B. Sự Hình Thành Chữ Quốc Ngữ I.- Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ Quốc Ngữ
Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ.
Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột: chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở La Mã (Rome).
Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ.
Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến:
1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự La Tinh có tên là: Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari, Nengi, 1592.
2) Cuốn tự điển La - Bồ - Nhật: Dictionarium latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa Jesus, Anno 1595)
Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604.
Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm 2 giai đoạn:
* Giai đoạn phiên âm.
* Giai đoạn cấu tạo câu.
1.- Giai đoạn phiên âm.
Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
" Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian ".
Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri ( 2 ), là câu mà các giáo sĩ đàng trong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩa là: Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?
Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng đó là danh từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha, và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương. Như vậy câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏi một người Việt rằng: " Muốn vào đạo Thiên chúa chăng? " Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau: " Muon bau dau Christiam chiam? " ( Muốn vào đạo Christiang chăng?).
Đây là câu trích trong quyển sách của Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý ( 3 ). Tuy vậy, chúng ta có thể coi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùng trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Đàng Trong.
Phiên âm: Nghĩa
Anam: An Nam
Tunchim: Đông Kinh
Ainam: Hải Nam
Kemoi: Kẻ mọi
Cacciam: Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua: Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya: Quảng Nghĩa
Quignin: Qui Nhơn
Dàdèn, lùt: Đã đến lúc
Dàdèn lùt: Đã đến lúc
Scin mocaij: Xin một cái
Chià: Trà
Cò: Có
.......
Onsaij: Ông sãi
Quanghia: Quảng Nghĩa
Nuoecman: Nước mặn
Da, an, nua: Đã ăn nữa,
Da, an, het: Đã ăn hết
Omgne: Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay: Ông Sãi đi lại
Bàncò: Bàn Cổ
Maa: Ma
Maqui, Macò: Ma quỉ, ma quái
Bũa: Vua
Chiuna: Chúa
Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng chữ Bồ Đào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm vài danh từ như sau:
An nam: An Nam
Sinoa: Xứ Hóa
Usai: Ông Sãi
Ungne: Ông nghè
On trũ: Ông trùm
Ca cham: Ca chàm ( kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman: Nước Mặn
Bafu: Bà phủ
Sai Tubin: Sãi Từ Bình (? )
Banco: Bàn Cổ
Oundelinh: Ông Đề Lĩnh
Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một bảng tường trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài phiên âm:
Cacham: Kẻ chàm
Nuocman: Nước Mặn
Ongne, Ungué: Ông nghè
Bancô: Bàn Cổ
Đến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Đắc Lộ có viết một lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm:
Ainão: Hải Nam
Tunquim, Tunquin: Đông Kinh
Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:
Fayfó: Hải phố (Fayfo: Hội An)
Cacham: Kẻ chàm
Nuocman: Nước Mặn
Pullocambi:?
Dinh cham: Dinh chàm
Quanghia: Quảng Nghĩa
Quinhin: Qui nhơn
Ranran: Ran ran ( tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ: Bến đá
Bôdê: Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedoc: Ông Đề đốc
Unghe chieu: Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit: Nhứt là không, không là nhứt
Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha, đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Đắc Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng tường trình nầy, có các phiên âm:
Digcham: Dinh Chàm
Nuocman: Nước Mặn
Quinhin: Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ: Xứ Hóa
Orancaya:?
Quan: Quảng (Quảng Nam)
Xabin: Xá Bình?
Bếndá: Bến đá
Bude: Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedóc: Ông đề đốc
Onghe Chieu: Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít: Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham: Dinh Chàm
Sinóa: Xứ Hóa
Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết một lá thư chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư nầy gồm có:
Xán tí: Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu: Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí: Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan: Ngọc hoàng
Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Đắc Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở La Mã, trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa: Thanh Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d'Amiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ:
Sinoa: Xứ Hóa (thuận Hóa)
Anná: An nam
Sai: Sãi
Mía: Mía ( nhà tạm trú)
Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm:
Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)
Danh từ Ông Nghè:
Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)