← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV SỰ LỰA CHỌN CỦA TỰ NHIÊN

Sự lựa chọn của tự nhiên - Sức mạnh của nó so với sức mạnh của sự lựa chọn do con người - Sức mạnh của nó đối với các đặc tính kém quan trọng - Sức mạnh của nó đối với mọi lứa tuổi và giới tính - Sự lựa chọn giới tính - về tính tổng quát của sự lai giống giữa các cá thể của cùng một loài - Các hoàn cảnh sống thuận lợi và bất lợi đối với sự lựa chọn tự nhiên, bao gồm sự lai giống, sự cô lập, số lượng cá thể - Tác động chậm - Sự tuyệt chủng gây ra bởi sự lựa chọn của tự nhiên - Sự chệch hướng của đặc điểm, liên quan đến tính đa dạng của cư dân sống bất cứ trong một khu vực nhỏ bất kỳ nào và với quá trình tự nhiên hóa - Ảnh hưởng của sự lựa chọn tự nhiên, thông qua sự chệch hướng của đặc điểm và tuyệt chủng, lên con cháu cùng chung bố mẹ - Giải thích tính bầy đàn của mọi cá thể sống.

Cuộc đấu tranh sinh tồn, điều mà đã được bàn luận đến, mặc dù rất tóm lược, trong chưcmg trước ảnh hưởng đến sự biến đổi như thế nào? Liệu có thể nguyên lý của sự lựa chọn mà chúng ta thấy đầy quyền uy dưới bàn tay của con người cũng áp dụng được đổi với tự nhiên? Tôi nghĩ nó có thể hoạt động tốt. Chúng ta hãy luôn nhớ tới vô số đặc điểm kỳ lạ của động, thực vật thuần hóa, và với mức độ thấp hơn những cây và con trong tự nhiên biến đổi; và xu hướng di truyền mạnh mẽ đến như thế nào. Trong điều kiện thuần hóa, người ta thực sự có thể nói rằng xét trên mức độ nào đó, toàn bộ tổ chức cơ thể trở nên dễ biến hình. Chúng ta hãy nhớ rằng mối quan hệ qua lại của tất cả các cơ thể sống với nhau và với điều kiện sống vật chất là vô cùng phức tạp và hài hòa. Liệu nó có thể bị coi là không hợp lý khi thấy rằng các thay đổi có ích cho con người chắc chắn đã xuất hiện, rằng các thay đổi khác có lợi cho mỗi cơ thể sống xét trên một phương diện cụ thể trong cuộc chiến phức tạp nhưng vĩ đại cho sự sống, đôi khi xuất hiện trong quãng thời gian của hàng nghìn thế hệ? Nếu chuyện ấy xuất hiện, liệu chúng ta có thể (xin nhớ cho là nhiều cá thể được sinh ra hơn là có thể sống sót) nghi ngờ những thực thể có bất kỳ lợi thế nào, cho dù nhỏ bé, so với cá thể khác sẽ có cơ hội tốt hơn để tồn tại và sinh sản giống loài? Mặt khác, chúng ta có thể cảm thấy chắc chắn bất kỳ sự thay đổi nào trong mức độ nhỏ nhất gây hại sẽ bị loại trừ ngay lập tức. Sự duy trì các biến đổi có ích và loại bỏ các biến đổi có hại, tôi gọi là sự lựa chọn của tự nhiên. Các biến đổi chẳng có lợi cũng chẳng có hại không bao giờ bị ảnh hưởng bởi sự lựa chọn của tự nhiên, và để cho là một nhân tố dao động, có lẽ như chúng ta thấy trong các loài được gọi là loài biến hình.

Chúng ta sẽ hiểu kỹ lộ trình có thể của sự lựa chọn tự nhiên bằng cách xem xét trường hợp của nước trải qua sự thay đổi của điều kiện sống, ví dụ như thay đổi khí hậu. số lượng cân đối của các cư dân sinh sổng hầu như ngay tức khắc sẽ thay đổi, và một vài loài có thể bị tuyệt chủng. Chúng ta có thể kết luận, dựa trên những gì mà chúng ta thấy trong tính phức tạp và gần gũi mà các cư dân của một nước gắn kết với nhau. Bất kỳ sự thay đổi nào trong sự cân đổi số lượng của một vài cư dân, không hề liên quan tới sự thay đổi khí hậu, sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nhiều loài khác. Nếu các nước xóa bỏ đường biên giới, các dạng mới chắc chắn sẽ di cư, và tình trạng này sẽ gây nên sự xáo trộn nghiêm trọng trong mối quan hệ của một vài cựu cư dân. Chúng ta hãy nhớ lại ảnh hưởng mạnh mẽ của sự xuất hiện một cây hay loài động vật có vú mà đã được nhắc đến đâu đó. Nhưng trong trường hợp đảo, hay quốc gia một phần bị bao bọc, các dạng mới và thích nghi tốt hơn không thể xâm nhập thì chúng ta sẽ có những nơi trong thế giới tự nhiên mà chắc chắn sẽ được lấp đầy tốt hơn, nếu một vài cư dân gốc được biến đổi; vì nếu khu vực đó mờ ra cho nhập cư, những nơi này sẽ bị các loài xâm nhập chiếm đóng. Trong trường hợp như vậy, mọi cải đổi, cho dù nhỏ, mà theo thời gian trưởng thành có cơ hội xuất hiện, và trong bất kỳ cách nào có lợi cho cá thể của bất cứ loài nào, bằng cách giúp chúng thích nghi tốt hơn với điều kiện sống thay đổi, sẽ có xu hướng được giữ lại; và như thế sự lựa chọn tự nhiên có tầm hoạt động cải thiện tự do.

Chúng ta có lý do để tin rằng, như đã được trình bày ở chương I, một thay đổi trong điều kiện sống, nhất là nếu tác động lên hệ thống sinh sản, gây ra hoặc tăng tính biến đổi; và trong những trường hợp trước đây mọi người cho rằng điều kiện sống thay đổi, và do đó hiển nhiên tạo điều kiện thuận lợi cho sự lựa chọn tự nhiên bằng việc tạo ra cơ hội tốt hơn cho những biến đổi có lợi xuất hiện. Trừ khi các biến đổi có lợi xuất hiện, sự lựa chọn tự nhiên không có tác dụng gì. Tôi tin là không phải bất cứ mức độ biến đổi tột cùng nào cũng là cần thiết; khi mà con người luôn có thể tạo ra những điều tuyệt vời bằng cách chỉ thêm vào các khác biệt cá thể theo bất cứ chiều hướng cho sẵn nào; và Tự nhiên cũng làm được như thế nhưng dễ dàng hơn nhiều do Tự nhiên có thời gian vô hạn, không ai có thể sánh kịp. Tôi cũng không tin bất kỳ thay đổi vật lý lớn nào, chẳng hạn như thay đổi thời tiết, bất cứ mức độ cô lập lớn để kiềm chế sự nhập cư là trên thực tế cần thiết để tạo ra những nơi mới và không bị chiếm cứ, để cho sự lựa chọn tự nhiên lấp đầy thông qua việc thay đổi và cải thiện một vài cư dân vùng. Bởi vì khi mà tất cả các cư dân của mỗi nước đang tranh đấu với nhau với các lực lượng cân bằng hoàn hảo, những chỉnh đổi cực kỳ nhỏ bé trong cấu trúc và thói quen của một cư dân thường mang lại lợi thế cho nó trước con khác; và nếu vẫn còn tiếp tục biến đổi cùng loại thì nó sẽ càng tăng được lợi thế. Không có một nước nào mà trong đó tất cả các cư dân bản địa hiện đang chung sống với nhau hòa bình và thích nghi hoàn toàn với điều kiện sống nơi chúng đang tồn tại tới mức không loài nào có thể được cải tiến hơn nữa bằng cách này hay cách khác. Bởi vì mọi quốc gia, loài bản địa đã bị chinh phục hoàn toàn bởi sản phẩm tự nhiên hóa đến độ mà chúng cho phép kẻ ngoại lai chiếm giữ hẳn mảnh đất cha ông. Và thực tế là loài ngoại lai ở mọi ncri chỉ chiếm ưu thế so với một số loài bản địa, chúng ta có thể kết luận chắc là loài bản địa có lẽ đã được biến đổi với lợi thế nhất định để có thể hạn chế tốt hơn những kẻ xâm lấn như kiểu này.

Do con người có thể và chắc chắn đã tạo ra sự kỳ lạ thông qua biện pháp lựa chọn có khoa học và vô thức, cái gì mà tự nhiên không thể tạo ra? Con người chỉ có thể tác động đến đặc điểm bên ngoài và quan sát được; tự nhiên không hề quan tâm đến bề ngoài, trừ trường hợp nó có ích cho cơ thể sống. Tự nhiên có thể ảnh hưởng tới tất cả các cơ quan bên trong, lên mọi thể trạng, và cả bộ máy sự sống. Con người chỉ lựa chọn để có lợi cho bàn thân mà thôi. Tự nhiên chỉ lựa chọn những đặc tính mà nó nhắm vào. Mọi đặc tính được lựa chọn hoàn toàn là do tự nhiên quyết định, và thực thể sống được đặt trong điều kiện sống phù hợp. Con người giữa nhiều loài thuộc khí hậu khác nhau trong cùng một đất nước; anh ta ít khi tiến hành mỗi sự lựa chọn theo cách kỳ lạ; anh ta cho một con chim bồ câu mỏ ngắn hoặc dài ăn cùng loại thức ăn. Anh ta không huấn luyện một động vật bốn chân lưng dài hoặc chân dài theo bất kỳ phương pháp bất thường nào. Anh ta nuôi cừu có bộ lông dài và ngắn trong cùng loại thời tiết. Anh ta không cho phép các con đực khỏe nhất chiến đấu giành lấy con cái. Anh ta không cương quyết loại bỏ những con vật không đạt tiêu chuẩn, mà lại bảo vệ tất cả sản phẩm của mình trong các mùa biếấn động, nếu sức mạnh của anh ta cho phép. Anh ta thường bắt đầu sự lựa chọn với kiểu bán quái dị; hay ít nhất bởi sự biến đổi đủ nổi bật bắt mắt anh ta, hay đơn thuần là có lợi. Trong môi trường tự nhiên, sự khác biệt bé nhất trong cấu trúc hay thể trạng rất có thể làm mất cân bằng cán cân của cuộc chiến sinh tồn, và nhờ đó được bảo tồn. Thật là viển vông cho những mong muốn và nỗ lực của con người! Thời gian của con người thật ngắn ngủi! Và kết quả là sản phẩm của anh ta thật tồi tệ nếu đem so với sản phẩm tích tụ của thiên nhiên trong các thời kỳ địa chất. Như thế, liệu chúng ta có thể tự hỏi sản phẩm của tự nhiên thực sự là "thật hơn" nhiều trong đặc tính hơn sản phẩm của con người; chúng có thể thích nghi tốt hơn nhiều với điều kiện sống phức tạp nhất và có dấu ấn công trình nghệ thuật mà không một tác phẩm nào của con người có thể so sánh được?

Chúng có thể nói rằng sự lựa chọn tự nhiên hàng ngày, thậm chí hằng giờ, xét kỹ lưỡng, trên khắp thế giới, mọi biến đổi cho dù là nhỏ nhất; loại trừ đi những cái xẩu và giữ lại, sau đấy cộng dồn mọi đặc tính tốt; làm việc một cách thầm lặng và không cảm nhận được, bất cứ khi nào, lúc nào cơ hội xuất hiện nhằm cải thiện mỗi cơ thể sống trong mối quan hệ với điều kiện sống hữu cơ và vô cơ của nó. Chúng ta không nhìn thấy gì trong quá trình chậm chạp này của nó cho tới khi bàn tay thời gian "vào cuộc". Sự quan sát của chúng ta kém hoàn thiện tới mức mà chúng ta chi thấy dạng thức sống ngày nay khác với dạng thức sống trước đó.

Mặc dù sự lựa chọn tự nhiên chỉ có thể ảnh hưởng thông qua và có lợi cho mỗi cá thể sống, song các đặc điểm, tính cách và cấu trúc mà chúng ta hay coi chúng là không quan trọng, có thể vẫn bị ảnh hưởng bởi nó. Khi chúng ta thấy những con côn trùng ăn lá cây màu xanh, gà gô trắng xám vùng núi An - pơ ở mùa đông, gà gô có màu đỏ của cây thạch nam, và gà gô đen giống màu than bùn đất; chúng ta phải tin rằng sự đa dạng về màu sắc này nhàm giúp loại chim vả côn trùng tránh khỏi hiểm nguy. Gà gô, nếu không bị tiêu diệt hàng loạt tại giai đoạn nào đó trong chu trình sống, sẽ tăng lên vô khối; người ta biết là chúng bị những con chim săn bắt; và chim ưng là con săn mồi dựa vào tầm nhìn tốt nhất. Chúng đã săn bắt được nhiều con mồi tới mức mà ở một số noi trên lục địa, mọi người được cảnh báo không nên nuôi chim bồ câu trắng, vì nó dễ có khả năng bị săn bắt nhất. Do đó tôi không thấy có lý do gì để nghi ngờ sự lựa chọn tự nhiên có thể là công cụ hữu hiệu nhất ban cho mỗi loại gà gô một màu sắc phù hợp, và giữ màu sắc đó, khi đã thu được, thường xuyên liên tục. Chúng ta không nên nghĩ là sự tiêu diệt con vật có màu sắc bất kỳ với số lượng lớn thỉnh thoảng mới xảy ra sẽ gây nên ít ảnh hưởng: chúng ta nên nhớ rằng quan trọng như thế nào khi phải loại đi tất cả các con cừu màu có dính cho dù một chút lông đen trong đàn cừu trắng. Đối với thực vật, lông tơ trên quả và màu của nhân được các nhà thực vật học coi là những đặc điểm ít quan trọng nhất. Nhưng chúng tôi lại nghe từ một người làm vườn lâu năm trong nghề cho biết, lông tơ, những quả vỏ nhẵn ở Mỹ chịu sự tấn công của một bọ cánh cứng ác liệt hơn nhiều, con mọt ngũ cốc, so với các quả có lông tơ; quả mận hồng có nhiều bệnh tật hơn quả mận vàng. Trong khi đó một căn bệnh khác tấn công loại đào lòng vàng nhiều hơn đào có lòng màu khác. Nếu, với sự trợ giúp của nghệ thuật, những khác biệt nhỏ này chắc chắn tạo nên một điểm khác biệt lớn trong việc trồng một vài biến thể trong môi trường tự nhiên, nơi cây phải đấu tranh với các cây khác và với nhiều kẻ thù nữa, những khác biệt như thế sẽ quyết định một cách hiệu quả biến thể nào, vỏ nhẵn, vỏ có lông tơ, quả lòng màu hồng hay màu vàng được giữ lại.

Khi nhìn vào nhiều điểm khác biệt nhỏ giữa các loài, với sự hiểu biết nghèo nàn của chúng ta cho phép để nhận xét, dường như không quan trọng gì, chúng ta không được quên là khí hậu, thức ăn... có lẽ gây một số ảnh hưởng trực tiếp nhưng yếu. Song còn cần thiết hơn nhiều là chúng ta luôn nhận thức là có nhiều quy luật chưa được biết tới của tương quan tăng trưởng, khi một phần của cơ quan bị thay đổi bởi sự biến đổi, và các sửa đổi được tích tụ bởi sự lựa chọn tự nhiên có lợi cho, sẽ gây ra các biến đổi khác, thường của tính chất không trông đợi nhất.

Như chúng ta thấy rằng các biến thể đó, mà trong điều kiện thuần hóa xuất hiện bất kỳ tại giai đoạn chu trình sống nhất định, có xu hướng tái xuất hiện ở đứa con đúng giai đoạn đó - ví dụ, trong các hạt giống của nhiều biến thể của cây trồng thuần dưỡng và của cây nông nghiệp; trong các giai đoạn sâu, bướm, và kén của các biến thể tằm; trong trứng của gia cầm, và trong màu sắc của bộ lông gà con, trong sừng của đản cừu và gia súc của chúng ta khi chúng gần trưởng thành - trong môi trường tự nhiên, sự lựa chọn tự nhiên sẽ được tạo điều kiện để tác động lên và thay đổi cơ thể sống tại bất kỳ độ tuổi nào, bằng sự tích tụ của các biến đổi có lợi tại độ tuổi đó, và bàng sự di truyền của chúng chính ở độ tuổi tương ứng. Nếu nó có lợi cho một cây phát tán hạt giống rộng hơn xa hơn nhờ gió, tôi có thể thấy không khó khăn nào trong việc sự lựa chọn tự nhiên thực hiện điều này lớn hơn khó khăn người trồng cây bông tăng số lượng và cải thiện chất lượng lông tơ trong quả bông trên cây bông của anh ta bằng cách lựa chọn. Sự lựa chọn tự nhiên có thể thay đổi và giúp ấu trùng của một loại côn trùng thích nghi với hàng loạt các biếấn động bất thường, hoàn toàn khác biệt so với biếấn động liên quan tói côn trùng trưởng thành. Những thay đổi này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới cấu trúc của con trưởng thành, thông qua quy luật tương quan tăng trưởng; và có lẽ trong trường hợp của các con côn trùng chỉ sống có vài giờ, và không bao giờ ăn, một phần lớn cơ thể chúng chỉ là kết quả tương quan của những thay đổi kế tiếp trong cấu trúc ấu trùng của chúng. Ngược lại các biến đổi trên cơ thể trưởng thành có lẽ thường gây ảnh hưởng tới cấu trúc của ấu trùng; nhưng trong tất cả các trường hợp, sự lựa chọn tự nhiên sẽ đảm bảo những biến đổi gây ra bởi các biến đổi khác tại một giai đoạn riêng biệt của chu trình tồn tại, sẽ không gây hại cho cơ thể chủ kể cả khi xét trên mức độ bé nhất của ấu trùng bởi vì nếu chúng gây hại, chúng sẽ làm cho loài đó bị tuyệt chủng.

Sự lựa chọn tự nhiên sẽ thay đổi cấu trúc của con chưa trưởng thành trong mối quan hệ với cha mẹ nó, và trong mối quan hệ của cha mẹ với con. Trong thế giới động vật, mối quan hệ này sẽ giúp cấu trúc của mỗi cá thể thích nghi vì lợi ích của cộng đồng. Điều mà sự lựa chọn tự nhiên không thể làm là thay đổi cấu trúc của một loài, không mang lại cho nó bất cứ lợi thế nào, vì lợi ích của loài khác; và mặc dù khẳng định này có thể tìm thấy trong các tác phẩm về lịch sử tự nhiên, tôi chưa tìm ra được một trường hợp nào có sự kiểm tra nhận định cả. Một cấu trúc chỉ được một lần trong toàn bộ cuộc đời của con vật, nếu có tầm quan trọng cao đối với nó, có thể đã được cải biến bởi sự lựa chọn tự nhiên xét trên bất kỳ mức độ nào; ví dụ những loài côn trùng nhất định có hàm khỏe và chỉ được dùng để mở cái kén - hay đầu mỏ cứng của mỏ con chim non được sử dụng để phá vỡ vỏ trứng. Người ta khẳng định rằng giống chim bồ câu nhào lộn có mỏ ngắn thường có số lượng bị chết trong trứng nhiều hơn là số lượng có thể thoát ra bên ngoài, do vậy những người nuôi chim phải giúp chúng thoát ra được khỏi vỏ trứng. Bây giờ, nếu thiên nhiên cấu tạo mỏ của một con chim bồ câu trưởng thành rất ngắn để có lợi cho nó, quá trình chuyển đổi sẽ rất chậm chạp, và cùng lúc sẽ có sự lựa chọn con chim non kỹ càng nhất trong trứng, những con có mỏ cứng và khỏe nhất bởi vì tất cả con mỏ yếu đã không thể tránh khỏi bị chết trong trứng: hoặc là những vỏ mỏng hơn và dễ vỡ hơn có thể sẽ được lựa chọn, độ dày của vỏ vẫn được biết là biến đổi như mọi cấu trúc khác.

Sự lựa chọn giới tính - Bởi vì những đặc điểm dị thường hay xuất hiện trong điều kiện thuần hóa ở một giới tính và được di truyền lại cho đứa con cùng giới, tình huống tương tự có lẽ cũng xảy ra trong tự nhiên, và nếu như vậy, sự lựa chọn tự nhiên sẽ có thể biến đổi một giới tính trong mối quan hệ chức năng với giới tính khác, hay trong quan hệ với các thói quen cuộc sống hoàn toàn khác biệt trong hai giới tính, như đôi khi là trường hợp của loài côn trùng. Và điều này khiến tôi muốn nêu ra một vài ý kiến về cái mà tôi gọi là Sự lựa chọn giao phổi. Nó phụ thuộc, không phải vào một cuộc đấu tranh sinh tồn, mà vào cuộc đấu tranh giữa các con đực để giành con cái. Kết quả không phải là cái chết đối với kẻ cạnh tranh không thành công, mà là kẻ thua cuộc sẽ có ít hoặc không có con. Sự lựa chọn giao phối do vậy kém kỹ càng hơn sự lựa chọn tự nhiên. Nói chung, những con đực khỏe nhất, những con mà phù hợp nhất cho chỗ của chúng trong tự nhiên, sẽ để lại nhiều con cái nhất. Nhưng với nhiều trường hợp, chiến thắng không phải lúc nào cũng do sức mạnh mà còn nhờ vào cả vũ khí đặc biệt của con đực. Một con hươu đực không có sừng hay gà trống không có cựa có ít cơ hội sinh được con. Sự lựa chọn giao phối, thông qua việc luôn để con chiến thắng giao phối có thể chắc chắn mang đến sự dũng cảm kiên cường, cựa dài, và cánh khỏe. Một người nuôi gà chọi có thể biết rõ ràng anh ta có thể cải thiện giống của mình bằng cách lựa chọn những con gà trống tốt nhất. Tôi không biết quy luật này trong tự nhiên được áp dụng tới đâu. Cá sấu đực được miêu tả như là như những chiến binh người Anh-điêng chiến đấu, gầm lên, xoay tít trong điệu múa ra trận để chiếm được con cái; cá hồi đực đã chiến đấu cả ngày; con bọ vừng đực thường mang thưcmg tích do bị cắn bởi con bọ đực khác. Cuộc chiến có lẽ diễn ra khốc liệt nhất giữa các con đực của động vật giao cấu với nhiều con cái khác nhau, và dường như những con đực này hay được trang bị vũ khí đặc biệt nhất. Con đực của động vật ăn thịt lúc nào cũng được trang bị vũ khí tốt; mặc dù đối với chúng hay con khác, cách tự vệ đặc biệt có thể được mang lại nhờ vào phưomg cách lựa chọn sinh sản, giống như bờm của con sư tử, sừng của con lợn lòi, và hàm móc của con cá hồi; vì lá chắn có thể quan trọng mang lại chiến thắng như là giáo hay gươm trong chiến đấu.

Trong số các con chim, cuộc chiến thường diễn ra kém khốc liệt hơn. Tất cả những ai đã nghiên cứu chủ đề này đều tin rằng có sự thù địch mạnh nhất giữa các con đực của nhiều loài để thu hút sự chú ý chỉ của một con cái. Chim hét núi của Guiana, chim của Paradise, và một số con khác tập hợp lại; và lần lượt từng con trình diễn bộ lông tuyệt đẹp của nó và làm trò trước con cái đóng vai trò là khán giả, và cuối cùng chọn một con đực có sức quyến rũ nhất. Những ai đã từng nghiên cứu kỹ lưỡng những con chim trong lồng đều biết rõ là chúng thường lấy sở thích cá nhân và sự không ưa thích: do vậy ngài R. Heron đã miêu tả cách một con công trống đen có màu đen trắng vô cùng quyến rũ đối với tất cả các con chim mái của ông. Nếu ai đó nghĩ rằng bất kỳ ảnh hưởng nào gây ra bởi tác động yếu ớt thì người đó thật ngây thơ: ở đây tôi không thể đi chi tiết hơn nữa để làm rõ sự ngây thơ này; nhưng nếu có người có thể trong thời gian ngắn tạo cho gà bantam dáng đi uyển chuyển và vẻ đẹp hình dáng, theo như tiêu chuẩn vẻ đẹp của anh ta, thì tôi không có lý do để nghi ngờ những con chim cái, bằng sự lựa chọn, qua hàng nghìn thế hệ, những com chim đực đẹp nhất, theo như tiêu chuẩn vẻ đẹp của họ, có thể cho ra hiệu ứng đáng chú ý. Tôi thực sự nghi ngờ là một số quy luật nổi tiếng về bộ lông của con chim cái và chim đực, khi đem so sánh với bộ lông của chim con, có thể được giải thích nhờ quan điếm cho rằng bộ lông chim đã bị biến đổi chủ yếu bằng sự lựa chọn sinh sản, hoạt động khi mà các con chim tới tuổi giao phối hay trong suốt mùa giao phối. Những biến đổi mà nhờ đó xuất hiện được di truyền lại tại tuổi hay mùa tương ứng, hoặc là bởi chỉ con đực, hoặc bởi cả con đực và con cái. Nhưng đáng tiếc là tôi không thể đi vào chủ đề này ở đây.

Như vậy tôi tin khi con đực và con cái của bất kỳ loài động vật nào có thói quen sinh sống tương tự, nhưng khác nhau về cấu trúc, màu sắc, hay nét đẹp, thì những khác biệt kiểu đó chủ yếu là do sự lựa chọn sinh sản; đó là, những cá thể chim đực, trong các thế hệ liên tiếp, có lợi thế nhỏ so với các cá thể đực khác về vũ khí, phương cách phòng vệ, hay sức quyến rũ; và đã chuyển những lợi thế đó sang con con giống đực của chúng. Nhưng tôi không hề muốn hàm ý gán tất cả các đặc điểm đó gây ra bởi sự lựa chọn giới tính: bởi vì chúng ta nhận thấy nét riêng biệt nổi lên và gắn liền với con giống đực trong số động vật thuần dưỡng của chúng ta (như là khác biệt trong yếm của con chim bồ câu đưa thư, chỗ nhô lên giống như sừng trong một số con gà trống nhất định), mà theo nhiều người không có tác dụng đối với con đực trong trận chiến, hay trong sức quyến rũ đối với con cái. Chúng ta bắt gặp rất nhiều trường hợp tưcmg tự trong tự nhiên, ví dụ như chòm lông trên ngực của con gà trống Thổ Nhĩ Kỳ. Chòm lông này khó có thể được xem là có ích hay làm vật trang trí cho con gà; thật vậy, nếu chòm lông đó xuất hiện trong điều kiện thuần dưỡng, nó sẽ bị gọi là sự quái dị.

Những minh chứng của tác động gây ra bởi sự lựa chọn tự nhiên - Để làm sáng tỏ sự lựa chọn tự nhiên tác động như thế nào, tôi xin phép các bạn đưa ra một hoặc hai ví dụ tưởng tượng. Chúng ta hãy xem xét trường hợp loài chó sói, con vật chuyên săn bắt nhiều động vật khác. Nó bắt một số con mồi bàng mưu mẹo, một số bằng sức mạnh, một số bằng sự nhanh nhẹn; và chúng ta hãy giả sử rằng con mồi nhanh nhất, ví dụ như là con hươu chẳng hạn, nhờ một sự thay đổi nào đó tăng số lượng của chúng tại đất nước này, hoặc rằng các con mồi khác bị giảm số lượng, trong mùa của năm mà loài sói đi săn mồi hung hăng nhất. Tôi có thế hiểu là trong bối cảnh đó. chúng ta không thể nghi ngờ là những con sói nhanh và khéo léo nhất sẽ có cơ hội sống sót tốt nhất và do đó được bảo tồn và lựa chọn - nhưng luôn với điều kiện là chúng vẫn giữ được sức mạnh để bắt được con mồi tại thời điểm đó hay thời điểm khác trong năm, khi chúng buộc phải săn dộng vật khác. Tôi chẳng thấy có nhiều lý do để nghi ngờ điều này hơn là việc con người có thể nâng cao sự nhanh nhậy của giống chó săn thỏ của họ sự lựa chọn cẩn thận có phương pháp, hoặc bằng sự lựa chọn vô thức mà xuất phát từ quá trình mỗi người có giữ những con chó tốt nhất mà không hề nghĩ về biến đổi giống.

Mặc dù không có bất cứ sự thay đổi nào trong số lượng cân xứng của các động vật mà loài sói săn bắt, một sói con có thể được sinh ra với xu hướng bẩm sinh theo đuôi một số loại con mồi nhất định. Chúng ta không nên nghĩ giả thiết này là vô lý bởi vì chúng ta thường quan sát được những điểm khác biệt lớn trong xu hướng tự nhiên của các động vật thuần chủng của chúng ta. Chẳng hạn như một con mèo thích bắt chuột, một con mèo khác, theo lời kể của ông St John lại mang về nhà một con vật có cánh, con khác là thỏ nhà hoặc thỏ rừng, một vài con mèo khác lại săn mồi trên đất đàm lầy, và hầu như đêm nào cũng bắt được chim dế gà hay chim dể giun. Xu hướng thích bắt loài gặm nhẩm hơn là bẳt chuột được các nhà động vật học xem là do di truyền. Bây giờ, nếu bất kỳ sự thay đổi bẩm sinh trong thói quen hoặc cấu trúc mà có lợi cho một cá thể sói, thì con này sẽ có cơ hội tốt nhất để được tồn tại và đẻ con cháu. Một vài đứa con của nó có lẽ sẽ được hưởng thói quen hoặc cấu trúc đó, và thông qua sự lặp đi lặp lại quá trình này, một biến thể mới có thể sẽ được hình thành. Biến thể này hoặc là thay thế hoặc là cùng tồn tại với biến thể cha mẹ. Hay, một lần nữa, những con sói sống ở vùng đồi núi và những con sống ở đồng bằng, theo lẽ tự nhiên thường phải săn các kiểu con mồi khác nhau; và nhờ vào sự bảo tồn lâu dài liên tục các cá thể phù hợp nhất với hai loại địa hình, hai biến thể dần dần, chậm chạp sẽ xuất hiện. Những biến thể này có thể sẽ lai ghép và hòa lẫn vào nhau ở noi mà chúng gặp nhau. Chủ đề về lai ghép tôi sẽ sớm quay trở lại. Tôi xin nói thêm rằng, theo như ông Pierce, có hai biến thể sói sống ở dãy núi Catskill nước Mỹ, một biến thể giống dạng chó săn thỏ. Con này chỉ săn hưoru nai. Biến thể còn lại to hơn, chân ngắn hơn và thường tấn công đàn gia súc của người chăn thả.

Bây giờ chúng ta hãy lấy một trường hợp phức tạp hơn. Một số cây nhất định tiết ra chất nước có vị ngọt, rõ ràng để loại bỏ đi những thứ có hại trong nhựa cây của chúng: việc này được thực hiện bởi các tuyến tại cuống lá của cây Leguminosae, và mặt sau của lá nguyệt quế thông thường. Chất lỏng cây có vị ngọt này, mặc dù ít, được các con côn trùng săn đón. Giờ chúng ta tiếp tục giả thiết là chút chất nước cây có vị ngọt hay mật hoa này tiết ra từ phần bên trong cuống cánh hoa của một bông hoa. Trong trường hợp này thì các con côn trùng đi tìm mật hoa sẽ bị dính đầy phấn hoa, và chắc chắn sẽ chuyển phấn từ hoa này sang đầu nhụy của hoa khác. Hoa của hai cá thể khác biệt trong cùng một loài nhờ đó mà được lai giống: và chúng ta có lý do tin rằng ảnh hưởng của sự lai giống (như ngay sau đây sẽ được đề cập đầy đủ hơn) sẽ sinh ra các cây con khỏe mạnh, và kết quả là có cơ hội tồn tại phát triển mạnh mẽ. Một số cây con có lẽ sẽ được thừa hưởng khả năng tiết mật hoa. Những cá thể có tuyến to nhất hay mật hoa nhiều nhất thì hay được các con côn trùng bu tới thường xuyên nhất, và hay được lai giống nhất; và như thế trong dài hạn sẽ có lợi thế so với các hoa khác. Những cây hoa này, có nhụy hoa và nhị hoa được bố trí thích hợp, trong mối quan hệ với kích thước và thói quen của các con côn trùng cụ thể thường xuyên bay tới hút mật chúng, với việc phát tán phấn hoa của chúng từ cây này đến cây khác. Chúng sẽ có được lợi thế và như vậy được lựa chọn. Chúng ta có thể lấy ví dụ trường hợp các con côn trùng "viếng thăm" cây hoa để mang phấn thay vì mật hoa. Vì phấn hoa tạo ra chỉ để cho mục đích sinh sản, sự phá hủy nó có vẻ chỉ như là một sự mất mát đơn thuần; nếu một lượng nhỏ phấn hoa được mang đi, đầu tiên là thỉnh thoảng, sau trở thành thói quen, bởi các con côn trùng mang phấn hoa từ hoa này sang hoa khác, và nhờ đó sự lai giống được tiến hành. Mặc dù chín phần mười số lượng phấn hoa bị rơi rụng dọc đường, nhưng nó có thể vẫn là thành công lớn cho cây. Cá thể nào sản sinh ra ngày càng nhiều phấn hoa và có bao phần ngày càng lớn, sẽ được lựa chọn.

Khi các cây của chúng ta, nhờ vào quá trình bảo tồn liên tục hay sự lựa chọn của tự nhiên dài lâu những bông hoa càng ngày càng đẹp, được ban cho sức quyến rũ lớn đối với côn trùng, không chủ ý xét trên phương diện của chúng, thường xuyên mang phấn từ hoa này sang hoa khác; và côn trùng làm việc này vô cùng hiệu quả. Tôi có thể dễ dàng đưa ra nhiều ví dụ điển hình. Tôi chỉ đưa ra đây một ví dụ - không hẳn là điển hình, nhưng vẫn có thể minh họa quá trinh tách giống cái và giống đực của cây.

khác nhau; và nhờ vào sự bảo tồn lâu dài liên tục các cá thể phù hợp nhất với hai loại địa hình, hai biến thể dần dần, chậm chạp sẽ xuất hiện. Những biến thể này có thể sẽ lai ghép và hòa lẫn vào nhau ở noi mà chúng gặp nhau. Chủ đề về lai ghép tôi sẽ sớm quay ưở lại. Tôi xin nói thêm rằng, theo như ông Pierce, có hai biến thể sói sống ở dãy núi Catskill nước Mỹ, một biến thể giống dạng chó săn thỏ. Con này chỉ săn hươu nai. Biến thể còn lại to hơn, chân ngắn hơn và thường tấn công đàn gia súc của người chăn thả.

Bây giờ chúng ta hãy lấy một trường hợp phức tạp hơn. Một số cây nhất định tiết ra chất nước có vị ngọt, rõ ràng để loại bỏ đi những thứ có hại trong nhựa cây của chúng: việc này được thực hiện bởi các tuyến tại cuống lá của cây Leguminosae, và mặt sau của lá nguyệt quế thông thường. Chất lỏng cây có vị ngọt này, mặc dù ít, được các con côn trùng săn đón. Giờ chúng ta tiếp tục giả thiết là chút chất nước cây có vị ngọt hay mật hoa này tiết ra từ phần bên trong cuống cánh hoa của một bông hoa. Trong trường hợp này thì các con côn trùng đi tìm mật hoa sẽ bị dính đầy phấn hoa, và chắc chắn sẽ chuyển phấn từ hoa này sang đầu nhụy của hoa khác. Hoa của hai cá thể khác biệt trong cùng một loài nhờ đó mà được lai giống: và chúng ta có lý do tin rằng ảnh hưởng của sự lai giống (như ngay sau đây sẽ được đề cập đầy đủ hơn) sẽ sinh ra các cây con khỏe mạnh, và kết quả là có cơ hội tồn tại phát triển mạnh mẽ. Một số cây con có lẽ sẽ được thừa hưởng khả năng tiết mật hoa. Những cá thể có tuyến to nhất hay mật hoa nhiều nhất thì hay được các con côn trùng bu tới thường xuyên nhất, và hay được lai giống nhất; và như thế trong dài hạn sẽ có lợi thế so với các hoa khác. Những cây hoa này, có nhụy hoa và nhị hoa được bố trí thích hợp, trong mối quan hệ với kích thước và thói quen của các con côn trùng cụ thể thường xuyên bay tới hút mật chúng, với việc phát tán phấn hoa của chúng từ cây này đến cây khác. Chúng sẽ có được lợi thế và như vậy được lựa chọn. Chúng ta có thế lấy ví dụ trường hợp các con côn trùng "viếng thăm" cây hoa để mang phấn thay vì mật hoa. Vì phấn hoa tạo ra chỉ để cho mục đích sinh sản, sự phá hủy nó có vẻ chỉ như là một sự mất mát đơn thuần; nếu một lượng nhỏ phấn hoa được mang đi, đầu tiên là thỉnh thoảng, sau trở thành thói quen, bởi các con côn trùng mang phấn hoa từ hoa này sang hoa khác, và nhờ đó sự lai giống được tiến hành. Mặc dù chín phần mười số lượng phấn hoa bị rơi rụng dọc đường, nhưng nó có thể vẫn là thành công lớn cho cây. Cá thể nào sản sinh ra ngày càng nhiều phấn hoa và có bao phần ngày càng lớn, sẽ được lựa chọn.

Khi các cây của chúng ta, nhờ vào quá trình bảo tồn liên tục hay sự lựa chọn của tự nhiên dài lâu những bông hoa càng ngày càng đẹp, được ban cho sức quyến rũ lớn đối với côn trùng, không chủ ý xét trên phương diện của chúng, thường xuyên mang phấn từ hoa này sang hoa khác; và côn trùng làm việc này vô cùng hiệu quả. Tôi có thể dễ dàng đưa ra nhiều ví dụ điển hình. Tôi chỉ đưa ra đây một ví dụ - không hẳn là điển hình, nhưng vẫn có thể minh họa quá trình tách giống cái và giống đực của cây.

Một vài cây nhựa ruồi chỉ có hoa đực có bốn nhị hoa tạo ra số lượng nhỏ phấn hoa, và một nhụy hoa có cấu tạo đơn giản; các cây hoa nhựa ruồi khác lại chỉ cỏ hoa cái, một nhụy hoa phát triển đầy đủ, và bốn nhị hoa với các bao phấn bị teo nhỏ mà trong đỏ không hề có một hạt phấn hoa nào. Khi phát hiện một cây có hoa cái cách một cây có hoa đực đúng sáu mươi mét, tôi đặt đầu nhụy của hai mươi hoa được lẩy từ các cành riêng rẽ, dưới kính hiển vi, và trên tất cả chúng, không hề có ngoại lệ, đều có hạt phấn hoa. Khi gió có hướng thổi từ cây cái sang cây đực trong vài ngày, phấn hoa lúc này không thể nhờ gió mang đi tới cây cái. Thời tiết lanh, gió thổi manh và như vậy đây không phải là điều kiện thuận lợi cho các con ong, nhưng ngạc nhiên là mọi hoa cái mà tôi xem xét đã sinh sản được nhờ ong. Những con ong này vô ý đã bị bụi phấn dính vào, bay từ cây này sang cây khác để tìm mật hoa. Quay trở lại trường hợp tưởng tượng của chúng ta: ngay khi mà loài hoa có được sự lôi cuốn đối với con trùng mạnh tới mức mà phấn hoa thường xuyên được mang đi từ hoa này sang hoa khác, một quá trình khác có thể bắt đầu. Khồng một nhà tự nhiên học nào nghi ngờ một lợi thể, cải gọi là "phân công lao động tâm lý"; với lý do này, chúng ta có thể chắc rằng sẽ là lợi thế cho một cây hoa chỉ mọc ra các nhị hoa trong một bông hoa hoặc trên toàn bộ cây, và nhụy hoa trên bông hoặc cây khác. Đối với các cây trong điều kiện thuần hóa và được đặt trong hoàn cảnh sống mới, đôi khi bộ phận giống đực và bộ phận giống cái trở nên ít nhiều kém hiệu quả; bây giờ nếu chúng ta giả thiết tình trạng này xảy ra với mức độ cực bé trong tự nhiên, thì do phấn hoa thường xuyên được mang từ cây này sang cây khác, và do sự phân chia rành mạch hơn giống đực và giống cái của cây sẽ là một lợi thế xét trên nguyên lý phân công lao động, thì các cá thể với xu hướng này ngày càng được tăng lên sẽ được tạo điều kiện phát triển và lựa chọn cho đến khi cuối cùng một sự tách rời hoàn toàn giống đực và giống cái hoàn tất.

Bây giờ chúng hãy quay sang các con côn trùng hút mật hoa trong ví dụ tưởng tượng của chúng ta: chúng ta có thể cho rằng cây trong số các cây mà chúng ta tăng dần dần mật hoa thông qua sự lựa chọn liên tục; và rằng vài con côn trùng nhất định phần lớn dựa vào mật hoa làm thức ăn. Tôi có thể đưa ra nhiều thực tế thể hiện những con ong nóng lòng muốn tiết kiệm thời gian như thế nào; chẳng hạn như, thói quen của chúng đục những cái lỗ và hút mật từ cuống của một vài cây hoa cụ thể mà với rất ít công sức hơn, chúng có thể đưa mồm vào. Khi nghĩ về những hình ảnh đó, tôi không hề thấy có một sự sai khác ngẫu nhiên trong kích thước và hình thức của cơ thể, hay trong độ cong và chiều dài của vòi hút mật... quá nhỏ bé đến mức chúng ta không để ý đến, có thể có ích cho một con ong hay con côn trùng khác, giúp cho một cá thể với nhiều đặc tính riêng biệt có thể lấy được thức ăn dễ dàng hơn và nhanh hơn, và do đó có cơ hội tốt hơn để tồn tại và sinh con đẻ cái. Con cháu của nó có lẽ sẽ được thừa hưởng xu hướng tiến tới những sai khác nhỏ tương tự trong cấu trúc. Các ống của trằng hoa của cỏ ba lá đỏ phổ biến và hồng (Tri/oỉium pratense và incarnatum), nếu nhìn thoáng qua, không có vẻ khác mấy về chiều dài; song ong sống ở tổ có thể dễ dàng hút mật từ cỏ ba lá hồng nhưng không thể từ cỏ ba lá phổ biến, cây mà chỉ có loài ong nghệ hút mật. Vì thế cả cánh đồng bát ngát cỏ ba lá đỏ phổ biến lại chẳng cỏ chút thức ăn nào cho loài ong sống trong tổ. Nếu mà các con ong sống trong tổ có vòi dài hơn một chút hoặc cấu tạo khác đi, thì đấy sẽ là một lợi thế tuyệt vời dành cho chúng. Mặt khác, thông qua thí nghiệm, tôi tìm ra là khả năng sinh sản của cỏ ba lá phụ thuộc rất nhiều vào các con ong tới hút mật và phần di động của trằng hoa dùng để đẩy phấn hoa vào bề mặt đầu nhụy. Do đó, một lần nữa, nếu ong nghệ trờ nên khan hiếm trong bất cứ nước nào, thì cỏ ba lá sẽ giành được lợi thế lớn nếu chúng có ống ngắn hơn vàónong hơn tới trằng hoa để cho loài ong làm tổ và có thể hút mật từ chúng. Như vậy, tôi có thể hiểu một bông hoa và một con ong, hoặc là cùng lúc hoặc là lần lượt, dần dần được biến đổi và thích nghi hoàn hảo với nhau nhờ vào sự duy trì liên tục các cá thể chứa đựng những sai lệch nhỏ của cấu trúc mang tính tương hỗ và có ích lợi.

Tôi nhận thức rõ ràng học thuyết sự lựa chọn của tự nhiên, loại trừ ra ví dụ tường tượng trên, là mang tính mở đối với những phản đối tương tự mà đầu tiên đã chống lại quan điểm đúng đắn của ngài Charles Lyell về "những thay đổi đương đại của trái đất, với minh chứng địa chất". Nhưng hiện tại chủng ta rất ít khi nghe người ta nói về ảnh hưởng của, ví dụ như sóng bờ biển, bị coi là nguyên nhân líém quan trọng và không đáng kể, khi ứng dụng vào quá trình khai quật những thung lũng khổng lồ hay vào sự hình thành đường vách đá dài nhất nhô ra biển. Sự lựa chọn của tự nhiên chỉ có thể gây tác động thông qua sự bảo tồn và tích tụ của các biến đổi cực nhỏ không cảm nhận được di truyền lại, mỗi cái đều có tác dụng đối với thực thể sống được duy trì. Như là địa chất học đương đại hầu như xóa bỏ đi quan điểm như sự tạo thành thung lũng lớn chỉ bởi một cơn sóng lũ duy nhất. Như vậy, sự lựa chọn của tự nhiên sẽ, nếu là một quy luật đúng đắn, xóa bỏ đức tin vào sự sáng tạo liên tục các cơ thể sống, hay bất kỳ thay đổi lớn nào trong cấu trúc của chúng.

Chủ đề về giao phối giữa các cá thể - Ở đây, tôi phải giới thiệu một chủ đề không mấy liên quan đến những gì chúng ta đã nói ở trên. Trong trường hợp của động vật và thực vật với giống đực và giống cái riêng rễ, điều hiển nhiên là hai cá thể đực và cái phải giao phối với nhau mới sinh ra được một đứa con; nhưng trong trường hợp thực thể lưỡng tính, điều này lại không hề hiển nhiên gì. Tuy nhiên tôi vẫn nghiêng về nhận định: với tất cả thực thể lưỡng tính, hai cá thể, hoặc là thỉnh thoảng hoặc là thường xuyên, giao phối để sinh sản giống loài của chúng. Tôi xin nói thêm quan điểm này đã được ông Andrew Knight đầu tiên đưa ra. Ngay ở đây chúng ta sẽ thấy tầm quan trọng của nó; nhưng tôi buộc phải nói hết sức ngắn gọn chủ đề này cho dù tôi chuẩn bị khối lượng tài liệu đủ lớn để có thể thảo luận chi tiết. Tất cả động vật có xương sống, côn trùng và một số nhóm lớấn động vật khác, phải ghép đôi khi muốn sinh sàn. Các nghiên cứu hiện đại đã giảm số luợng loài bị cho là luỡng tính đi nhiều, và trong số loài luỡng tính thì phần đông vẫn ghép đôi; tức là hai cá thể thuờng xuyên kết hợp với nhau để sinh sản, vấn đề mà tất cả chúng ta đều quan tâm. Nhưng vẫn có nhiều động thực vật lưỡng tính chắc chắn không cặp đôi theo thói quen, và rất đông số lượng cây là lưỡng thể. Người nào đó có thể hỏi vì lý do gì để giả thiết trong những trường hợp đó là hai cá thể đã từng giao phối sinh sản? Vì không thể ở đây đi vào chi tiết cụ thể, tôi phải tin vào chỉ một vài suy xét chung.

Lúc đầu, tôi đã thu thập được khối lượng các thực tiễn cực lớn, chứng tỏ, đúng theo như quan điểm phổ biến của những người nhân giống, là với động vật và thực vật, sự giao phối giữa các biến thể khác nhau, hay giữa các cá thê cùng biến thể nhưng khác giống sinh ra đứa con khỏe manh có khả năng sinh sản tốt. Trong khi đó, lai ghép giống giữa các loài gần gũi sẽ làm giảm sức khỏe và khả năng sinh sản. Chỉ những thực tế này thôi đã khiến tôi tin rằng chính là quy luật chung của tự nhiên nói rằng (trớ trêu thay là chúng ta lại biết rất ít về quy luật): không một cơ thể sống nào tự thụ tinh nó qua vô số các thế hệ; mà đôi khi giao phối với cá thể khác - có lẽ là cách quãng rất lâu - là không thể thiếu.

Với niềm tin đấy chính là quy luật của tự nhiên, tôi nghĩ chúng ta có thể hiểu vài nhóm thực tế lớn, chẳng hạn như những thứ sau đây nếu xét theo quan điểm khác thì không thể giải thích được. Tất cả những người lai giống biết rằng sẽ tốt cho khả năng sinh sản của bông hoa khi đặt trong điều kiện ẩm ướt song vẫn có vô số hoa có bao phấn và đầu nhụy vưcm ra ngoài trời! Nhưng nếu một lần giao phối chéo là không thể thiếu, thì việc vưorn ra ngoài trời như thế giải thích khả năng bay vào tự do của phấn hoa, nhất là khi cả nhụy và nhị hoa gần nhau đến mức khả năng tự thụ phấn là dường như không tránh khỏi. Mặt khác, nhiều bông hoa có bộ phận sinh sản khép kín như là ở hoa thuộc họ hoa cánh bướm lớn hay gia đình họ đậu Hà Lan; nhưng trong một số, có lẽ là trong tất cả bông hoa kiểu đó, cỏ một sự thích nghi hết sức thú vị giữa cấu trúc và cách mà ong hút mật. Bởi vì để trong khi làm như thế, chúng hoặc là đẩy phấn của chính bông hoa đó vào đầu nhụy hoa, hoặc mang phấn tới hoa khác. Như thế, đối với họ hoa cánh bướm, sự viếng thăm cửa con ong là cần thiết tới mức thông qua những thí nghiệm đã được trình bày ở đâu đó, tôi tìm ra khả năng sinh sản của chúng bị giảm đi nhiều nếu các cuộc viếng thăm bị hạn chế. Bây giờ khó có thể ong bay từ hoa này sang hoa khác, và không mang phấn hoa từ hoa này sang hoa khác, tôi nghĩ là có lợi lớn cho cây. Loài ong hoạt động giống như túm lông hình chùm của lạc đà hai bướu, và nó khá đù để chạm vào bao phấn của một hoa, sau đó là đầu nhụy của hoa khác với cùng một vòi hút mật để đảm bảo sự sinh sản. Nhưng chúng không được suy luận rằng ong do đó sản xuất hàng triệu giống lai giữa các loài riêng rẽ; bởi vì nếu bạn mang cùng một túm phấn của bản thân một cây và phấn của cây khác, phấn của cây hoa đầu có ưu thế ảnh hưởng vượt trội. Đó là nó lúc nào cũng sẽ tiêu diệt, như đã được ông Gartner chứng minh, ảnh hưởng từ phấn hoa ngoại lai.

Khi nhị của một bông hoa đột nhiên vưom tới nhụy hoa hay chậm chạp di chuyển cái này phía sau và tiến về nó, công cụ này dường như chỉ thích nghi để đảm bảo chắc sự tự thụ phấn; và chắc chắn là nó có ích cho mục đích này; nhưng tác nhân côn trùng thông thường bị đòi hỏi đẩy nhụy hoa mọc về phía trước, như trường hợp hoa hoàng liên gai được ông Kolreuter đưa ra; vẻ như có công cụ đặc biệt cho sự tự thụ phấn, mọi người đều biết rằng nếu một biến thể hay dạng thực hết sức gần gũi được trồng gần nhau, rất khó để tạo ra cây con thuần chủng. Trong rất nhiều trường hợp khác mà không hề có sự trợ giúp tự thụ phấn, chúng lại có công cụ đặc biệt khác như tôi có thể chỉ ra từ tác phẩm của ông c. c. Sprengel và từ những quan sát của bản thân tôi. Chúng cản ưở hiệu quả đầu nhụy hoa tiếp nhận phấn hoa; chẳng hạn như, trong Lobelỉa j\'ulgens, thực sự có một dụng cụ đẹp đẽ tinh xảo mà nhờ nó các hạt phấn đều được quét sạch ra khỏi bao phấn của mỗi bông hoa, trước khi nhụy hoa của bông hoa đó sẵn sàng đón nhận chúng; và vì bông hoa này không bao giờ được côn trùng để ý tới, ít nhất là trong vườn cây của tôi, nó không bao giờ cho ra một hạt giống nào, mặc dù bằng cách đặt phấn của hoa này lên nhụy của hoa khác, tôi tạo ra được vô khối cây con. Trong khi một loài Lobelỉa khác mọc gần đó, những cây được các con ong tới hút mật, cho hạt giống đều đặn. Trong rất nhiều trường hợp, mặc dù không hề có dụng cụ dạng máy nào cản trở việc nhụy hoa nhận phấn hoa của chính cây đó, nhưng như ông c.c. Sprengel đã chỉ ra, và tôi có thể khẳng định điều này: hoặc là các bao phấn bung ra trước khi nhụy hoa sẵn sàng cho quá trình thụ phấn, hoặc là nhụy hoa sẵn sàng trước khi phấn của hoa đó sẵn sàng, khiến cho trên thực tế là cây hoa đó có giống cái và giống đực riêng biệt, và phải thường xuyên được giao phối. Những điều này thực là kỳ lạ! Cũng hết sức lý thú là phấn và đầu nhụy trên cùng cây hoa, cho dù ở rất gần nhau, như thế đúng cho mục đích tự thụ phấn, trong nhiều trường hợp, lại chẳng hề có tác dụng gì đối với nhau! Những thực tế này được giải thích hết sức dễ dàng nếu chúng ta dựa vào quan niệm về giao phối không thường xuyên với một cá thể riêng biệt là có lợi hoặc không thế thiếu.

Nếu các biến thể của cải bắp, củ cải, hành và một số cây khác được để cho sinh hạt giống gần nhau, đa số những cây con mọc lên, như tôi đã nhận thấy, sẽ trở thành cây lai. Ví dụ như: tôi trồng 233 cây cải bắp con từ một số cây của các biến thể riêng rẽ trồng gần nhau. Và trong số đó, chỉ có 78 cây là thuần chủng, thậm chí là trong số cây thuần chủng vẫn có cây không thuần chủng hoàn toàn. Nhụy hoa của mỗi cây cải bắp không chỉ được bao bọc bởi sáu nhị hoa của chính nó, mà còn bởi những nhị hoa của nhiều loại hoa khác mọc trên cùng một cây. Như thế thì làm thế nào mà một số lượng lớn các cây lai được sinh ra? Tôi nghi ngờ là chúng phải được tạo thành từ hạt phấn của một biến thế riêng biệt có ảnh hưởng vượt trội so với phấn của chính hoa đó. Đó chính là một phần của quy luật chung về cơ thể sống tốt được tạo thành từ sự giao phối giữa các cá thể riêng biệt trong cùng loài. Khi các loài khác nhau để cho giao phối, kết quả hoàn toàn ngược lại bởi vì phấn của một cây luôn luôn trội hơn so với phấn cây không cùng loài. Chúng ta sẽ quay lại chủ đề này trong một chương sau này.

Trong trường hợp một cây to, trên nó vô số hoa mọc ra, người ta có thể phản đối phấn có thể hiếm khi được mang đi từ cây này sang cây khác, mà thường xuyên nhất được mang từ hoa này sang hoa khác của cùng cây; và rằng hoa trên cùng cây có thế được coi là các cá thể khác biệt chỉ trong nghĩa hẹp. Có lẽ tự nhiên đã không ủng hộ nó khi các cây có xu hướng lớn chứa những hoa có giống đực và cái riêng rẽ. Khi giống đực và giống cái bị tách riêng, mặc dù cả hoa đực và hoa cái mọc trên cùng cây, chúng ta có thể thấy phấn thường xuyên được mang từ hoa này sang hoa khác; và điều này sẽ tạo cơ hội tốt hơn để phấn hoa đôi khi được mang từ cây này sang cây khác. Những cây thuộc vào cùng một bộ có giống đực và giống cái tách riêng hơn là các cây khác. Tôi đã nhờ tiến sỹ Hooker phân loại thành bảng các cây của Niu Di lân, và tiến sỹ Asa Gray phân loại các cây của Mỹ. Kết quả đúng như đã dự tính từ trước. Tiến sỹ Hooker gần đây đã nói ông nhận thấy quy luật đó không đúng đối với nước úc; và tôi đã đưa ra vài nhận xét về giống đực và giống cái của các cây một cách đơn giản đe thu hút sự chú ý của mọi người tới chủ đề này.

Hãy quay trở lại chủ đề động vật một chút: trên mặt đất có một số động vật lưỡng tính, như động vật nhuyễn thể đất và sâu đất; nhưng những con này đều ghép đôi. Tôi vẫn chưa tìm ra được một trường hợp nào động vật sống trên cạn mà tự thụ tinh. Chúng ta có thể hiểu được thực tế đáng chú ý này, mà hoàn toàn trái ngược với trường hợp của các cây trên cạn, dựa vào quan niệm việc phối giống không thường xuyên là không thể thiếu, bằng cách coi phương thức động vật trên cạn sống, và bản chất của nguyên tố sinh đẻ; vì chúng ta không biết cách nào, tương tự như ảnh hưởng của côn trùng và gió trong trường hợp các cây, nhờ nó mà một sự phối giống bất ngờ diễn ra giữa các con vật trên cạn không có sự đồng thuận của hai cá thể. Đối với động vật sống dưới nước, có nhiều động vật lưỡng tính tự thụ tinh; nhưng ở đây chính các dòng hải lưu là công cụ, dễ dàng nhận thấy, tạo ra sự giao phối ngẫu nhiên. Như trong trường hợp các bông hoa, tôi đã không thể, sau khi tham khảo ý kiến của giáo sư Huxley, một chuyên gia đầu ngành, khám phá ra bất kỳ một trường hợp nào về một động vật lưỡng tính có cơ quan sinh sản hoàn toàn bị bao bọc trong cơ thể, không thể tiếp cận được; và sự phối giống của một cá thể khác biệt được chứng minh là hoàn toàn không thể. Loài chân tơ từ lâu đối với tôi là một trường hợp cực kỳ khó hiểu theo như quan điểm này; tôi đã có thể, nhờ một sự may mắn tình cờ, chứng tỏ ở đâu đó hai cá thể, mặc dù cả hai đều là cơ thể sổng lưỡng tính tự thụ tinh hoặc tự thụ phấn, đôi khi thực sự giao phối với nhau.

Một điều bất thường mà chắc hẳn gây ngạc nhiên lớn cho nhiều nhà tự nhiên học là, đối với cả động vật và thực vật, các loài cùng gia đình và thậm chí cùng lớp, mặc dù rất giống nhau trong hầu hết các cơ quan bộ phận của chúng, nhưng lại thường xuyên, một số trong chúng là thực thể lưỡng tính và một số là đơn tính. Nhưng trên thực tế nếu tất cả cơ thể lưỡng tính thỉnh thoảng giao phối với các cá thể khác, điểm khác biệt giữa loài đơn tính và thực thể lưỡng tính, khi xét tới mặt liên quan đến chức năng bộ phận, trở nên nhỏ bé.

Dựa trên những suy xét này và nhiều ví dụ đặc biệt đã thu thập được, nhưng ở đây tôi không có điều kiện viết ra, tôi rất nghi ngờ trong cả thế giới động vật và thực vật, một sự giao phối ngẫu nhiên với một cá thể riêng rẽ là một quy luật của tự nhiên. Tôi nhận thức rõ ràng, trên quan điểm này, có nhiều trường hợp khó khăn mà tôi đang cố nghiên cứu một vài trường hợp như thế. Cuối cùng, chúng ta có thể kết luận rằng trong nhiều cơ thể sống, sự giao phối giữa hai cá thể là vô cùng cần thiết để sinh con; trong nhiều cơ thể khác, nó xuất hiện có lẽ chỉ sau những khoảng thời gian dài và tôi nghi là không có cơ thể nào có thể mãi mãi tự thụ phấn hoặc tự thụ tinh.

Các điều kiện thuận lợi cho sự lựa chọn của tự nhiên - Đây là một chủ đề vô cùng thú vị. Một khối lượng lớn tính biến đổi đa dạng và có thể di truyền là thuận lợi nhưng chỉ cần những khác biệt cá thể là đủ cho công việc. Một số lượng lớn các cá thể, bằng cách tạo cơ hội tốt hơn cho sự xuất hiện trong vòng thời gian cho trước bất kỳ của các biến đổi, sẽ bù trừ cho tính biến đổi ít hơn của mỗi cá thể và là, một yếu tô cực kỳ quan trọng cho sự thành công. Mặc dù tự nhiên dành khoảng thời gian lớn cho cho quá trình lựa chọn tự nhiên, nhưng đây không phải là khoảng thòi gian vô tận; bởi vì khi tất cả các cơ thể sống đang cố gắng, như người ta có thể nói thế, chiếm lấy vị trí nhất định trong thế giới tự nhiên, nếu bất cứ một loài nào không có thay đổi hay sự cải thiện tương ứng với các đối thủ của nó, loài đó sẽ sớm bị xóa sổ.

Trong sự lựa chọn có tính toán của con người, một người nhân giống chọn đôi với vật thể xác định, và giao phối tự do sẽ hoàn toàn triệt tiêu nỗ lực phối giống của anh ta. Nhưng nhiều người, không có ý định thay đổi con hoặc cây giống, có một tiêu chuẩn gần như chung của sự hoàn hảo, và tất cả đều cố để nhân giống từ con vật tốt nhất của mình. Chắc chắn là nhiều sự thay đổi và cải thiện sẽ xuất hiện, cho dù chậm chạp trong quá suốt trình của sự lựa chọn vô thức này, bất kể khối lượng lớn các lần giao phối với con vật không đạt tiêu chuẩn. Như thế là trong tự nhiên; bởi vì trong một khu vực khép kín, với nơi nào đó trong tổ chức xã hội không thực sự hoàn toàn bị chiếm giữ của nó như có thể, sự lựa chọn tự nhiên luôn luôn có xu hướng bảo tồn tất cả các cá thể biến đổi theo chiều hướng tích cực, mặc dù ở mức độ khác nhau, để lấp đầy tốt hơn những nơi chưa bị chiếm giữ. Nhưng nếu khu vực đó rộng lớn, một số khu vực nhỏ hơn bên trong của nó chắc chắn sẽ có điều kiện sống khác nhau; và khi đấy nếu sự lựa chọn tự nhiên thay đổi và cải thiện một loài trong vài khu vực nhỏ đó, sẽ có sự giao phối với các cá thể khác của cùng loài trong khu kín của mỗi loài. Và trong trường hợp này, ảnh hưởng của sự giao phối khó có thể bị trung hòa bởi sự lựa chọn tự nhiên luôn luôn có xu hướng sửa đổi tất cả các cá thể trong mỗi khu vực nhỏ theo cách giống hệt nhau tùy vào điều kiện sống của mỗi khu. Trong một khu liên tục, điều kiện sống sẽ dần dần chuyển đổi âm thầm không thể nhận biết được từ khu vực này sang khu vực khác. Sự giao phối có ảnh hưởng lớn nhất đối với các con vật kết hợp lại với nhau để sinh con cái, những con đi hoang nhiều, và những con mà không đẻ nhanh, đẻ nhiều. Với lý do này, đối với các con vật có đặc tính này, ví dụ trường hợp loài chim, các biến thể nói chung bị tách biệt, ở mỗi nước khác nhau và tôi tin tưởng đây là đúng. Trong các sinh vật lưỡng tính chỉ giao phối đôi lần, và tưcmg tự như thế, trường hợp các con vật g