. Tôi sợ tôi lại gặp thất vọng lớn. Mà đúng như sự sợ hãi của tôi, sau cùng, bà cụ nói đến chuyện bà mẹ vợ tôi.
Bà có quen và hay gặp Bà Ngà. Cả hai bà cùng là bà góa. Bà Ngà mới tới đây được nửa năm nhưng vừa tới là hai bà làm thân với nhau ngay.
Bà cụ khen ngợi bà mẹ vợ tôi hết lời.
Cứ nghe bà cụ nói, bà mẹ vợ tôi là một bà lịch sự nhất đời. Lịch sự, đẹp mà lại còn trẻ, lại sống cuộc đời gương mẫu, không chút tì vết. Không, Bà Ngà không đau ốm gì hết. Nghĩa là bà cụ không thấy bà Ngà đau nặng đến nỗi phải vô bệnh viện, cũng không thấy có bác sĩ đến nhà. Từ ngày dọn về đây, Bà Ngà vẫn khỏe mạnh. Bà Ngà có nói là về ở đây, nhờ yên tĩnh, bà khỏe hơn hồi bà ở trên phố nhiều lắm.
Bà Ngà đi vắng được chừng nửa tháng nay. Trước hôm đi, Bà Ngà có qua đây và nói là đi ĐàLạt hay Nha Trang gì đó để đổi gió. Bà Ngà có nhiều bà bạn sống ở những nơi đó nên ở Sàigòn chán, bà lại đi chơi. Chính Bà cụ cũng hay đi chơi như vậy. Bà Ngà có gửi nhà cho bà cụ bên này để ý coi dùm, vì bà chỉ có một cặp vợ chồng người làm và nhân dịp bà chủ đi vắng, cặp vợ chồng này cũng xin phép về thăm quê.
Bà cụ có nghe Bà Ngà nói nhiều đến cô con và chàng rể, tức là bà cụ có nghe nói nhiều đến vợ chồng tôi. Theo lời Bà, Bà Ngà rất quí tôi và rất trọng tôi. Bà cụ tỏ ra buồn tiếc nhiều về việc tôi từ Nam Vang cất công về đây thăm bà mẹ vợ mà lại không được gặp. Bà cụ hỏi tôi có biết nhà người quen của mẹ vợ tôi ở ĐàLạt hay ở Nha Trang không? Bao giờ thì tôi phải về Nam Vang?
Bà cụ còn hỏi thăm vợ tôi nữa.
Tôi hỏi bà cụ trong khoảng mấy ngày vừa rồi có ai tới hỏi thăm bà Ngà không? Không. Không có ai hết. Bà cụ ở nhà suốt ngày, và qua cửa sổ, bà cụ nhìn thấy con phố này suốt từ đầu phố. Bà cụ nhìn rõ tất cả những gì xẩy ra bên nhà Bà Ngà. Bằng cớ là tôi vừa tới gọi cổng, bên này bà cụ đã biết ngay.
Tôi hỏi rõ Bà có thấy một thiếu phụ nào trạc hai mươi sáu, hai mươi bẩy tuổi ăn bận lịch sự, tới hỏi Bà Ngà trong vòng bẩy ngày trở lại đây không? Bà cụ quả quyết là không.
Tôi không muốn làm phiền bà cụ. Nếu tôi kể cho bà cụ biết rằng tôi nghi vợ tôi bị bắt cóc và sự thật thấy rõ là cho tới bây giờ, vợ tôi đã mất tích, tôi chỉ làm cho bà cụ kinh sợ, rối loạn vô ích.
Cho đến phút này, tôi được biết hai chuyện rõ ràng: một là Bà Ngà không có mặt ở Sàigòn trong lúc có một kẻ nào đó gởi một điện tín lên Nam Vang cho Ngọc nói rằng Bà Ngà đau nặng và gọi Ngọc về gấp, hai là Ngọc không tới được nhà mẹ nàng.
Con đường dài dằng dặc dưới trời mưa tầm tã đưa tôi trở về trung tâm thủ đô. Trời vẫn còn mưa lớn. Người ta nói rằng thời tiết miền Nam từ vài năm nay đã thay đổi nhiều. Trước đây những cơn mưa ở Sàigòn không bao giờ kéo dài quá một tiếng đồng hồ. Bây giờ thì mưa liên miên, có thể là mưa suốt ngày. Và Sàigòn có những ngày lạnh phải bận áo rét nữa. Sự thay đổi có lẽ là vì ảnh hưởng của những vụ thử bom nguyên tử.
Tôi trở về khách sạn và nhận được tin của Huy gọi lại bằng dây nói. Huy cho tôi biết là Huy bận việc đến khuya và hẹn gặp tôi vào sáng hôm sau. Một mình tôi sống trong phòng khách sạn cô đơn giữa một thành phố gần như là hoàn toàn xa lạ. Tôi thức gần trắng đêm với những yếu tố của một bài toán không thể nào tìm được giải pháp.