← Quay lại trang sách

HAI DÒNG NHẬN THỨC

Vài năm trước, trong một chuyến công tác ở Lagos, Nigeria, tôi đã tìm đến một căn nhà ổ chuột vào đêm khuya. Nếu như có những cuốn sách về những khu ổ chuột ở châu Phi, thì chắc chắn, người ta sẽ khuyên bạn không nên làm điều này. Hiển nhiên, tôi là một người nước ngoài, và những người trong khu ổ chuột ở nơi đây cho rằng những người nước ngoài rất giàu có, mang theo rất nhiều tiền mặt. Ở một thành phố nghèo, lộn xộn và khắc nghiệt như Lagos, những người mang theo nhiều tiền sẽ có nhiều khả năng rủi ro bị cướp, bị giết, hay gặp phải cả hai.

Và đúng như vậy, cái ví của tôi đã bị ăn cắp theo cái cách “lịch sự” nhất có thể - bị móc túi ở một căng tin dọc đường. Tôi đã không thể tìm được chiếc ví, nhưng một người dân địa phương đã nói với tôi rằng có lẽ anh ta biết ai đã ăn cắp chiếc ví của tôi. Anh còn nói rằng anh biết có thể tìm kẻ móc túi ở đâu.

Chúng tôi đã cùng nhau đi vào một mê cung những con hẻm bẩn thỉu, qua những căn lều lụp xụp, nơi chỉ có thứ ánh sáng tù mù hắt ra từ những đống lửa trong lều, hay từ những chiếc đèn dầu. Các nhóm thanh niên ngồi túm tụm uống rượu dưới ánh trăng và dán mắt vào người nước ngoài mà họ nhìn thấy. Anh bạn mới quý hóa của tôi hỏi quanh. Thật không may, không phải ở đây, nhưng lại có người dẫn tôi tới một nơi khác, là nơi ẩn nấp của gã kẻ cắp. Và, lại đi cùng một người lạ khác, tôi tiếp tục dấn sâu hơn vào bóng tối ẩm ướt. Tôi đã hoàn toàn mất khả năng nhận thức rằng mình đang ở đâu, và tôi có một linh cảm rằng chuyện đang xảy ra có thể dẫn tới một kết cục tồi tệ.

Tuy vậy, mặc dù đã cảm thấy da mình nhớp nháp vì mồ hôi và sợ hãi, tôi vẫn tiếp tục đi. Không phải vì khoản tiền trong ví. Tờ báo của tôi sẽ đền bù cho khoản thiệt hại này. Nhưng trong ví có bức ảnh của 2 đứa bé nhà tôi, là điều tôi không thể gạt ra khỏi suy nghĩ. Đó là một bức ảnh Giáng sinh được chụp tại một studio với cái nền là những khung cửa sổ bằng kính mờ và xe trượt của Ông già Tuyết đang bay qua trời đêm. Cả hai đứa bé ở tuổi chập chững biết đi, đang cười toe toét vì cô thợ ảnh làm trò bằng cách để con vịt cao su lên đầu mình.

Tôi có cả một tá ảnh như vậy ở nhà. Tôi biết điều đó. Và tôi cũng biết rằng đây chỉ là một bức ảnh. Nhưng tôi không thể dừng lại. Tôi nhìn thấy những nụ cười toe toét của con tôi. Tôi tưởng tượng ra cái ví rỗng không và bị ném xuống một cái rãnh đầy rác rưởi bẩn thỉu. Tôi nhìn thấy bức ảnh nằm lẫn trong ấy. Tôi không thể chịu được cảm giác ấy. Lạc đường, khốn khổ, và đơn độc, tôi tiếp tục tìm kiếm trong 3 giờ nữa. Sau cùng, có người đã bảo rằng, tôi thật ngớ ngẩn, và rằng tôi có thể bị cắt cổ, anh ta đề nghị được dẫn tôi trở về khách sạn (với một khoản phí nào đó). Và tôi đã buộc mình phải chấp nhận.

Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy, bàng hoàng lắc đầu liền mấy cái. Tôi vẫn bị ám ảnh bởi cảm giác rằng tôi đã mất bức ảnh, mặc dù đó không phải là một cảm giác rõ rệt. Nhưng những gì tôi đã làm hiển nhiên, thực sự, và hoàn toàn là ngu ngốc. Tại sao tôi lại làm điều đó? Tôi không hề có một manh mối gì. Đó thật là một ngày dài và kiệt sức. Muộn rồi, tôi cũng đã rất mệt, và tôi đã uống hai cốc bia. Nhưng chắc chắn rằng chừng đó không đủ để khiến cho tâm trạng tôi trở nên tồi tệ như vậy. Phải có một cái gì đó nữa, vấn đề là tôi không thể hiểu đó là cái gì.

Thực sự là đã có một điều gì đó chen vào, và sau này, tôi đã khám phá ra nó. Đó chính là con người thời tiền sử ở trong tôi, mối dây liên hệ cổ xưa từ sâu trong vô thức của tôi, chính con người ấy đã đưa ra cho tôi những lời khuyên thật tồi tệ.

Con người ta đang sống trong những quốc gia hiện đại và thịnh vượng dường như có xu hướng nghĩ về chính mình như một loài sinh vật ưu việt. Chúng ta có thể đọc và viết. Chúng ta biết rằng trái đất quay xung quanh mặt trời và quỹ đạo của các hành tinh không phải là hình tròn. Chúng ta sạch sẽ, cạo râu ria nhẵn nhụi và xức nước hoa. Chúng ta cao hơn, khỏe hơn, và sống lâu hơn tổ tiên của chúng ta. Khi chúng ta cười, có thể tổ tiên của chúng ta sẽ bị sốc vì hàm răng của chúng ta chắc khỏe và sáng bóng nhờ kem đánh răng. Tuy nhiên điều đóng vai trò quan trọng nhất để làm cho chúng ta trở thành những người như ngày hôm nay lại không hề “hiện đại” nhưng những chiếc răng thẳng và trắng bóng.

Khoảng 5 - 7 triệu năm trước, tổ tiên của các giống vượn và loài người đã tạo thành nhóm động vật linh trưởng. Vào khoảng 2 - 2,5 triệu năm trước, bộ não của tổ tiên chúng ta đã phình to về kích cỡ, từ 400cm3 lên tới 650cm3. Kích thước này cũng chỉ bằng một phần trong kích thước 1.400cm3 của bộ não người hiện đại, nhưng cũng là đủ để đánh dấu sự bắt đầu thực sự của nhân loại.

Khoảng 500.000 năm trước, bộ não người lại có một bước nhảy vọt về kích cỡ, lên 1.200cm3. Bước phát triển cuối cùng đến vào khoảng năm 150.000 tới 200.000 năm trước, khi loài người Homo sapiens đặt những bước chân đầu tiên trên những vùng đồng bằng châu Phi. Những phân tích ADN đã chỉ ra rằng mỗi chúng ta đang sống ngày nay đều có chung một tổ tiên 100.000 năm trước.

Có hai lực lượng định hướng sự tiến hóa: quá trình chọn lọc tự nhiên và sự đột biến. Chọn lọc tự nhiên khuyến khích phát triển những đặc điểm giúp cho cá thể sinh vật có thể sống sót và duy trì nòi giống trong khi loại bỏ những đặc điểm cản trở sự tồn tại hay sinh sản. Một người đàn ông trong thời Đồ Đá cũ có mắt rất tinh và một cánh tay khỏe sẽ có lợi thế hơn so với những người không có những đặc điểm này. Anh ta sẽ có nhiều khả năng sống sót, ăn tốt hơn, tìm được bạn đời, và con trai của anh ta sẽ còn có đôi mắt tinh hơn, và cánh tay khỏe hơn cả người cha. Những người đàn ông mắt kém, hay có cánh tay gầy nhom sẽ có rất nhiều khả năng kết thúc cuộc đời của mình trong dạ dày một con sư tử nào đó. Trải qua thời gian, mắt người càng ngày càng tinh hơn, và cánh tay cũng khỏe mạnh hơn.

Tuy nhiên, đột biến gen mới là nguồn gốc của những thay đổi thực sự quan trọng. Trong hầu hết trường hợp, những chọn lọc tự nhiên không có hiệu quả rõ rệt, hoặc hệ quả có thể không phải là một lợi thế, mà cũng chẳng phải là một nhược điểm. Điều này dường như sẽ không thay đổi những đặc tính của một con người đang sống sót và thực hiện việc duy trì nòi giống. Do đó, chọn lọc tự nhiên không thể khiến những chủng người lan rộng hay chấm dứt sự tồn tại của mình. Đôi khi, một sự đột biến gây ra bệnh dịch chết người, có thể khiến một người đã trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên giảm khả năng sinh sản. Một sự đột biến như vậy gần như chắc chắn sẽ triệt tiêu cả một hoặc thậm chí là hai thế hệ nòi giống. Nhưng, cũng có một số rất hiếm các trường hợp trong đó đột biến gen tạo ra một đặc điểm mới có thể khiến cho người may mắn sở hữu nó có được ưu thế trong cuộc chiến giành quyền sinh tồn và nuôi dưỡng con cái. Trong thời gian ngắn, chọn lọc tự nhiên sẽ gặp trường hợp may mắn này, và nhân nó lên với rất nhiều người khác, thậm chí là cho cả toàn bộ giống loài.

Nhưng ranh giới giữa đột biến tiến bộ và đột biến tiêu cực không phải lúc nào cũng rõ ràng. Một số đột biến gây hại nghiêm trọng tới những người mắc phải nhưng chúng vẫn phát triển bởi chúng còn tạo ra lợi ích lấn át đi cái có hại. Một ví dụ tiêu biểu có thể được tìm thấy ở Tây Phi, nơi khoảng 10% dân số mang một loại gen đột biến liên quan đến hồng huyết cầu hình lưỡi liềm, gây ra bệnh thiếu máu, một căn bệnh mà nếu như không có phát minh của y học hiện đại thì nạn nhân có lẽ sẽ tử vong trước khi bước vào tuổi thanh niên. Theo lẽ thường, chọn lọc tự nhiên sẽ nhanh chóng loại bỏ những trường hợp mang đột biến này. Nhưng thực tế đã không phải như vậy bởi đột biến này không phải lúc nào cũng gây ra cái chết. Chỉ trong trường hợp đứa trẻ xấu số nhận được gen đột biến từ cả bố và mẹ thì mới bị nhiễm bệnh thiếu máu. Nếu đứa bé chỉ phải nhận từ một trong hai người, bố hoặc mẹ, thì gen đột biến này lại giúp tăng cường sức đề kháng của đứa trẻ chống lại bệnh sốt rét, căn bệnh hoành hành khắp Tây Phi có thể giết chết đứa bé trước khi lên 5 tuổi. Do đó, chúng ta có thể nói, đột biến gen giết chết con người trong một số trường hợp, nhưng lại cứu lấy chúng ta trong những trường hợp khác. Kết quả là, chọn lọc tự nhiên đã phổ biến đột biến này trong người dân Tây Phi, nhưng chỉ lên tới một mức độ nhất định nào đó. Bởi, nếu trên tỉ lệ đó sẽ có thêm nhiều trẻ em nhận đột biến từ cả cha lẫn mẹ, khi ấy, đột biến sẽ lấy đi nhiều sinh mạng hơn so với số mạng sống được chính nó giữ lại.

Cảm ơn chọn lọc tự nhiên. Và chúng ta cũng không còn gặp rắc rối khi nói chuyện theo cách này về não bộ và hành vi của các loài khác. Vì sao con tinh tinh mẹ lại nuôi nấng và bảo vệ các con của mình? Lý do thật đơn giản, vì chọn lọc tự nhiên ủng hộ hành vi này, và, theo thời gian, nó trở nên ăn sâu vào bộ não loài tinh tinh.

Nhưng bây giờ thì chúng ta nên chuyển sang nói về bộ não và các hành vi của con người, tại sao người ta lại cảm thấy không thoải mái. Nhiều ý kiến cho rằng chủ yếu điều đó là do vô thức của con người, và bắt nguồn từ những điều liên quan tới sự tiến hóa giống như bị chi phối bởi các mạch điện điện tử. Nhiều người khác lại không chấp nhận quan điểm đó. Nhà báo David Brooks của tờ New York Times đã viết: “Tôi không đồng ý rằng bộ não của chúng ta giống như những cái máy vi tính… Liệu có phải “sân sau” của bộ não (những suy nghĩ vô thức) dường như mang chất “người” nhiều hơn? Một số tính chất độc nhất và không hề mang tính công nghệ không thể được khái quát hóa một cách thích hợp bởi các nhà khoa học mặc những cái áo choàng trắng và cầm những tập hồ sơ.” Những điều Brooks nói ở đây là những gì mà rất nhiều người trong chúng ta lờ mờ cảm nhận được, rằng bộ não là một cơ quan vật chất to lớn, phức tạp nằm tại trung tâm của thứ gì đó đôi khi không thể định nghĩa được, hay một thực thể đưa ra các quyết định và mệnh lệnh mà các nhà khoa học trong những chiếc áo khoác trắng sẽ chẳng bao giờ giải mã được.

Về điều này, chúng ta có thể cảm ơn René Descartes. Cả những người chưa từng nghe nói về nhà triết học người Pháp cũng đều bị ảnh hưởng bởi quan niệm của ông rằng thể xác và trí óc là hai phần riêng rẽ. Ở đây, trí óc không chỉ đơn thuần là chất xám trong bộ não chúng ta. Nó còn bao hàm những thứ, những điều mà chúng ta mơ hồ cảm nhận và quy về yếu tố tinh thần, linh hồn, hay “bản chất phi công nghệ” như trong thuật ngữ kì lạ của Brooks. Năm 1949, ba thế kỉ sau thời đại của Descartes, nhà triết học Gilbert Ryle đã gọi ý tưởng này bằng một cụm từ có ý coi thường, chỉ là “bóng ma trong một cỗ máy”. Trong gần sáu thập kỉ sau đó, giới khoa học đã đạt được những tiến bộ to lớn trong nhận thức về cơ chế suy nghĩ của con người, và tất cả những gì chúng ta đã khám phá ra đều ủng hộ quan điểm của Ryle. Chẳng hề có ma quỷ, không hề có tinh thần, cũng chẳng có “bản chất phi công nghệ”. Đơn giản, đó chỉ là do bộ não con người. Và bộ não thì thuần túy là vật chất. Nó là quá trình chọn lọc tự nhiên, và bị chi phối bởi chọn lọc tự nhiên, chính nó đã mang tới cho chúng ta những luồng tư duy đối lập và bệnh thiếu máu do hồng huyết cầu hình lưỡi liềm. Còn chính sự tiến hóa đã làm cho chúng ta trở thành chúng ta bây giờ.

Điều này không có nghĩa là hạ thấp giá trị hay coi thường bộ não, thậm chí là ngược lại. Bộ não con người rất vĩ đại. Chúng ta phải biết ơn những bộ não vì tất cả những gì loài người chúng ta đã đạt được ngày hôm nay - từ việc đấu tranh để sống sót hay phát triển nòi giống, tới việc đưa con người đặt chân lên mặt trăng và giải mã những bí mật của vũ trụ, hay những bí ẩn của chính bản thân bộ não chúng ta. Bởi, sự thật là, nhân loại chúng ta thật yếu ớt và non nớt trước trường học tự nhiên. Thị giác, khứu giác và thính giác của chúng ta chưa bao giờ tốt hơn những giác quan của các con vật mà chúng ta muốn săn bắn làm thức ăn. Chân, tay và răng của chúng ta luôn luôn yếu đuối khi so sánh với bắp cơ hay răng nanh, móng vuốt của những con thú vẫn thường tranh giành thức ăn với chúng ta, và đôi khi còn nhìn chúng ta như bữa ăn trưa của chúng vậy.

Bộ não chính là ưu thế duy nhất của chúng ta. Chỉ duy nhất bộ não mới có thể giữ chúng ta khỏi bị trở thành những Edsel(1) của tự nhiên. Chúng ta đã đi từ sự u tối tới sự thông minh, chủ yếu dựa vào sự phát triển của bộ não. Bộ não đã phát triển thêm nhiều khả năng mới, và càng ngày càng trở nên to hơn. Kể từ thời kì của những tổ tiên sớm nhất của chúng ta cho tới khi con người hiện đại đầu tiên xuất hiện, bộ não đã phát triển lớn gấp bốn lần.

Sự thay đổi cơ bản này đã xảy ra kể cả khi việc có một bộ não lớn đã gây ra những vấn đề không hề đơn giản. Để chứa được bộ não lớn đòi hỏi hộp sọ cũng phải phát triển, tới mức khi hộp sọ đứa bé chui qua xương chậu người mẹ, chúng sẽ đặt sản phụ và thai nhi vào một tình cảnh nguy hiểm tới tính mạng. Hộp sọ lớn còn làm đầu chúng ta quá nặng, tới mức loài người chúng ta sẽ có nhiều nguy cơ rủi ro bị gãy cổ hơn so với tinh tinh hay các loại linh trưởng khác. Bộ não cũng ngốn tới 1/5 toàn bộ năng lượng cung cấp cho cơ thể. Nhưng, những nhược điểm, hạn chế nghiêm trọng đó hoàn toàn không thể sánh với những ưu thế con người có được khi sở hữu một hệ thống xử lý siêu việt như vậy. Và một bộ não có kích thước lớn đã được lựa chọn khiến người chúng ta đã có thể sống tới ngày hôm nay.

Toàn bộ quá trình biến đổi của bộ não người để có được kích thước như hiện nay đã xảy ra trong suốt thời Đồ Đá cũ - thời kì kéo dài trong khoảng hai triệu năm trước, cho tới khi nền nông nghiệp ra đời cách đây 12.000 năm. Không phải sự xuất hiện của nông nghiệp đã thay đổi nhanh chóng đời sống của chúng ta. Phải mất hàng nghìn năm để phổ biến lối sống nông nghiệp, và phải tới 4.600 năm trước, thành phố đầu tiên (không khác mấy so với một thị trấn theo tiêu chuẩn bây giờ) mới ra đời.

Nếu lịch sử loài người được viết dựa theo sự cân đối về mặt thời gian trong mỗi thời kì chúng ta tồn tại và phát triển, thì 200 trang sẽ được dành để nói về cuộc sống của những nhóm du cư săn bắt. Một trang sẽ để miêu tả xã hội trồng trọt. Thế giới chúng ta trong hai thế kỉ gần đây nhất - thế giới hiện đại này - sẽ chỉ giành được một đoạn ngắn ở phía cuối.

Bộ não của chúng ta không đơn giản chỉ được hình thành trong cuộc sống mà ta đang biết hiện tại, hay thời kì trồng trọt trước đó. Nó hoàn toàn là sự sáng tạo của thời Đồ Đá cũ. Và kể từ khi bộ não của chúng ta thực sự khiến cho chúng ta được như ngày hôm nay, chúng ta không thể không rút ra những kết luận từ điều này, và những kết luận ấy cũng sẽ không nhất quán ổn định. Chúng ta sẽ là những người ăn lông ở lỗ, hay người thượng cổ, nếu như bạn muốn kết luận như vậy. Dù thuật ngữ có là gì, chúng ta, những người hiện đại ngụy biện rằng mình đang sống trong một thế giới hiện đại của kính, thép, và sợi quang, đều chẳng khác gì nếu theo một cách nhận thức cơ bản so với những người tiền sử, với những đống lửa trại của họ, họ cũng cho rằng mình đã ở trong thời đại công nghệ cao nhất với y phục cao cấp là những sản phẩm thời trang từ… da bò rừng.

Đây là nhận thức giữ vai trò trung tâm về mặt tâm lý tiến hóa - một lĩnh vực nghiên cứu mới chỉ có được vai trò quan trọng trong khoảng 30 năm trở lại đây, mặc dù chính Darwin đã nhìn thấy ý nghĩa của việc phát triển những nghiên cứu về những suy nghĩ và hành động của con người. Trí óc của chúng ta đã phát triển để giải quyết cái mà các nhà tâm lý học tiến hóa gọi là “Môi trường của sự điều chỉnh mang tính tiến hóa.” Nếu chúng ta muốn hiểu được cơ chế nhận thức của ngày hôm nay, trước tiên, chúng ta phải phân tích cuộc sống của những người cổ đại trên những vùng đồng cỏ của châu Phi.

Tất nhiên, sự thật còn phức tạp hơn thế đôi chút. Bộ não của những bậc tổ tiên xa xưa nhất của chúng ta cũng giống như một thứ “quần áo mặc lại” của các loài động vật tiền thân. Những trải nghiệm sau này của con người đã thay đổi những gì được thừa hưởng và bổ sung đáng kể vào đó. Tuy nhiên, phần lớn vẫn là những gì nguyên thủy còn duy trì từ những bộ não của các sinh vật trước khi có loài người. Tất cả những dấu vết đó vẫn còn hiện hữu trong hạch hạnh nhân(2), và các cấu trúc khác của cái đôi khi được gọi là não bò sát, hay não thằn lằn.

Một sự thật nữa là không phải tất cả lịch sử thời kì Đồ Đá cũ của loài người đều chỉ dành cho việc săn bắt những con linh dương hay chạy trốn sư tử trên những vùng đồng bằng của châu Phi. Tổ tiên của chúng ta là những người lang thang, từ vùng đất này tới vùng đất khác. Do đó, “môi trường của sự thích nghi mang tính tiến hóa” không chỉ có một,thậm chí là rất nhiều. Điều đó khiến cho con người, với bộ não khổng lồ của mình, phải học tập và thích nghi. Tính linh hoạt, vì thế, đã trở thành một đặc điểm cốt yếu của con người: Một bộ não đã tìm ra cách làm thế nào để rèn giũa những viên đá, làm thành đầu mũi tên cũng có thể biết cách giữ ấm trong thời tiết lạnh bằng cách dùng da các con vật khác, và biết cách cung cấp đủ ôxy để thở trên mặt trăng.

Tuy nhiên, bên cạnh tất cả những điểm khác nhau giữa những môi trường thời cổ đại giúp hình thành não bộ con người, vẫn có những điểm đồng nhất, không thay đổi. Chúng ta săn bắn và tụ tập lại với nhau. Chúng ta sống theo những nhóm nhỏ. Chúng ta sinh ra và nuôi dưỡng thế hệ sau. Đó là những điểm phổ quát định hình sự phát triển của bộ não người.

Cảm giác không mấy dễ chịu mà phần lớn chúng ta gặp phải khi ở bên những con rắn chính là một bằng chứng cho thấy những trải nghiệm thời cổ đại vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới chúng ta ngày nay. Trong suốt thời tiền sử của loài người, và cả những thời kì trước đó, lũ rắn luôn là một mối nguy hiểm đe dọa tính mạng. Và chúng ta đã học được bài học rằng: Phải cẩn thận với những con rắn! Hoặc nói theo một cách chính xác hơn, một số trong chúng ta đã học được bài học đó, nhưng một số khác thì không, nhưng với những người này, họ đã có một thói quen khác: cái chết! Chọn lọc tự nhiên đã thực hiện công việc của mình, và quy tắc “phải cảnh giác với loài rắn” sau cùng đã trở thành một rãnh sâu in trên vỏ não của tất cả loài người chúng ta. Đó là một điểm chung. Tới bất kì nơi đâu trên hành tinh này, phân tích bất kì nền văn hóa nào, người ta cũng đều đề phòng loài rắn. Thậm chí cả ở vùng Bắc Cực, nơi không có rắn. Những người anh em trong họ động vật linh trưởng của chúng ta cũng có những trải nghiệm như vậy, và cũng có chung cảm giác. Ngay cả những con khỉ được nuôi trong phòng thí nghiệm, chưa bao giờ biết đến loài rắn, cũng quay lưng bỏ chạy khi nhìn thấy chúng.

Tất nhiên, không phải tất cả mọi người đều sợ rắn, có một số ít sợ hơn, lại có một số khác cảm thấy thích thú với những con rắn và có thể nuôi một con trăn Myanmar dài gần 4m trong nhà. Chúng ta cũng hoàn toàn có thể sợ hãi trước những con vật đáng yêu hơn nhiều, thậm chí là sợ cả chó, loài vật mà những tổ tiên cổ đại của chúng ta đã tạo ra bằng cách gây giống chọn lọc những con sói để chọn ra những đặc điểm phù hợp. Những nhà tâm lý học mô tả tâm lý tự nhiên sợ rắn của con người, đơn thuần chỉ là một yếu tố nghiêng về sợ rắn. Nếu một người có những trải nghiệm tích cực về loài rắn ngay từ nhỏ thì nỗi ảm ảnh này sẽ không phát triển. Ngược lại, những trải nghiệm tiêu cực sẽ dễ dàng khơi dậy nỗi sợ hãi. Người ta cũng có thể sợ chó, nhưng nỗi sợ này sẽ không được thúc đẩy bởi những sợi dây liên hệ cổ xưa. Sự khác nhau giữa hai nỗi sợ đã được làm sáng rõ khi các nhà tâm lý cố gắng điều trị nỗi ám ảnh bằng phương pháp “tạo điều kiện tích cực” (cho những nạn nhân ở gần với con vật mà họ sợ trong một môi trường an toàn và thoải mái). Những nỗi ám ảnh về chó biến mất nhanh chóng. Nhưng nỗi sợ rắn thường không thể xóa đi được - do những bài học đã học được từ hàng trăm ngàn năm trước.

Mối quan hệ có vấn đề của chúng ta với những con rắn là một ví dụ điển hình để thấy được bằng cách nào mà môi trường sống của các vị tổ tiên thời cổ đại của chúng ta lại có thể định hình bộ não hiện tại của chúng ta, chính là bộ não đang đọc dòng chữ này. Đó cũng là một điều hoàn toàn bình thường. Không dễ dàng để có thể chỉ ra những ví dụ sâu sắc hơn về mối liên hệ nhận thức từ thời cổ xưa, nhưng, trong nhiều trường hợp, chúng lại đóng vai trò quan trọng hơn trong việc khám phá hoạt động của não bộ.

Quy luật về tính tương tự được hình thành từ một dạng thức thậm chí còn cơ bản hơn: Hình ảnh xuất hiện ngang bằng với sự thực. Nếu một cái gì đó trông giống như một con sư tử, thì đó sẽ là con sư tử. Hay, đặt ví dụ này trong ngôn ngữ hiện đại, nếu cái gì đó đi lạch bạch giống như một con vịt, và kêu quàng quạc, thì đó là một con vịt. Quy luật này dường như giống với những nhận thức thông thường hơn là do ảnh hưởng bởi sợi dây nhận thức cổ xưa, tuy nhiên, thực tế, nó lại khá cổ xưa, và không phải lúc nào cũng có thể nhận ra.

Các nhà tâm lý học đã phát hiện ra rằng khi họ yêu cầu các sinh viên ăn một mẩu kẹo mềm trông giống như… cục phân chó, các sinh viên đã - hoặc sẽ - tỏ ra rất miễn cưỡng. Họ biết đó là mẩu kẹo mềm. Nhưng nó trông giống như phân chó, và điều này gây ra một cảm giác ghê tởm - một biểu hiện khác của sợi dây liên hệ nhận thức từ thời cổ xưa - làm họ không thể không có phản ứng. Các nhà nghiên cứu cũng có được kết quả tương tự khi họ làm thí nghiệm yêu cầu một số người đưa những mẩu cao su có hình dáng và màu sắc giống như viên thuốc làm nôn mửa lên miệng. Và khi họ yêu cầu các sinh viên chọn một cái hộp rỗng không, cho đầy đường vào đó rồi dán nhãn: “Natri Xyanua, chất độc” thì các sinh viên đó thể nào cũng chần chừ không dám ăn. Các nhà tâm lý học Paul Rozin và Carol Nemeroff kết luận: “Trong những nghiên cứu này, những người tham gia thí nghiệm đã nhận ra rằng họ không thể nhận biết được những cảm giác tiêu cực của mình, nhưng họ cảm thấy và thừa nhận chúng.”

Quy luật về hình ảnh xuất hiện ngang bằng với sự thực thường thể hiện bằng những niềm tin kiểu như có ma lực. Muốn làm đau một ai đó ư? Trong tà thuật, bạn sẽ làm một con búp bê trông giống như người đó, và tra tấn nó. Sẽ là một sự liên hệ tương tự nếu như những bộ lạc bị cô lập lần đầu tiên nhìn thấy những bức ảnh, và hoảng sợ: Những bức ảnh này giống hệt như người thật, và họ cho rằng điều này chắc chắn có nghĩa là những cái máy ảnh đã đánh cắp linh hồn của những người bị chụp ảnh.

Tất nhiên, tôi biết rằng, bức ảnh những đứa trẻ nhà tôi không phải là những đứa trẻ nhà tôi. Ở một mức độ nào đó, điều này rất dễ hiểu. Tôi cứ lẩm bẩm liên tục như vậy khi vừa đi vừa ngã dúi dụi trong cái khu ổ chuột ở châu Phi, trên đường đi tìm tấm ảnh của 2 đứa con tôi. Nhưng người đàn ông cổ đại trong tôi không hiểu điều đó. Trong hàng triệu năm, anh ta, và những bậc tổ tiên của anh ta đã đi theo quy luật về hình ảnh xuất hiện ngang bằng với sự thực này. Nếu nó trông giống như một con hươu thì nó sẽ là một con hươu, và đó là bữa trưa của bạn. Còn nếu nó trông giống như một con sư tử, thì nó sẽ là con sư tử, chạy nhanh! Nếu không bạn sẽ thành bữa trưa của nó đấy. Quy luật này đã hoạt động rất tốt. Nó làm việc tốt đến nỗi trở thành nếp nhăn trên bộ não người, và nếp nhăn đó vẫn còn cho đến hôm nay.

Nhưng rõ ràng là quy luật về sự xuất hiện - ngang bằng - với sự thực đã dẫn tới kết luận rằng bức ảnh của những đứa con tôi chính là những đứa con tôi. Đó chính là nguyên nhân khiến người đàn ông tối cổ ở trong tôi trở nên hoảng loạn. Tôi đã mất các con của mình! Tôi không thể bỏ rơi các con mình! Và đó là lý do vì sao tôi dấn bước vào một nơi mà tôi rất có thể bị cướp, hay bị giết chết, chỉ để tìm kiếm một mảnh giấy phủ chất hóa học chẳng có giá trị gì.

Điều này dường như thật ngu ngốc và lố bịch đối với nhận thức của một con người thời hiện đại. Nhưng đối với con người ở thời kì Đồ Đá cũ, quy tắc về hình ảnh xuất hiện ngang bằng với sự thực lại rất hữu ích và đáng tin cậy. Con người ở thời kì đó có thể khá quả quyết khi người đó nhìn thấy một cái gì đó giống như các con mình, rằng đó chính là các con của mình. Chỉ khi môi trường sống đã thay đổi dưới tác động của việc phát minh ra máy ảnh, loài người mới có thể nhìn thấy những hình ảnh giống hệt những đứa trẻ con mình, mà lại không phải là những đứa trẻ thực sự. Tuy nhiên điều đó mới chỉ xảy ra 180 năm trước.

Tất nhiên, thế giới xung quanh chúng ta tràn ngập những hình ảnh kiểu bức ảnh như vậy, và những thứ đó, dường như sẽ kích hoạt những mối liên hệ cổ xưa và khiến các giác quan của chúng ta bị nhầm lẫn về thực tại. Tất nhiên, đó không phải là một sự việc thực sự xảy ra. Một bức ảnh không phải là chính cái thứ mà nó miêu tả. Hầu hết chúng ta đều không phải đắn đo suy nghĩ gì nhiều để nhận biết được điều đó. Bạn đọc có thể kết luận rằng chỉ có tác giả của câu chuyện này mới bị ám ảnh sai lầm như vậy, chứ không phải loài người chúng ta.

Không phải như vậy. Để lý giải tại sao, chúng ta phải quay lại với hai hệ thống tư duy đã giới thiệu ở phần trên.

Hệ thống Một là hệ thống cổ xưa hơn. Nó mang tính trực giác, nhanh nhạy và mang tính xúc cảm. Hệ thống Hai mang tính phân tích, xử lý chậm, và dựa trên lý trí. Tôi sẽ gọi hai Hệ thống này là Cái Bụng và Cái Đầu, bởi đó là cách chúng ta thường nói về chúng. “Tôi thấy nóng ruột quá!” ai đó có thể nói như vậy nếu cô ta (hay anh ta) có một cảm giác mơ hồ về một điều gì đó là sự thật bởi những nguyên nhân không thể lý giải được. “Hãy dùng Cái Đầu đi”, bạn của người đó có thể trả lời như vậy, nghĩa là, điều đó có thể không phải là sự thực, vì thế hãy dừng lại và suy xét cho cẩn thận. (Tuy nhiên, nên nhớ chắc chắn rằng đây chỉ là một phép ẩn dụ: Các nhà thơ có thể miêu tả những cảm xúc tới từ trái tim hay dạ dày nhưng trong thực tế, chỉ có não bộ mới có thể tạo ra tất cả những suy nghĩ và cảm giác.)

Hệ thống Hai, hay Cái Đầu, là những suy nghĩ tỉnh táo và có ý thức. Khi chúng ta phân tích các số liệu và nhận ra rằng số người bị giết trong một vụ tấn công khủng bố là quá nhỏ không đến mức chúng ta phải lo lắng như vậy, thì đó chính là lúc Cái Đầu đã làm việc. Cái Đầu là lời dự đoán tốt nhất của chúng ta về những kết quả chính xác, nhưng nó cũng có những giới hạn. Trước hết, Cái Đầu cần phải được giáo dục. Chúng ta sống trong một thế giới của những thông tin phức tạp, và nếu Cái Đầu không được học những kiến thức cơ bản về toán học và logic; nếu Cái Đầu không thể nhận biết được sự khác biệt giữa một mức tăng 5% và mức tăng ở tỉ lệ phần trăm là 5, hoặc sự tương quan này không làm nên những kết quả khác nhau, thì đó sẽ là một sai lầm lớn. Cái Đầu cũng hoạt động rất chậm. Sẽ không có vấn đề gì khi bạn đọc báo trên bàn ăn vào buổi sáng, nhưng sẽ có một chút rắc rối nếu bạn thoáng thấy bóng một con hổ lướt qua bãi cỏ dày và bạn cần quyết định mình phải làm gì khi không thể tham khảo những cuốn bách khoa toàn thư như thường lệ.

Hệ thống Một, hay Cái Bụng, là những suy nghĩ vô thức, từ tiềm thức, với điểm nổi bật là tốc độ. Cái Bụng không cần một cuốn bách khoa toàn thư mới có thể xác định được cần phải làm gì khi có một cái gì đó chuyển động trong đám cỏ dày. Nó sẽ đưa ra một quyết định tức thì và ngay lập tức phát đi tín hiệu báo động. Sẽ có một tác động đau nhói ở dạ dày, tim bạn sẽ đập nhanh hơn, và mắt bạn lập tức tập trung vào đó.

Hơn ba thế kỉ trước, Blaise Pascal đã viết: “Trái tim có những lý lẽ của nó mà chúng ta không biết được.” Nó liên quan đến suy nghĩ có ý thức hay vô thức. Cái Đầu không thể soi xét được Cái Bụng, và vì thế nó không thể can thiệp vào cơ chế Cái Bụng đưa ra những quyết định của mình. Đó là lý do vì sao các nhà tâm lý học tin rằng các nhóm làm việc tập trung sẽ kém xa về sự sáng suốt so với một số người làm thị trường một cách độc lập. Nếu bạn tập trung một số người nhất định vào trong một căn phòng, cho họ xem một đoạn quảng cáo ô tô và hỏi họ cảm nhận về chiếc ô tô, bạn sẽ nhận được những câu trả lời rất rõ ràng. Một người đàn ông có thể nói: “Tôi không thích nó.” Trả lời thế cũng tốt thôi, tại sao không chứ? Ông ta nghiêm nghị nói tiếp: “Ừm, kiểu dáng phía trước trông có vẻ xấu. Và tôi muốn động cơ phải khỏe hơn.” Thực sự, đây là một phương pháp tốt, có thể là biện pháp mà một công ty có thể sử dụng để thiết kế và tiếp thị các sản phẩm của mình. Nhưng thực ra thì không phải như vậy. Câu trả lời tức thì của người đàn ông đó: “Tôi không thích cái ô tô này” là đến từ Cái Bụng. Nhưng người phỏng vấn lại đang nói chuyện với Cái Đầu. Và Cái Đầu không thể có kết luận lý do tại sao Cái Bụng lại không thích chiếc ô tô. Do đó, Cái Đầu phải suy nghĩ theo logic. Nó nhìn vào kết luận, và góp những mẩu vụn lại thành một lời giải thích vừa khéo léo, nhưng lại cũng có rất nhiều khả năng là sẽ sai.

Vì thế, chúng ta có hai cơ chế nhận thức làm việc bán độc lập với nhau: liên tục làm rắc rối thêm những suy nghĩ của chúng ta và tương tác phức tạp với nhau. Chẳng hạn, kiến thức được học và được sử dụng một cách có lý trí bởi Cái Đầu có thể chìm dưới nhận thức vô thức của Cái Bụng. Tất cả những người chơi golf kì cựu đều đã từng trải nghiệm quá trình này. Khi lần đầu tiên tham gia một môn thể thao này, bạn sẽ có ý thức tuân thủ các hướng dẫn. Lúc nào cũng quay đầu lại, đầu gối phải chùng xuống, tay phải thì phải thẳng. Những người mới bắt đầu chơi bao giờ cũng nghĩ về những điều này một cách có ý thức và cẩn thận. Họ không thể chỉ cần tiến tới điểm phát bóng và đánh bóng đi được. Nhưng sau khi đã làm điều này quá thường xuyên và trong một thời gian nào đó, bạn sẽ không còn phải nghĩ về nó nữa. Bạn chỉ cần cảm thấy là mình đang có tư thế, động tác đúng và điều này sẽ xảy ra nhanh hơn và trôi chảy hơn rất nhiều. Trong thực tế, một khi đã được tiếp thu, những suy nghĩ có ý thức về những gì bạn đang làm có thể quấy rầy và làm ảnh hưởng tới độ thuần thục và chính xác của những cú đánh. Đó là lý do tại sao các vận động viên chuyên nghiệp thường có sự hướng dẫn của các chuyên gia tâm lý thể thao để tránh không nghĩ về những động tác mà họ đã thực hiện hàng nghìn lần trước đó.

Thậm chí những hành động thuộc về não cũng phải trải qua sự chuyển đổi từ Cái Đầu tới Cái Bụng. Những bác sĩ mới vào nghề thường phải đối mặt với một khó khăn thường thấy là phải suy nghĩ, đắn đo cẩn thận về các triệu chứng trước khi đưa ra một lời chẩn đoán, nhưng những bác sĩ lâu năm thì có thể trong chốc lát đã “cảm nhận được” câu trả lời. Các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, những người giám định các di tích cổ xưa cũng có sự biến đổi tương tự như vậy.

Trong một giai thoại nổi tiếng mở đầu cuốn sách Blink (Trong chớp mắt) của Malcolm Gladwell, một bức tượng Hy Lạp được cho là đã được giám định khoa học kĩ càng đã ngay lập tức bị bác bỏ, và cho rằng đó là tượng giả bởi một số nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật. Tại sao? Các chuyên gia không thể giải thích điều này. Họ chỉ cảm thấy rằng có gì đó không ổn - một điều gần như “tác động trực giác”. Các cuộc kiểm tra sau này đã chứng thực bức tượng đó là giả. Các chuyên gia có thể cảm nhận được sự thật trong tích tắc bởi họ đã từng tìm hiểu và phân tích những bức tượng Hy Lạp trong một thời gian quá dài, tới nỗi những kiến thức và kĩ năng đã được tiếp thu và chuyển hóa thành hoạt động vô thức của Cái Đầu.

Công việc của các nhà tâm lý học nhận thức là phải tìm ra cơ chế làm việc của vô thức. Trong vài thập kỉ trở lại đây, họ đã đạt được những tiến bộ to lớn và tìm ra được nhiều điều có thể thay đổi mãi mãi cách chúng ta nghĩ về nhận thức.

Phương pháp thực nghiệm và thành kiến là những cách gọi nôm na cho một trong những nỗ lực hào hứng nhất để khuấy động bức màn bí mật về tư duy của chúng ta. Trong trường hợp này, “thành kiến” không có nghĩa là một sự xúc phạm hay coi thường. Nó chỉ là một xu hướng, không hơn. Nếu bạn đọc một tờ danh sách mua sắm, trên đó, một trong các món hàng được viết bằng màu chữ xanh lá cây trong khi tất cả phần còn lại là màu xanh nước biển, bạn sẽ có xu hướng ghi nhớ món hàng màu xanh lá cây đó. Đó là hiệu ứng Von Restorff - một thành kiến thiên về ghi nhớ những thứ bất bình thường. Đây chỉ là một trong rất nhiều điều về thành kiến mà các nhà tâm lý học đã khám phá ra. Có một số thành kiến, giống như hiệu ứng Von Restorff là khá hiển nhiên. Nhưng những hiệu ứng khác sẽ đáng ngạc nhiên hơn khi chúng ta phân tích ở phần sau.

Với trường hợp về phương pháp thực nghiệm, đó là những quy luật về dấu hiệu. Một điều mà chúng ta đã đề cập, đó là quy luật sự xuất hiện - ngang bằng - với sự thực. Nếu trông nó giống như một con sư tử, thì đó sẽ là con sư tử. Thật thú vị và đơn giản. Thay vì bị sa lầy vào thông tin, Cái Bụng chỉ cần sử dụng một vài hành động quan sát và một quy tắc đơn giản để trong khoảnh khắc có thể kết luận rằng con vật giống như một con mèo lớn kia thực ra chính là một con sư tử, và có lẽ tốt nhất là bạn nên bỏ chạy ngay lập tức. Chính phương thức suy nghĩ chớp nhoáng này đã giúp bạn sống sót. Nhưng không may là, cũng quy luật ấy, lại có thể dẫn tới kết luận rằng tấm ảnh trong ví không phải chỉ là một mẩu giấy, và bạn phải tìm thấy nó, dù phải đi lang thang xung quanh một khu nhà ổ chuột tối tăm ở châu Phi vào nửa đêm. Bạn có thể bị giết chết vì kiểu suy nghĩ đó. Vì thế, Cái Bụng là tốt, nhưng không hoàn hảo.

May thay, Cái Bụng không phải là cơ quan duy nhất cố gắng đưa ra những quyết định và khiến chúng ta phải hành động theo những quyết định ấy. Chúng ta còn có Cái Đầu. Cái Đầu sẽ giám sát những quyết định của Cái Bụng, và ít nhất cũng có thể cố gắng điều chỉnh hay gạt bỏ những quyết định ấy, nếu Cái Đầu cho rằng Cái Bụng đã sai. Cái Bụng quyết định và Cái Đầu xem xét lại. Quá trình này cũng là cơ chế cơ bản để những suy nghĩ và quyết định của chúng ta được hình thành. Nhà tâm lý học Daniel Gilbert Đại học Havard đã viết: “Một trong những điều cơ bản của sự sáng suốt của chúng ta là những quyết định về mặt đại thể là kết quả của những hệ thống không có ý thức hoạt động rất nhanh, trên cơ sở rất ít manh mối, và theo một cách thông thường, sau đó nó sẽ chuyển những phán đoán ước lượng này trở thành trạng thái tỉnh táo có ý thức, trạng thái sẽ điều chỉnh một cách chậm rãi và thận trọng những phán đoán này.”

Đứng trên một đồng bằng rộng lớn, nhìn về một ngọn núi ở phía xa - như trong một câu chuyện minh họa của Daniel Kahneman, bạn sẽ có trực giác để ước lượng xem ngọn núi cách mình bao xa. Vậy trực giác đó tới từ đâu? Nó dựa trên cái gì? Bạn sẽ không biết đâu. Bạn thậm chí cũng sẽ không biết rằng bạn đang có một trực giác, hay ít nhất, bạn sẽ không nghĩ về nó theo cách này. Bạn sẽ chỉ nhìn tới ngọn núi, và có một nhận thức ước lượng về khoảng cách giữa mình và ngọn núi. Miễn là bạn không hề có những thông tin khác cho thấy rằng trực giác đó hoàn toàn ngoài tầm kiểm chứng thì bạn sẽ chấp nhận ước lượng đó nhưng một sự đo lường chính xác, và sẽ hành động dựa trên ước lượng đó.

Bạn không hề biết rằng, trực giác đó tới từ hoạt động vô thức của Cái Bụng. Cái Bụng đã sử dụng một quy luật đơn giản của dấu hiệu để tạo ra phỏng đoán này. Các sự vật xuất hiện càng mờ nhạt thì chứng tỏ nó càng ở xa ta. Vì thế, nếu ngọn núi trông rất mờ, thì có nghĩa là nó ở rất xa. Đó là một quy tắc hữu ích có thể cung cấp thông tin đáng tin cậy chỉ trong phút chốc. Nếu đó không phải là một quy luật tốt, thì chọn lọc tự nhiên đã không biến nó trở thành một nếp nhăn trên não chúng ta.

Tuy nhiên, quy tắc đó có thể sai lầm. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngày hôm ấy cực nóng và ẩm ướt? Điều kiện thời tiết này sẽ khiến không khí trở nên giống như có sương mù và tất cả các sự vật sẽ xuất hiện lờ mờ hơn so với chính những sự vật ấy trong những ngày quang đãng. Để có được ước đoán chính xác về khoảng cách, chúng ta phải điều chỉnh. Nhưng Cái Bụng không làm chức năng này. Nó chỉ áp dụng quy luật về dấu hiệu. Trong trường hợp này, điều đó sẽ dẫn tới sai lầm. Vì thế Cái Đầu phải can thiệp vào phán đoán của Cái Bụng để tính tới yếu tố không khí ẩm.

Nhưng liệu Cái Đầu có thể can thiệp được như vậy? Thật không may, trong nhiều trường hợp, câu trả lời sẽ là không.

Chúng ta hãy xem xét câu hỏi sau: Một cây gậy và một quả bóng có tổng trị giá tiền là 1,10 USD. Cây gậy đắt hơn quả bóng là 1 USD. Vậy thì quả bóng giá bao nhiêu tiền?

Hầu hết tất cả những ai được hỏi câu hỏi này sẽ bột phát trả lời: “10 xu.” Có vẻ như đây là một câu trả lời đúng. Chúng ta có cảm giác là như vậy. Tuy nhiên, đó lại là một đáp án sai. Sự thật là, đáp án đó rõ ràng không chính xác (nếu như bạn dành ra một chút thời gian để suy nghĩ cẩn thận hơn). Tuy nhiên, đây là một ví dụ hoàn hảo cho sự nhầm lẫn thường tình của chúng ta. Hai nhà tâm lý học Daniel Kahneman và Shane Frederick cho biết: “Hầu hết những người tham gia trả lời câu hỏi của chúng tôi đều có xu hướng ban đầu trả lời là “10 xu”. Rất nhiều người cho biết, họ bất lực trước phản ứng bốc đồng này của mình. Tỉ lệ trả lời sai cao một cách đáng ngạc nhiên trước một câu hỏi đơn giản như vậy cho chúng ta thấy Hệ thống Hai (Cái Đầu) chỉ có thể giám sát hời hợt kết quả của Hệ thống Một (Cái Bụng): Người ta thường không đắn đo suy nghĩ gì nhiều, và thường có xu hướng tin vào những nhận định có vẻ hợp lý vụt đến nhanh chóng trong đầu.”

Cái Đầu có thể trở nên hời hợt một cách đáng ngạc nhiên. Ví dụ, các nhà tâm lý học thường nhấn mạnh nhiều lần rằng khi người ta được hỏi về cảm giác khỏe mạnh, thoải mái của họ, thì yếu tố thời tiết sẽ là yếu tố cơ bản tạo ra sự khác nhau trong các câu trả lời. Trời nắng sẽ khiến tâm trạng con người trở nên hưng phấn, trong khi trời mưa sẽ khiến họ buồn bã. Đó chính là “lời nói phát ra từ Cái Bụng”. Tất cả chúng ta đều biết rằng thời tiết sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng. Nhưng câu hỏi về tâm trạng thoải mái của một ai đó hiển nhiên là bao hàm rộng hơn rất nhiều so với tâm trạng tạm thời lúc đó bị ảnh hưởng bởi thời tiết tốt hay xấu. Đáng nhẽ Cái Đầu nên can thiệp và điều chỉnh những câu trả lời của Cái Bụng một cách tương ứng, nhưng nó lại không thường xuyên làm được như vậy. Vô số nghiên cứu thậm chí còn chỉ ra rằng thời tiết có mối tương quan mạnh mẽ với sự lên xuống của thị trường chứng khoán. Thật buồn cười khi cho rằng ánh nắng mặt trời lại có thể có tác động tới những tính toán tài chính của những người mua bán cổ phiếu tại Phố Wall, nhưng rõ ràng là đã có những tác động như vậy. Cái Đầu giống như một chàng thanh niên thông minh lanh lợi nhưng lười biếng, cậu ta có thể làm được những điều to lớn nếu chịu bước chân xuống khỏi cái giường ngủ.

Còn đây là cách thức vận động của tư duy trong điều kiện bình thường. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng khi người ta vội vã, sự giám sát của Cái Đầu đối với những quyết định của Cái Bụng càng trở nên lỏng lẻo hơn nữa và những sai lầm càng có khả năng xảy ra. Những người hoạt động về ban ngày thường luộm thuộm, cẩu thả và ủy mị hơn vào buổi chiều tối, trong khi những người lấy ngày làm đêm lại thường rơi vào tình trạng tồi tệ nhất của họ vào buổi sáng. Sự đãng trí, xao lãng hay mệt mỏi kiệt quệ, và cả sức ép, sự căng thẳng là những yếu tố làm giảm mức độ tập trung của Cái Đầu. Và dĩ nhiên, chúng ta cũng không thể hoàn toàn tập trung sau khi đã uống một vài cốc bia.

Và bây giờ, nếu bạn không may phải ở trong một tình cảnh căng thẳng như tại một khu ổ chuột ở châu Phi giữa nửa đêm, kiệt sức sau một ngày dài làm việc, hơi chuếnh choáng sau khi đã uống vài li bia đen, và chìm trong tâm trạng thất vọng vì bị mất chiếc ví bên trong có những bức ảnh. Khi ấy, Cái Đầu sẽ không thể làm việc với khả năng tốt nhất của mình.

Để tóm tắt lại mối quan hệ giữa Cái Đầu và Cái Bụng, Daniel Kahneman cho rằng Cái Đầu và Cái Bụng luôn “tranh giành quyền đưa ra những quyết định, phản ứng cuối cùng.” Hoặc ai đó có thể nói không chính xác được như vậy, nhưng sinh động hơn, rằng mỗi chúng ta đều đang ở trong một cuộc đua ô tô trên xa lộ. Trong mỗi chiếc ô tô là một người đàn ông từ thời tối cổ nhưng lại muốn lái xe, cùng với một anh chàng thiếu niên thông minh nhưng lười nhác, anh chàng biết rằng mình nên cầm một tay vào vô-lăng nhưng lại ngại phải cãi cọ phiền phức mà thích nghe nhạc từ chiếc Ipod và ngắm nhìn cảnh vật hai bên đường qua cửa kính của xe hơn.

Và đêm hôm đó ở Nigeria, người đàn ông thời đồ đá đã “lái xe” trong khi cậu chàng thanh niên cuộn tròn và ngủ ngon lành ở ghế sau. May mà tôi vẫn còn sống sót bước ra khỏi đó.