Phần thứ nhất -2-
- IV -
Anh Vũ,
Có lẽ anh đã hiểu chút ít về gia đình và quê hương tôi, vì ngày xưa, đã có lần tôi nói với anh. Nhưng tôi chắc rằng anh không thể nào rõ tấm lòng tôi đối với nó. Hôm nay, một lần nữa tôi nhắc lại nó với anh, chẳng phải là để nhớ tiếc xuông cái đất quê cằn cỗi ấy và những người gia quyến thân yêu, mà chính vì nó đã đào tạo ra một “Tôi” ngày nay, một tâm hồn được cảm hóa trong yêu đương cũng nhu được cứng rắn vì rạn lửa.
Quê tôi ở một vùng xa, thật xa, nơi đấy chứa toàn những hạng người lầm than lam lũ. Họ lo cày bừa, trồng trĩa, gặt hái, suốt đời đổi giọt mồ hôi lấy hột gạo, không biết rằng mình khổ, cũng không hề ngỏ lời than van. Đời họ sống phẳng lì như những con vật. Chỉ có tôi là một kẻ đến sau, tôi được cái may mắn bước chân đến nhà trường. Khi tôi vừa đọc bập bẹ được vài câu tiếng Tây, cả gia đình và những người thân quyến tôi đều lấy đó làm thú vị. Những buổi chiều hè, họ xúm quanh bên tôi, kêu nài: “Nào, đọc tiếng Tây lên nghe thử nào”. Tôi phải lấy giọng, ráng đọc chẫm rải từng tiếng: “Tôi tên Bão. Tôi yêu quê hương tôi. Tôi yêu gia đình tôi”. Họ lặng yên nghe, bỗng cất tiếng cười vang lên khi tôi ngừng, có khi những giòng lệ sung sướng cùng theo tiếng cười mà lăn dài xuống má. Rồi họ reo lên: “Người ta bảo đó là tiếng vịt kêu.Thế là nghĩa gì nhỉ?” Tôi phải cắc nghĩa cho họ nghe. Tất cả đều thán phục sự hiểu biết của tôi.
Ông tôi bảo: “Ta không lầm mà cho nó đi học. Thời thế đã đổi khác rồi. Nó làm vinh hạnh cho chúng ta và sẽ đền đáp gấp mấy cho chúng ta”. Tôi run run đáp: “Chắc như thế, ông ạ!”, và khoan khoái thấy bao nhiêu cặp mắt hiền lành chất phát đang thao tháo nhìn tôi.
Ngày tôi rời quê lên Sàigòn để vào trường lớn, tất cả cái xóm quê hẻo lánh đã tiễn tôi đi. Họ góp nhóp những số tiền đã tiện tặn, sắm sang cho tôi đủ các vật: quần áo, giày vớ, khăn, nón. Họ bảo nhau: “Phải cắt trừ hao, vào trường lớn nó sẽ mau mập và mau lớn”. Nhưng mấy bộ đồ ấy vẫn phùng phình với tôi, vì tôi vẫn không lớn, không mập. Các bạn nhìn tôi chế nhạo. Tôi không mấy quan tâm. Và mỗi lần chúng cười, tôi cũng cười theo cho đỡ ngượng. Trong lòng tôi đã mang bao nhiêu mỹ cảm đối với quê hương, chẳng những thế, tôi còn có một sứ mạng là sẽ đền đáp một cách xứng đáng những tấm lòng tốt. Vì vậy mà tôi ráng học. Luôn sáu năm, tôi là một tên học trò giỏi giắn và siêng năng nhất lớp.
Nếu cuộc đời cứ chảy qua như vậy thì đã không có gì biến đổi, và tôi sau này đã có một chức phận ở quan trường, sẽ sống một cách yên phận như tôi đã ao ước. Nhưng một sự tình cờ đã xoay hẳn lại, làm cho tôi không thể giữ tâm hồn mình được bình tĩnh nữa.
Một hôm, được nói chuyện với giáo sư T. về anh em sinh viên Pháp, Nga, Anh, và những sự hoạt động của họ khi họ đã hồi quê, giáo sư thở dài nói một câu khiến tôi phải thắc mắc: “Phần nhiều về đến nhà rồi, họ vẫn ngu như muôn ngàn người khác. Cũng lầu ngà, vợ đẹp, họ nghĩ đến họ hơn là nghĩ đến xứ sở”. Tôi nghĩ thầm: “Lầu ngà, vợ đẹp là ngu hay sao? Trên đời mấy ai lại không muốn sự giàu sang?” Nhưng từ đấy, tôi bắt đầu lưu tâm đến những hoạt động của trí thức. Tôi thấy ngoài hạng trí thức chỉ lo vinh thân phì gia, còn một hạng chỉ sống đạm bạc với nghề viết báo, nghề dạy học và nghề... ngồi tù. Cứ vài ngày nghe họ bị xét bắt, vài ngày nghe họ tuyệt thực phản kháng, vài ngày nghe họ trở vô tù. Tại sao họ lại làm thế? Họ làm như vậy có ích gì cho xứ sở đâu, nếu quả họ là những người mà giáo sư T. đặc biệt chú ý? Tôi quyết định sẽ hỏi giáo sư T.
Để trả lời tôi, giáo sư đưa cho tôi mấy quyển sách chánh trị, vừa bảo: “Xem xong mấy quyển sách này, em sẽ hiểu. Đó là mấy quyển sách cấm, mấy anh ở ngoại quốc lén đem về. Em coi phải dè dặt”. Tôi vâng lời, về phòng thức suốt đêm để đọc. Tôi đọc say mê luôn hai ngày. Tôi chỉ mới mang máng hiểu chớ chưa nhận định được rõ rệt, thì buổi sáng thứ ba trong lúc tôi vừa ngủ dậy, bỗng có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở. Năm người lính bước vào, một người nghiêm giọng bảo:
- Chúng tôi được lịnh đến xét nhà cậu.
Tôi ngạc nhiên nhưng vẫn cung kính hỏi:
- Các ông muốn tìm gì?
- Sở Mật thám cho biết rằng cậu hiện giữ mấy quyển sách cấm.
Tôi xanh mặt. Sao mật thám lại biết mấy quyển sách ấy tôi đang xem. Hay giáo sư T. tố cáo? Tuy vậy tôi thẳng thắn đáp:
- Các ông khỏi cần phí công tìm. Mấy quyển sách ấy ở đầu giường kia.
Một người của Sở Mật thám nói:
- Nếu vậy hay. Mời cậu theo chúng tôi về bót.
Tôi gật đầu rồi theo họ đi.
Vì đã đủ tang cớ nên tôi bị tống vào khám. Tôi lặng lẽ bước vào, tâm trí chưa kịp có một ý nghĩ gì. Tôi cũng không thấy mình buồn hay là sợ. Đây là một căn khám dành riêng cho tù nhân chính trị nên rộng rãi, khoảng khoát. Việc làm trước nhất của tôi là quan sát qua quang cảnh trong khám. Tôi vừa đưa mắt nhìn qua, lạ chưa, một dáng người làm cho tôi dừng mắt lại: giáo sư T.
Giáo sư trông thấy tôi, cười nói:
- Em cũng vào đó sao?
Tôi thuật lại việc bị xét nhà cho giáo sư nghe. Ông nghe xong, thản nhiên nói:
- Em đã hiểu những điều mà em thắc mắc chưa?
- Em chỉ hiểu quyền lợi và bổn phận của mình, nhưng chưa thấu đáo nguyên lý và phương pháp.
- Nếu vậy nơi đây mới chính là trường học hữu ích cho em.
Giáo sư chỉ mấy tội nhân đang ngồi vui vẻ nói chuyện bên cạnh, tiếp:
- Họ là những giáo sư mới của em đó.
Tôi đến chào từng người theo lời giới thiệu của giáo sư T. Tôi thấy họ không có vẻ gì là tội nhân, họ giống như những nhân viên của một hội kín đương bàn chuyện quốc sự.
Thế là từ đây, tôi đã trở nên một nhân viên tập sự của hội. Tôi được nghe những câu chuyện mà sáu năm nay tôi chưa hề nghe ở nhà trường, chưa hề nghe ở ngoài đời. Tâm hồn tôi mở rộng ra. Có một cái gì bồng bột, hăng hái dâng lên, làm cho tràn trề hy vọng. Trước mặt tôi, những mạch sống cũ càng đã đổ vỡ. Chưa cần một phản kháng, bao nhiêu xích xiềng phong kiến đã rơi tan tác xuống mặt tôi.
Bây giờ tôi mới hiểu tại sao dải đất Việt Nam với bao nhiêu nguồn lợi phong phú, mà những người dân quê suốt đời vẫn dốt nát lam lũ. Tôi mới hiểu rằng giúp đỡ họ, trả ơn họ bằng tiền bạc chưa đủ, phải cải tạo đời sống họ, làm cho họ bừng tỉnh dậy, trao cho họ một lợi khí để họ tự đòi lấy quyền lợi mình. Tôi lấy làm thỏa mãn với sự hiểu biết mới mẻ này, và tôi quyết thực hành một ngày này kia khi tôi ra khỏi ngục.
Nhưng từ khi hiểu biết được những điều ấy, những ngày ở ngục tôi lại thấy nó nặng nề. Trong lúc đó, căn ngục lần lần đầy dẩy. Vá khi đầy, người ta lại đem bớt đi, đưa họ về cấm cố ở những miền xa. Cứ mỗi một người vào, lại thêm một câu chuyện lạ ở bên ngoài. Cứ mỗi một người ra, tất cả đều ái ngại thay cho tánh mạng người ấy. Nhưng họ không hề than thở, không hề rên xiết, không hề rơi lệ. Họ bước đi những bước nặng nề với nụ cười quả quyết trên môi.
Có những đêm đứng tựa bên song cửa, lòng tôi tha thiết nhớ quê hương. Chẳng rõ khi hay tin tôi bị bắt, gia đình tôi sẽ khổ sở đến bực nào, những người bạn quê thân yêu của tôi sẽ lo lắng đến bực nào! Có lẽ họ tưởng tôi đã chết. Có người hằng đêm cầu nguyện cho tôi. Nhiều khi những ý tưởng rùng rợn đến với tôi, tôi nghĩ biết đâu một khi chết, tôi sẽ không được an nghỉ dưới miếng đất êm ấm ở quê nhà, mà tôi phải vùi thây ở một phương trời lạnh lẽo nào, thân mình vẩy đầy những vết đạn. Tuy nghĩ thế, tôi vẫn không nao núng. Tâm hồn tôi đã cứng rắn lắm rồi!
Chính đến lúc này tôi mới thấy tôi hoàn toàn thành một tay cách mạng...
Hơn một năm sau, nhơn một cuộc phản kháng của tù nhân chính trị, tôi được ân xá. Một con đường đã vạch sẵn cho tôi rồi, tôi chỉ còn hăng hái tiến bước. Không một trở lực nào có thể ngăn nổi những gót chân đã hoàn toàn giác ngộ.
Đó là đoạn ký ức đáng ghi nhớ nhất của đời tôi. Nhờ nó mà tôi đã tìm ra chân lý của cuộc đời, tôi tưởng chép lại cho anh xem, không phải là một việc vô ích.
Phải thế không, anh Vũ?
Bạn của anh,
BÃO
- V -
Từ hôm đó, Vũ thường gặp Bão ở Quán Lá về miệt Đông bắc Hoa Thơn. Vũ bắt đầu sắp quyển “Triết học Mặc Tử” vào đáy tủ, để tìm đọc những quyển chính trị, kinh tế triết học của những nhà văn Âu Châu.
Những loại sách ấy, Vũ thường hỏi mượn Bão. Và cứ mỗi lần có điều gì nghi ngờ, Vũ vội chạy ngay đi tìm Bão, hỏi cho ra lẽ.
Suốt mấy tuần, chàng cố đọc những tác phẩm mà trước kia Bão đã biết được nhờ giáo sư T. Chàng đọc say mê hơn là làm một bài trường thi, hơn là chàng đã đọc chủ nghĩa “Kiêm ái” của Mặc Tử. Đọc xong, Vũ thấy tâm hồn mình dường như thay đổi hẳn. Nhưng chàng vẫn còn do dự - như Bão ngày xưa - giữa những nguyên lý và phương pháp thực hành. Chàng nghĩ: “Bão giác ngộ được nhờ những giáo sư trong ngục, còn mình phải nhờ đến một nhà cách mạng như Bão mới được”. Và chàng lại tìm Bão.
Chiều hôm ấy, Vũ đến Quán Lá, gặp Bão đang ngồi với mấy người dân quê. Cái con người mà Vũ kính phục, có vẻ mặt hiền lành hơn là những người dân quê chất phác. Vậy mà Bão có một tâm hồn khác thường! Rồi Vũ thèn thẹn thấy mình sang trọng quá đối với họ. Chàng biết đó không phải là một cái tội, nhưng chàng vẫn thấy làm sao ấy.
Sau vài câu chuyện, Vũ hỏi Bão:
- Tôi hiểu được cái chân lý mà bấy lâu nay tôi mờ ám. Nhưng tôi lấy làm lạ tại sao ta không dùng phương pháp cải cách mà phải dùng đến phương pháp cách mạng. Cách mạng chỉ gây ra những cuộc hỗn độn trong xã hội, nhất là xã hội chúng ta còn chặt chẽ trong những tập tục phong kiến. Tôi tưởng ta nên theo phương pháp của Malon hơn.
Bão mỉm cười đáp, không cần nghĩ ngợi:
- Tôi cũng đã nghĩ đến điều ấy. Nhưng nước ta còn ở dưới chế độ thuộc trị,cái thời thế thuận tiện ta hẳn là không có rồi. Ta phải dùng đến phương pháp thứ hai: Giải phóng quốc gia. Ta không thể nào làm khác hơn.
Vũ nghĩ một lúc, ôn tồn nói:
- Tôi chỉ còn một việc thắc mắc đó, nay anh đã cởi mở ra rồi. Tôi lấy làm sung sướng thấy tâm hồn mình đã ly khai với những tư tưởng cũ. Vậy từ nay, tôi có thể đứng trong hàng ngũ để hoạt động với các anh không?
Tất cả những cặp mắt đều đổ dồn về Vũ. Bão vui vẻ đáp:
- Chính đó là điều mà tôi chờ đợi ở anh từ lâu. Tôi biết rằng anh sẽ đi tới, nên tôi đã giúp cho anh đủ những điều kiện thuận tiện để cho anh dễ dàng nhận thức. Ngày nay, anh đã tới, chúng tôi xin sẵn sàng đón tiếp anh với tất cả tấm lòng chân thành và tín cẩn.
Một loạt hoan hô nổi dậy. Vũ hân hạnh bước đến nhận lấy những cái bắt tay đậm đà của những người bạn mới.
° ° ° ° °
Sự thật, Vũ cũng ngạc nhiên với tâm trạng biến đổi của mình. Từ một thi sĩ, Vũ đã trở nên một chiến sĩ. Chàng theo Bão lăn lội khắp các vùng quê, đem những điều hiểu biết của mình dạy lại những người bạn dốt nát.
Càng sống chung với hạn bình dân, Vũ càng cảm thấy cái khó khăn của nhiệm vụ. Họ là những người yên phận, ưa tịnh, nhưng chàng phải kiên nhẫn lắm mới chịu nổi với tánh tình và cách sống của họ. Đừng ai cố bào chữa họ là một hạng người tốt đẹp, đáng ca ngợi. Vũ đã lắm khi bực mình vì những tiếng chửi mắng nhau của họ suốt đêm, chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt như mất một cái quần, hay dành nhau một cây ớt. Những chuyện trộm cắp thường xảy ra luôn, những cuộc đánh nhau một cách tàn nhẫn không thương xót. Họ sống như thế, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Họ không nhìn lên trên, không nhìn ra xa, và không muốn gì khác hơn là kéo lê cuộc đời trong tăm tối. Cứ mỗi lần có việc gì xảy ra ở họ. Vũ phải đến can thiệp, khuyên lơn, giải nghĩa cho họ nghe, chỉ họ cách cải tạo đời sống. Họ nhìn chàng với cặp mắt lãnh đạm, với nụ cười hinh hỉnh đáng ghét. Nhưng đến khi Vũ đem lý thuyết cách mạng ra giảng giải, họ tự nhiên mừng rỡ như chiếm được vàng, họ hoan hô Vũ như một vị thần sống. Lúc đầu Vũ lấy làm lạ, về sau Vũ hiểu. Những nạn nhân của chính sách ngu dân ấy chẳng phải trong mấy phút mà hiểu được cách mạng: họ hoan hô Vũ, bởi vì Vũ hứa đem lại tự do, cơm áo cho họ. Họ tán thành lời Vũ bởi vì họ vốn là những kẻ nghèo khó. Vũ bỗng nhớ đến lời Phượng nói với chàng dưới cội trâm: “Những kẻ nghèo thì luôn luôn tìm cách binh vực quyền lợi kẻ nghèo, có gí lạ”. Bây giờ Vũ mới nhận ra đó là tâm lý chung của họ. Phải, có gì lạ? Chỉ có lạ là việc làm của Vũ. Vũ không phải là hạng người nghèo mà Vũ vẫn binh vực kẻ nghèo.
Có lần Vũ đem ý nghĩ của mình nói với Bão. Bão cười một cách chua chát:
- Anh vẫn còn thiên lương quá, Vũ ạ! Anh tưởng kẻ nghèo lại tốt gì hơn kẻ giàu sao?
Không, họ còn nguy hiểm hơn kẻ giàu nữa!
- Vậy tại sao ta lại binh vực họ?
- Chỉ vì lỗi ấy không phải tại họ, mà là tại xã hội. Xã hội không khéo tổ chức đã đẻ ra những đứa con ngu dốt như họ, ta nên thương hại họ hơn là ghét bỏ. Muốn cứu vớt họ, ta phải tổ chức lại xã hội. Đó là công việc mà chúng ta đang làm đây.
Vũ nhận lấy lời đó của Bão như là một hoàn thuốc để giữ vững tinh thần. Chàng lại hoạt động. Cái khổ của Vũ là mỗi lần đi hoạt động trở về, chàng lại nghe cái giọng gắt gỏng của cha, lại phải sống êm đềm trên nhung lụa, lại phải chịu trong khuôn phép của gia đình. Trước kia, Vũ cho đó là sự tự nhiên: chàng đã sinh ở đây và đã sống ở đây từ thuở nhỏ, chàng có quyền như thế. Nhưng sau khi thấy cảnh vất vả của những kẻ cần lao, sau khi lăn lộn trong lầm than để tìm ra cái lẽ sống mới, chàng thấy như thế là bất công, là áp chế. Không nên nghĩ đến hạnh phúc riêng mình, phải nghĩ đến hạnh phúc cộng đồng.
Trong đầu óc Vũ nảy ra cái ý phản ứng lại đối với chế độ phụ quyền. Chàng chỉ còn đợi dịp là biểu lộ sự phản ứng ấy.
- VI -
Sự vắng mặt hằng ngày của Vũ làm cho bà Phủ lo ngại. Bà nhận ra sự thay đổi tánh tình của Vũ. Chàng là người điềm đạm, ít nói, bỗng nhiên trở nên một thiếu niên hùng biện, ham hoạt động. Điều đó cũng không tránh khỏi cặp mắt của quan Phủ. Nhưng với cái tánh nghiêm khắc một cách dè dặt, ngài chỉ dò từng hanh vi Vũ trong lặng lẽ. Ngài muốn tìm ra cái nguyên nhân đích xác sự thay đổi của Vũ.
Lòng người mẹ có cái gì dịu mềm, đằm thắm hơn. Bà Phủ không thể thấy con mình ngày một lam lũ vì dạn dày sương gió. Một đêm khuya, thấy phòng Vũ còn ánh đèn, bà lật đật sang phòng con. Bà thấy Vũ chăm chú cúi đầu vào quyển sách, xem say mê như những khi bà xem hát đến những màn cụp. Tóc Vũ rủ xuống trán, đôi mắt long lanh sáng dưới ánh đèn. Đôi má Vũ hơi gầy, ẩn sau lớp da đen rám nắng.
Trái với thường ngày bà hay rầy Vũ, bà thấy lòng dậy lên một niềm thương. Bà âu yếm hỏi Vũ:
- Con chưa ngủ à?
Vũ giật mình ngẩng lên:
- Thưa mẹ, con chưa buồn ngủ.
- Độ này trông con gầy lắm! Con phải dưỡng sức mới được.
- Con thấy trong mình con vẫn khỏe.
Bà lặng yên nhìn Vũ một phút, dịu dàng nói:
- Mẹ để ý gần ba tháng nay, con hay đi bất thường, không kể gì đến lời rầy của cha mẹ nữa. Chẳng hay có việc gì xảy ra cho con! Hay là ai quyến rủ con bê tha lêu lỏng?
- Không, mẹ thấy con lêu lỏng bao giờ đâu! Con chỉ đến chơi nhà những người bạn.
- Con nên nhớ mình là con nhà gia thế, không nên chơi bời nhiều với phường du hí du thực. Chơi với họ, không có ích gì, mà còn có hại thêm thôi.
Tiếng “Phường du hí du thực” bà Phủ vừa thốt làm cho Vũ cau mặt. Xưa nay, Vũ chưa bao giờ để ai chạm đến những người mình yêu kính. Biết rằng mình đi nghịch đường với cha, chàng vẫn thấy tức giận mỗi khi một người bạn lỡ chạm động đến cha chàng. Huống gì Bão là người chàng yêu kính. Cho nên vừa nghe bà Phủ nói, Vũ vội cải:
- Thưa mẹ, họ không phải là những người như mẹ tưởng. Họ không giàu như chúng ta, nhưng họ tốt hơn chúng ta nhiều.
Bà Phủ phật ý:
- Con có tánh vẫn hay cải cho kỳ được theo ý mình. Con không biết khắp cả tỉnh người ta đàm tiếu nhiều về con, người ta bình phẩm về cha mẹ con nữa.
Vũ cảm thấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt. Chàng đưa mắt ngạc nhiên nhìn mẹ:
- Người ta đã nói thế nào về con?
- Họ đồn rằng con say mê con nào ở Hoa thôn, rằng con đã bị bùa mê ngải lú gì nên không ngày nào con xa con đó được.
Vũ đang lo sợ sự hoạt động bí mật của mình bị phát giác, lời bà Phủ làm cho chàng trở lại vững bụng. Chàng thở ra một hơi dài khoan khoái khi nhớ đến Phượng, và chàng nghĩ: “Giá Phượng có bùa mê thật, thì mình làm sao nhỉ?” Nghĩ như vậy, rồi chàng tự cười thầm.
Bà Phủ thấy chàng cười, giận dỗi nói:
- Con cho như vậy là tốt lắm sao?
- Không, thưa mẹ, con cười vì người ta khéo đặt điều. Sư thật, cô ấy chỉ là người bạn của con.
- Con có cả bạn gái?
- Sự ấy rất thường đối với người bây giờ. Gái trai đều có quyền tự do như nhau.
Bà Phủ lắc đầu:
- Tự do? Đó là cái cớ để các cậu bây giờ bào chữa những chuyện lố lăng của mình. Mẹ không muốn nghe con nói đến tiếng đó nữa.
Vũ cúi đầu, đáp khẽ:
- Thưa mẹ, vâng.
Nhưng trong lòng Vũ thấy trở lại thương mẹ. Con người ấy suốt đời chưa hề biết tư do là gì, và cũng không bao giờ đòi hỏi tự do. Sống trong những tập quán cổ truyền, mẹ chàng quen chịu cảnh phục tùng của chế độ gia tộc. Người đàn bà chỉ là một con vật nô lệ, suốt đời để trả nợ cho chồng, cho con.
Càng nghĩ thương mẹ, Vũ càng thấy công việc hoạt động của chàng là cần thiết. Sống trên đống vàng, không ích gì cả, phải làm sao cho mọi người đều hiểu lấy cái lẽ sống, trong số những người ấy có cả mẹ chàng.
Vũ nhiều phen tự hỏi có nên nói thật với mẹ công việc của chàng đang làm hay không? Và mỗi lần dợm nói, chàng lại thôi. Mẹ chàng chưa thể nào hiểu được và có hiểu, chỉ gây thêm sự thắc mắc. Bà không có can đảm như chàng. Đối với những người như thế, chỉ còn trông mong ở sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ xã hội.
Thấy Vũ lại đặt mắt vào trong sách, bà Phủ hỏi:
- Con xem gì mà mải miết thế?
Vũ vẫn cúi đầu để tránh đôi mắt mẹ, nhưng tại sao chàng vẫn thấy lòng rộn rã. Chàng không thể dằn lòng được nữa, thân mật bảo với mẹ:
- Mẹ ngồi xuống đây.
Bà Phủ ngồi xuống bên chàng. Bà có cảm tương sắp được nghe một chuyện lạ.
Vũ rắn rỏi nói:
- Con đang đọc những quyển sách cấm.
Bà ngơ ngác:
- Lại có những quyển sách cấm?
- Nếu người ta biết rằng con đọc nó, con sẽ bị tù hay hơn nữa sẽ bị đày...
- Nhưng tại sao con đọc?
- Vì con muốn rõ sự thật.
- Sự thật?
Và giọng bà run lên:
- Không có sự thật nào cả. Con không nên xem những đồ ấy, mẹ sẽ đem đốt ngay, đốt cả...
Vừa nói bà vừa với tay dằn lấy quyển sách. Vũ nắm lấy tay bà:
- Mẹ!
Bà rút tay lại, ngồi ngẩn ngơ như pho tượng. Vũ tiếp với giọng thiết yếu:
- Mẹ không cần hiểu, nhưng con cần hiểu. Con lấy làm hối hận đã làm cho mẹ sợ, nhưng mẹ hãy yên lòng và xin mẹ nên giữ kín.
Bà hốt hoảng đứng dậy, Vũ cũng đứng lên, đi theo bà đến tận cửa:
- Mẹ hãy giữ kín, cả với cha con.
Nhưng bà Phủ không nghe gì nữa. Mắt bà hoa lên vừa xúc động bởi một tiếng sét dữ dội...
° ° ° ° °
Hôm sau, khi Vũ vừa về phòng thay đồ xong, thì có tiếng giày đến sát bên cửa.Vũ nhận ra tiếng giày của cha. Chàng vội ra mở.
Ông Phủ tay cầm một quyển sách, thong thả bước vào. Mặt ông không có vẻ giận, cũng không có vẻ vui. Ông kéo ghế ngồi, đặt quyển sách lên bàn, bảo Vũ:
- Mẹ con nói độ rày con ham đọc sách, nên cha đã chọn quyển này cho con đọc.
Vũ liếc mắt lên quyển sách thấy hàng tựa: “Mặt nạ Cách mạng”. Chàng tự nhiên rùng mình.
Không đợi cho Vũ đáp, ông tiếp:
- Cha không muốn cho con đọc những quyển sách nhảm nhí, nhất là những quyển sách cấm. Con hãy đem tất cả đây cho cha.
Từ lâu, Vũ biết mình có những tư tưởng trái nghịch với cha, nhưng chưa bao giờ dám có một cử chỉ phản đối. Sự ấy đối với Vũ gần như là một thói quen. Chàng lại bàn lấy mấy quyển sách đang xem dở đưa cho cha. Ông Phủ tiếp lấy, cầm một quyển lật vài trang, bỗng ông hỏi:
- Ai cho con mượn mấy quyển sách này?
- Con không thể nói.
Ông Phủ hơi cau mày:
- Người đó ra thế nào?
- Một người rất tốt.
Ông đặt quyển sách lên bàn, làm bắn tung mấy tờ giấy rơi là xà xuống đất. Sắc mặt ông bỗng trở nên giận dữ. Ông nhìn thẳng vào mặt Vũ, dằn từng tiếng:
- Con lầm! Những kẻ gây loạn cho nước nhà, khủng bố lương dân, không phải là những người tốt. Họ chỉ là một bọn phiến loạn, bọn mê tín.
Dứt lời, ông hầm hầm đứng dậy, cầm mấy quyển sách đi thẳng ra cửa. Nhưng vừa đến ngạch cửa thì ông dừng bước, ngoái trông lại Vũ một lần chót, rồi ban lịnh cuối cùng:
- Cha cấm con từ rày không được lui tới với bọn ấy nữa. Cha biết họ là người thế nào rồi.
Vũ cúi đầu ngoan ngoãn như một đứa bé. Khi tiếng giày của ông Phủ đã vang ra xa, Vũ nằm vật xuống giường, tâm trí chàng rối loạn. Chàng thấy giữa khung cảnh này, chàng hoàn toàn cô độc. Và thì giờ đã đến để cho chàng làm lại cuộc đời...
Vũ cầm quyển sách của cha vừa đưa, mấy hàng chữ nhảy múa trước mắt chàng. Không cần đọc Vũ cũng biết đó là những điều người ta cố bài xích công việc chàng đang làm, cái lý tưởng chàng đang tôn kính. Vũ nghĩ đến Phượng, đến Bão, đến những bạn quê thân yêu, nhớ đến những ngày cùng chia sớt nỗi cơ hàn với họ. Chàng thấy rằng chàng không thể nào phản bội họ được.
Và chàng quăng trả quyển sách lên bàn, mơ màng nghĩ đến một ngày mai...
- VII -
Vũ đến giữa lúc Phượng đang quét lá ở trước sân. Những chiếc lá vàng nằm phơi trên mặt cỏ, đón ánh nắng đào. Mỗi lần chiếc chổi của Phượng đưa đến đâu, chúng lại chuyển mình lăn đùn vào nhau, như một đoàn tù binh sắp bị đưa đến ngục hình.
Phượng ngừng tay khi nghe tiếng Vũ:
- Em Phượng hôm nay trông mạnh chán!
Nàng cười:
- Thật sao, anh?
- Chớ anh lại dối à?
- Nếu vậy thì may, vì em vẫn có tánh hay sợ chết.
Giọng Phượng rất duyên dáng khiến Vũ bồi hồi nhớ đến lời mẹ. Chàng nghĩ: “Người ta đồn là phải”, và chàng thấy Phượng đẹp hơn lúc nào hết, đẹp một cách ngây thơ, dung dị.
Thấy Vũ chăm chú nhìn mình, Phượng bẽn lẽn:
- Có gì lạ không, anh Vũ?
- Nhiều chuyện lạ.
- Vui hay buồn?
- Cũng vui mà cũng buồn.
Phượng ngước mắt lên nhìn Vũ, và bốn mắt gặp nhau trong một phút. Nàng thấy đôi mắt Vũ sáng lên một cách cương quyết, dường như chàng đã có một quyết định gì. Tự nhiên, Phượng thấy lòng hồi hộp.
Vũ dịu dàng nói:
- Em Phượng, anh muốn nói với em một chuyện.
Phượng biết đó không phải là câu chuyện nàng mong đợi, nhưng nàng vẫn đáp, thật khẽ:
- Vâng, em nghe anh.
- Em có nghe nói đến cách mạng bao giờ chưa?
- Có, em có nghe nhiều người nói.
- Em nghe nói thế nào?
- Họ bảo quân cách mạng ghê gớm như bọn cướp.
Vũ reo lên:
- Không, người ta nói dối.
- Sao anh biết?
- Vì anh là một đảng viên cách mạng.
Phượng ngạc nhiên:
- Anh Vũ!
Vũ nắm lấy tay nàng:
- Anh nói thật, Phượng ạ! Và anh đã suy nghĩ trước khi làm.
Vũ bắt đầu thuật lại câu chuyện từ ngày gặp Bão cho Phượng nghe, những chuyện chàng đã làm với Bão. Phượng bỗng dưng thấy bầu trời như tối lại. Trước mặt nàng, những làn hào quang xẹt qua xẹt lại rồi tan mất đi, nàng chỉ còn thấy đôi mắt Vũ, đôi mắt mà nàng chưa hề thấy như thế bao giờ. Cái cảm giác đầu tiên của nàng là sợ hãi, những giọt mồ hôi rươm rướm trên trán nàng như những giọt sương mai.
Vũ điềm tĩnh tiếp:
- Em Phượng, anh kể lại câu chuyện ấy, vì anh tin nó có ích cho em. Em là người có thâu thái được Tây học, lẽ tự nhiên em phải nhận thức lấy quyền lợi mình.
Nàng đưa tay ôm mặt:
- Không, em không hiểu gì cả, em không muốn hiểu gì cả. Em chỉ thấy rằng anh đang đi vào con đường rùng rợn, con đường mà chưa bao giờ em dám nghĩ tới.
- Nhưng không thể nào tránh được, Phượng ạ! Nước ta sẽ phải trải qua một cơn kinh khủng. Nếu em không vì em, em cũng phải vì nước.
- Chừng ấy sẽ hay. Em chỉ là người con gái yếu ớt, yếu cả tinh thần lẫn thể xác.
Vũ thở dài:
- Không phải vì lẽ đó mà em có quyền từ chối phận sự.
Hai người im lặng một lúc, Vũ tiếp:
- Hôm nay anh đến đây để từ giã em.
- Anh đi đâu?
- Đi xa, sang Tàu.
- Anh đi qua bên ấy làm gì?
- Anh có sứ mạng qua liên lạc với Trung Ương đảng bộ, để bàn tính kế hoạch phục quốc.
Qua hồi kinh hoảng, Phượng thấy lòng dịu lại và bồi hồi nghĩ đến những ngày sắp xa Vũ, xa không hẹn ngày gặp gỡ. Nhưng trước vẻ hiên ngang của người tráng sĩ, nàng không muốn để lộ cái yếu mềm của lòng mình.
- Bao giờ anh đi?
- Ngay ngày mai.
- Bao giờ anh về?
- Ngày giải phóng dân tộc. Ngày đó anh tin rằng không xa.
- Em cũng tin thế!
Lời nói ấy của Phượng làm cho Vũ sung sướng. Chàng nhìn nàng với cái nhìn cám ơn:
- Em cũng tin rằng ngày đó gần đây? Nếu vậy thì em đã hiểu anh, anh ra đi không còn sự gì thắc mắc.
Phượng đứng im một lúc, lại hỏi:
- Còn anh Bão?
- Bão vẫn ở lại. Anh ấy sẽ cố mở rộng thế lực xuống miền Tây.
- Anh Bão thường ở đâu?
- Quán Lá. Đó là chỗ họp kín của đảng.
Một cơn gió làm đôi bạn giật mình. Đống lá trước mặt hai người tung lên như để bộc lộ một phẫn uất. Một chiếc mới từ trên cành rụng xuống, là đà trên mái tóc Vũ, rồi đến nép trên vai Phượng. Nàng cầm lấy chiếc lá lật qua lật lại, vơ vẩn đưa lên môi.
Cái cử chỉ âu yếm ấy làm cho Vũ hồi hộp. Và cứ mỗi lần thấy lòng sắp rung động, Vũ lại tìm cách trấn tỉnh lại.
- Hai bác đâu, em Phượng?
- Ba má em đi khỏi.
- Rủi quá, anh định lại chào hai bác.
- Anh không ngại, em sẽ thưa lại cho ba má em hay.
Chàng nhìn quanh như để ôn vào trí những cảnh vật kỷ niệm. Dầu sao, phút chia tay cũng làm cho Vũ bùi ngùi.
- Thôi, anh đi.
Phượng run run:
- Anh đi...
Hai người nhìn nhau một lần chót. Vũ không muốn kéo dài giây phút ấy nữa, chàng xây lưng rồi bước vội về phía rặng trâm.
Phượng không bước theo được một bước nào. Nàng thấy lòng quặn lên và hai giòng lệ lăn dài xuống má.