Lời Giới Thiệu
Lần đầu tiên gặp Nguyên Hồng trong Khách sạn Metropole ở Hà Nội, Pierre Abraham (1892-1974), Tổng biên tập tạp chí Europe (Châu Âu) nhận xét: "Như từ bờ bãi sông Hồng đỏ rực gió cuốn đến đây, nhà văn lớn này là người của đất, thật là người của đất". Những ai gặp Nguyên Hồng lần đầu đều có ấn tượng như thế, đều không quên được cái dáng dấp tất tưởi, lam lũ, nụ cười tự tin, yêu đời trên khuôn mặt nhân hậu, còn in rõ dấu vết những tháng ngày đói khổ, tủi nhục trong cuộc đời sớm vất vả trước đây của anh. Có thể nói từ bé đến lớn, anh đã phải chịu đựng biết bao dằn vặt, đầy đọa trong những năm tháng dài dằng dặc và tối tăm của xã hội cũ. Mười hai tuổi, bố ho lao chết, người mẹ trẻ nghèo khổ phải từ giã con trai vào Vinh ở vú đầm; cậu bé thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu mọi tình thương yêu chăm sóc đã lang thang nơi đầu đường xó chợ, đánh đáo kiếm ăn, chung đụng với đủ các hạng trẻ nghèo đói, du đãng (Những ngày thơ ấu). Mười lăm tuổi, vừa đậu xong tiểu học đã bị đày đọa trong các nhà lao Nam Định, Hà Nội rồi bị giải đi Phúc Yên, cậu "tù trẻ con"... (1)đã nhiều lần bưng mặt khóc ngay dưới gốc cây, bên cạnh xe bò rác mỗi khi nghĩ đến tuổi ấu thơ và cái thành phố quê hương của mình, nhưng rồi lại vội vội vàng vàng lấy vạt áo chùi nước mắt lúc chợt thấy người lạ đi qua. Đoạn tang cha, mẹ đi bước nữa, rồi năm sau, cậu thiếu niên hết hạn tù được tha. Họ hàng nhà chồng khinh bỉ người đàn bà cải giá và những người xung quanh rẻ rúng, ghê sợ đứa con trai "mới một dúm tuổi mà đã trải hết lao này sang lao khác".
-----
(1) Tù trẻ con là một tập ký pha tiểu thuyết hơn 300 trang, Nguyên Hồng viết xong bảy ngày trước khi bị Pháp bắt ở Hải Phòng (29-9-1939). Khi đi tù, bản thảo bị mật thám Hà Nội đốt mất.
Tránh mọi thành kiến hẹp hòi, mọi tai tiếng dị nghị, mọi con mắt xoi mói, dòm ngó ở một tỉnh nhỏ, gia đình Nguyên Hồng bỏ nơi chôn rau cắt rốn tìm ra Hải Phòng kiếm kế sinh nhai ở một thành phố công nghiệp ồn ào, đông đúc, cái nơi thiên hạ tứ xứ mà dù có phải kéo xe hay bán ốc đầu đường cũng được, không ai biết đấy là đâu...
Nhưng rồi từ ngày đó người ta thấy xuất hiện trên đường phố Hải Phòng một người thanh niên thất nghiệp, dáng người nhỏ bé lom khom, áo chùng thâm dán lấy ngực, mũ trắng vành to, gương mặt xanh xao mất máu, ngày ngày lang thang ở bến tàu Sáu Kho, Nhà máy xi măng, Sở dầu Thượng Lý hoặc chầu chực ở cổng các nhà máy Cốt phát, Máy tơ, Máy chỉ, Máy ống, các hãng chuyên chở hàng hóa, các bến ôtô tàu thủy, các kho hàng, cửa hiệu, tràn than, lán củi, hoặc lân la ở các xóm ngõ đầu đường nơi đi về của phu phen thuyền thợ... để nghe ngóng, thăm dò công việc. Vườn hoa Đưa người là chặng nghỉ cuối cùng sau những buổi sáng, buổi chiều đi chầu chực, xin xỏ các nơi không được việc gì cả, là nơi sau những buổi tối cơm chiều không có, đèn nhà hết dầu, anh đến đứng lặng thẫn thờ, trong lòng đau khổ, buồn bã vô cùng.
Chợ Vườn hoa Đưa người trông xuống sông Lấp, mà một bên bờ có khu nhà thương và khu đề lao. Đứng lẫn trong đám người thất nghiệp trên Hà Nội xuống, ở Nam Định ra, ngoài Hòn Gai, Cẩm Phả về tụ tập tại đây chầu chực đi ăn đi ở, Nguyên Hồng thường trông ra đường, lòng thắt lại khi thấy những chuyến xe chở vội những xác chết vô thừa nhận và những đám tù giải đi xử án. Những cảnh ngộ buồn thảm đó cứ trĩu xuống tâm hồn anh, đe dọa cuộc sống thoi thóp từng ngày của gia đình anh.
Bao nhiêu ngày tháng bị câu thúc thân thể, bị đày đọa tù tội, bây giờ lại thêm cảnh đói khổ thất nghiệp kéo dài, Nguyên Hồng nhiều lúc lo sợ, bối rối, tưởng mình sẽ chết đau đớn ở cái tuổi mười sáu. Và người thanh niên đó thấy ham sống, thèm sống, tha thiết, khắc khoải lạ thường. Anh nghĩ dù có chết cũng phải để lại cho cõi đời mà anh yêu mến một cái gì vừa tinh khiết, trong sáng, vừa tha thiết yêu thương nhất của tâm hồn.
Đối với một người thanh niên thời đó, địa vị không có, gia đình suy tàn, học thức tầm thường nhỏ nhoi, anh nghĩ, chỉ còn một cách tồn tại trong cuộc sống bằng cái cao quý, trong sạch của văn chương. Và anh bắt đầu viết, viết suốt ngày suốt đêm, viết một cách đau khổ, say mê, bất chấp "cái đói ê ẩm thấm thía vô cùng trong đêm mưa lạnh hoang vắng".
Bỉ vỏ được viết "trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro" (2). Cũng như một nhân vật của Nam Cao trong truyện ngắn Trăng sáng, Nguyên Hồng thường mê mải ngồi viết truyện giữa tiếng tranh giành xô xát, mỉa mai đay nghiến, eo sèo khắc khoải của những người dân nghèo trong các ngõ hẻm thành phố. Viết văn đối với anh là một lẽ sống. Cho nên ngay cả trong những ngày đi tù ở Bắc Mê, cứ mỗi buổi trưa đi làm cỏ vê về anh lại ngồi viết ở một gốc cây mé sau trại giam, dưới một bầu trời mờ mờ xám xám, xung quanh là màu xanh hoang vu của núi rừng dày đặc và tiếng gió rừng lạnh lẽo hú lên từ thung lũng này qua thung lũng khác (Cuộc sống).
-----
(2) Tôi viết Bỉ vỏ.
Cho đến những năm dài về sau, khát vọng sáng tạo vẫn cứ luôn luôn thôi thúc anh một cách mạnh mẽ, tha thiết, đến mức anh nghĩ rằng mình có thể chết dần chết mòn nếu như vì một lý do nào đấy, không thể cầm bút được nữa...
Những ảnh hưởng lung linh, choáng ngợp ban đầu của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, V.Hugo... có thể kéo cây bút Nguyên Hồng về phía chủ nghĩa lãng mạn. Cả cái hưng phấn nội tâm, cái bút pháp cường điệu, phóng đại cũng có thể hướng anh về phía đó. Nhưng cuộc đời đói khổ, lam lũ đã giúp cho ngòi bút của anh ngày càng cắm sâu trên mảnh đất màu mỡ của chủ nghĩa hiện thực.
Anh sẽ viết những sự thực đau đớn và những khát vọng da diết của cuộc đời anh và cuộc đời những người lao động nghèo cùng cảnh ngộ ở cái xóm Cấm và xóm chùa Đông Khê. Hơn ba năm, Nguyên Hồng đã dạy học lẩn lút trong cái xóm nghèo lao động đó với hơn hai mươi đứa trẻ lau nhau, rách rưới, con các phu phen thuyền thợ, các người buôn bán nhỏ, các người gánh nước thuê... Cả cái xóm lam lũ, đói khổ đó đã tin yêu, đùm bọc lấy cậu giáo nghèo của họ. Cho nên không phải là ngẫu nhiên mà hơn bốn chục năm nay, Nguyên Hồng đã viết về lớp dân nghèo thành thị với một "niềm tin tưởng tha thiết", một tình "yêu thương đắm đuối", một niềm đồng cảm sâu sắc của những người "cùng một hoàn cảnh, cùng một đời sống thấp kém và tối tăm, vì thiếu thốn đủ mọi thứ, vì phải chịu đựng đủ mọi thứ" (Lớp học lẩn lút). Dường như mỗi nhà văn đều có một nguồn suối tinh thần yêu thương của họ. Ngô Tất Tố tiếp thu được cái hơi thở khỏe mạnh, hồn hậu, lạc quan của nông dân, còn Nguyên Hồng thì bắt rễ sâu vào cuộc sống và những tình cảm tốt đẹp của những người dân nghèo, thợ thuyền thành phố. Anh luôn luôn nói đến những người lao động nghèo khổ với lòng biết ơn tình nghĩa, với sự gắn bó thủy chung.
⚝ ❖ ⚝
Trong mấy chục năm gần đây, người ta đã nói nhiều đến những tập tiểu thuyết của Nguyên Hồng như Bỉ vỏ, Sóng gầm, Cơn bão đã đến... Thực ra trong sự nghiệp văn học của anh, truyện ngắn có một vị trí quan trọng, không thua kém gì tiểu thuyết. Chúng ta có thể nói đến Nguyên Hồng như một phong cách truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sưu tầm và tuyển chọn những tác phẩm trước và sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta sẽ có một tập truyện ngắn giá trị với nhiều màu sắc độc đáo.
Khá nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng được viết với một bút pháp hiện thực tỉnh táo. Trong các truyện Đây, bóng tối; Láng; Vực thẳm; Người con gái; Hai mẹ con, cái cường độ ngột ngạt căng thẳng cứ tăng lên mãi và tác giả, dường như cứ lạnh lùng, bình tĩnh xoáy sâu mãi vào chỗ tột cùng của bi thảm khiến cho người đọc bỗng cảm thấy đau xót, nhức nhối vô hạn cho những kiếp người thống khổ trong xã hội cũ. Trong một số truyện, để đạt hiệu quả tố cáo cao nhất, ngòi bút nghiêm ngặt của ông không ngần ngại phanh phui những chi tiết tỉ mỉ, trần trụi, đôi khi cứ như là chấp chới bên bờ của chủ nghĩa tự nhiên (Đi, Người học trò, Tàu đêm)... Lại có truyện, tác giả như giấu mình đi, sử dụng một lối văn trần thuật khách quan, một ngôn ngữ trung tính để cho lòng sôi sục căm giận của người đọc bị nén chặt lại, chuẩn bị cho quả bộc phá bùng nổ (Ngòi lửa, Giọt máu). Nhưng cũng có truyện tràn đầy một âm hưởng trữ tình lãng mạn, không phải thứ lãng mạn tiêu cực, thoát ly mà là một chất thơ bắt nguồn từ cuộc sống cần lao của người dân Hải Phòng, một chủ nghĩa lãng mạn cách mạng bắt nguồn từ một niềm tin lý tưởng (Những mầm sống, một số truyện trong Cuộc sống). Có khi lại là màu sắc lãng mạn trong các truyện dân gian, nhân vật "trông như là Thạch Sanh hay quân lính của đức Thánh Gióng, đức Thánh Trần vậy" (Chuyện cái xóm tha hương).
Tính chiến đấu của truyện ngắn Nguyên Hồng được thể hiện qua những thủ pháp nghệ thuật tương phản trong việc xây dựng kết cấu và hệ thống hình tượng. Có khi là sự đối lập giữa hai kiểu người, hai lối sống, một bên là lòng nhân hậu, là nghĩa thủy chung, một bên là sự hưởng thụ ích kỷ, là thói độc ác tàn nhẫn (Giọt máu, Cô gái quê, Nhà bố Nấu). Cũng có khi là sự đối lập giữa hai quan điểm nghệ thuật (Hai dòng sữa, Cái bào thai). Có truyện tác giả để cho sự việc tự nói lên (Giọt máu) nhưng cũng có truyện mang tính luận đề rõ rệt và các chi tiết ít nhiều có ý nghĩa tượng trưng (Một trưa nắng, Hai dòng sữa). Truyện ngắn của Nguyên Hồng đôi khi có khuynh hướng mở rộng quy mô và dung lượng, kết cấu dàn trải theo chiều dài cuộc đời bi thảm của nhân vật (Người con gái; Đây, bóng tối; Con gái người mãi võ họ Hoa); nhưng cũng có truyện chỉ là một cảnh ngộ tối tăm (Tôi dạy học, Lúc chiều xuống), một câu chuyện dằn vặt lương tâm (Miếng bánh). Khi Nguyên Hồng tránh được sự dàn trải trong truyện ngắn và cả trong tiểu thuyết (Hơi thở tàn, Quán Nải), biết tập trung vào tấn bi kịch của cuộc đời, thì thường anh có những truyện ngắn xuất sắc (Giọt máu, Buổi chiều xám).
Ở đây, ngòi bút của anh khá linh hoạt. Khi thì miêu tả lướt qua những tấn bi kịch của một đám đông (nạn đói năm 1945), trong đó làm nổi lên một số trường hợp điển hình (Người học trò, Tàu đêm), khi thì từ cuộc đời lam lũ, vất vả của một cô gái, tác giả soi sáng cuộc đời chung của những người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng, thầm lặng hy sinh trong xã hội phong kiến (Hàng cơm đêm). Ống kính của người viết truyện đang quay cận cảnh, bỗng mở ra một viễn cảnh rộng lớn, có tầm khái quát cao hơn.
Truyện ngắn của Nguyên Hồng sử dụng nhiều bút pháp, nhiều lối kết cấu và xây dựng nhân vật khác nhau. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đều nhằm phản ánh cuộc sống của từng lớp dân nghèo thành thị: những cuộc đời lương thiện bị vùi dập tan nát, những tấm lòng yêu thương đùm bọc, nhân nghĩa thủy chung, những khao khát ước mơ trong sáng, đẹp đẽ hướng về một thế giới tràn đầy ánh sáng và lý tưởng.
Tác phẩm Nguyên Hồng đã làm sống dậy cuộc sống lam lũ cơ cực, bần cùng của những người lao động nghèo khổ ở các vùng ngoại ô, ngõ hẻm các thành phố lớn như ngoại ô Bạch Mai, ô Yên Phụ, bãi Phúc Xá, bãi Nhà dầu ở Hà Nội hay xóm Cấm, xóm chùa Đông Khê, xóm Chợ con, ngõ Hàng Gà của Hải Phòng. Những nhân vật của Nguyên Hồng thường sống trong những xóm nhà lá hoặc lợp tôn chen chúc, úp xúp, với những ngọn đèn leo lét như ngái ngủ, đêm đến vang lên tiếng muỗi như ri và những tiếng ú ớ trong giấc ngủ mê mệt sau một ngày bán sức quần quật ở Sáu Kho, Máy đá, Ximăng... Chúng ta cũng thường gặp họ ở những ngõ hẻm lầy lội mà sau một trận mưa, nước ngập vào tận giường ngủ của các gia đình, những ngày mùa hè luôn luôn có tiếng ầm ầm xô xát giành giật nhau ở ngoài máy nước đầu ngõ; cái ngõ hẻm đêm ngày nhớp nháp vì người ta gánh nước, đổ rác, gánh rau đậu đi chợ và luôn luôn nổi lên những tiếng kêu cướp giật, ăn uống chằng bửa, đi xe quỵt, đánh chém nhau vì một ván bài ù không được tiền hay vì giọng cười khiêu khích của một gái nhảy.
Nguyên Hồng không miêu tả trực tiếp quá trình những người nông dân phá sản, bị cướp đoạt, bỏ làng quê ra thành phố nhưng anh thấy rõ số đông dân nghèo ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định là những người lìa hẳn quê lên đây "sau mấy năm lụt lội, đói khát, dịch tễ liên tiếp, họ đâu như đã bán nốt miếng đất cuối cùng của ông cha cho bọn kỳ lý, cho Nhà Chung, để gỡ nợ, để chạy kiện, để thoát vạ rượu, vạ cướp tiêu sưng, để khỏi nhìn những cảnh đau tủi, uất ức mà đi tha hương cầu thực, thử xem ngoài những nơi chôn rau cắt rốn của họ, đời họ có thay đổi được chút nào không?" (Ngọn lửa). Trong số họ cũng có những cô gái quê bị mẹ gả bán, ép uổng hoặc bị đày đọa bởi những hủ tục, luật lệ phong kiến khắc nghiệt, đã bỏ làng ra tỉnh rồi bị lừa bịp, cưỡng hiếp, biến thành lưu manh, gái điếm (như Tám Bính trong Bỉ vỏ) hoặc rơi vào ổ của bọn cờ bạc bịp và buôn hàng lậu (Muống trong Quán Nải)... Sớm muộn thì cái đám dân quê xiêu dạt ra thành phố này sẽ dần dần mất đi lịch sử riêng, mà chỉ còn là đám đông vô danh trong một bộ đồng phục màu xám, hàng ngày lang thang đi kiếm ăn trong những điều kiện sống hết sức khắc nghiệt, vô tình của những thành phố tư sản.
Trước 1945, Nguyên Hồng chưa ý thức được rõ rệt (như sau này trong Sóng gầm) sự bóc lột, cướp đoạt, lối sống lạnh lùng, bất cận nhân tình của những thành phố kỹ nghệ tư sản. Nhưng anh đã miêu tả một cách trung thực, đau đớn và dữ dội, quá trình bần cùng hóa và lưu manh hóa của dân nghèo thành thị. Anh là chứng nhân cho bao câu chuyện đau khổ, uất ức, tan nát, chia lìa của những gia đình lương thiện (Đây, bóng tối; Hai mẹ con; Hơi thở tàn; Người con gái; Vực thẳm; Giọt máu...).
Kết quả của chính sách bóc lột, bần cùng hóa của bọn thực dân phong kiến làm hàng vạn gia đình dân nghèo bị tan nát hoặc bị đẩy vào những bi kịch không lối thoát. Cuộc sống cùng quẫn, tối tăm đã làm xuất hiện những kiểu người gần như mụ mị, mất trí hoặc phát điên. Do cuộc sống cùng quẫn kéo dài và bị cái xã hội cũ đầu độc, một số phu phen, thợ thuyền đâm ra phản ứng cực đoan, rượu chè cờ bạc, đánh vợ chửi con, càng ngày càng chìm sâu vào vũng bùn tội lỗi (Sau hai mươi năm, Người mẹ không con, Bố con lão Đen). Một số dân nghèo đã bị cái chế độ độc ác, vô lương biến thành lưu manh, gái điếm (Bỉ vỏ, Chín Huyền, Bảy Hựu, Khói ken nếp và xà lim...). Cái xã hội những kẻ lưu manh đó đã trở thành đề tài trong khá nhiều truyện thời kỳ đầu của Nguyên Hồng. Xã hội này cũng có tôn ti trật tự, có uống máu, ăn thề, có báo thù, hy sinh cho đồng đội... Họ sống bằng lừa bịp, chém giết một cách say sưa, rồ dại rồi cuối cùng tàn lụi đi do những tội ác của mình gây nên.
Nhưng điều đáng làm chúng ta suy nghĩ không phải ở chỗ Nguyên Hồng miêu tả những câu chuyện kỳ lạ trong xã hội lưu manh, gái điếm. Ngay ở những tầng lớp cặn bã nhất, chỉ biết có chém giết lừa bịp, vẫn ánh lên những tia sáng nhân đạo, vẫn còn lòng yêu thương chung thủy, lòng hy sinh, dám xả thân vì một nghĩa cử, dám sống chết để bảo vệ đồng đội và nhất là những thoáng khát vọng muốn thoát khỏi cuộc đời tội lỗi của mình. Cái nhìn của Nguyên Hồng ở đây cũng giống như cái nhìn của Gorki khi viết về tầng lớp "dưới đáy" của xã hội Nga, mang đầy tính chất nhân đạo chủ nghĩa. Cho nên đọc chuyện những nhân vật này, ta thấy tội ác của họ, nhưng đồng thời cũng thương xót cho những kiếp người đã bị xã hội độc ác nhấn chìm vào vũng bùn tội lỗi và ngụp lặn trong ấy cơ hồ không thể ngoi lên được.
Sống bên Năm Sài Gòn, trùm lưu manh ở đất Cảng, nhưng tâm hồn Tám Bính vẫn luôn hướng về một cuộc đời lương thiện trong trắng. Bính nuối tiếc cuộc đời trong sạch ngày xưa, khi mình còn là cô gái quê ngày ngày đua đòi cùng với chị em đi các chợ gần chợ xa, đòn gánh trên vai dẻo dang nhún nhảy nhịp cùng những bước đi thoăn thoắt, những cánh tay mềm mại vung tà áo nâu ra trước gió. Giờ đây, Bính chỉ ước mong được sống trong một gia đình lương thiện:
"Một tia hy vọng bỗng thoáng chiếu vào tâm trí Bính như làn chớp vụt xé vùng trời mờ tối. Bằng sự lần hồi buôn bán, tần tảo ở các chợ xa, rồi đây Bính sẽ nuôi được đứa con sắp đẻ; sẽ nuôi Năm để Năm khỏi làm điều gian ác, dần dà Bính trở về quê chuộc đứa con đầu lòng đày ải kia và giúp đỡ cha mẹ gây dựng cho hai em" (Bỉ vỏ).
Trong tầng lớp lưu manh, cặn bã của xã hội, Nguyên Hồng đã khám phá, đã nâng niu từng tia sáng nhân đạo, phần lương tâm còn lại dưới đáy sâu tâm hồn vụt lóe lên.
Tác phẩm của Nguyên Hồng cho ta thấy quá trình bần cùng hóa, lưu manh hóa của những người dân nghèo thành thị, nhưng cái hướng chính, hướng lương thiện của họ, theo ông, vẫn là niềm khao khát vươn tới ánh sáng, những mong muốn có một sự thay đổi, một sự chuyển biến mạnh mẽ nhằm tạo ra một cuộc sống công bằng hơn, đẹp đẽ hơn. Vấn đề chính trong tác phẩm của Nguyên Hồng trước cách mạng là: những con người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn muốn "ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh" (Ngọn lửa).
Những người dân nghèo trong tác phẩm của Nguyên Hồng hơi giống chàng trai trong truyện Lấy vợ cóc. Hình thức bên ngoài xù xì, lem luốc nhưng tâm hồn bên trong rất cao đẹp, rất đáng quý. Đó là tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng khổ (Hơi thở tàn); tình nghĩa chung thủy và lòng hy sinh cho hạnh phúc của người khác (Đây, bóng tối; Trong cảnh khốn cùng); lòng tự trọng, dù đói khổ vẫn không chấp nhận lối sống trụy lạc, bán rẻ nhân phẩm để chạy theo đồng tiền và danh vọng (Cô gái quê, Nhà bố Nấu...). Nhưng dù sao, nhiều nhân vật nghèo của Nguyên Hồng vẫn còn giữ một thái độ cam phận, nhẫn nhục, chịu đựng trước cảnh ngộ. Đôi lúc ta lại có cảm tưởng dường như ngòi bút nhà văn chìm sâu một cách triền miên trong sự khổ đau, say sưa trong một thứ chủ nghĩa cùng khổ.
Nhược điểm này từ 1938 trở đi, dần dần được khắc phục. Do những ảnh hưởng khá quyết định của phong trào Mặt trận Dân chủ, nhà văn Nguyên Hồng đã bắt đầu có ý thức nâng cao sự giác ngộ giai cấp, giúp những người dân nghèo tìm ra nguyên nhân của sự đói khổ, từ đó dần dần gợi cho họ tinh thần đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống mọi sự mê muội về mặt tinh thần của một thứ thuốc phiện tôn giáo (Nhà bố Nấu, Những mầm sống).
Cùng đứng trong chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng... mỗi người có một phong cách riêng, phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng cũng mang những màu sắc thẩm mỹ độc đáo.
Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyên Hồng dường như chủ yếu chưa phải xuất phát từ một thái độ phẫn nộ, muốn lên án bọn địa chủ, tư sản, quan lại, muốn vạch mặt trái những chính sách mỵ dân giả dối, lừa bịp và tố cáo những thủ đoạn đàn áp vô nhân đạo của bè lũ thống trị, muốn giải phẫu cái ung nhọt đang tấy lên trầm trọng của một con bệnh nguy kịch là cái xã hội thực dân, phong kiến đương thời.
Nguyên Hồng không phải lúc nào cũng có được cái tỉnh táo sắc sảo như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng khi đập phá xã hội cũ, khi vạch mặt chỉ trán từng tên tai to mặt lớn trong tầng lớp thượng lưu lúc bấy giờ. Nhưng với một nhà văn hiện thực lớn, không phải chỉ cần một trí tuệ sắc sảo mà còn phải có một trái tim lớn, một lòng yêu thương vô hạn đối với con người. Đó là mặt mạnh của Nguyên Hồng và Ngô Tất Tố so với một số nhà văn khác cùng thời.
Nguyên Hồng không trực tiếp miêu tả những mâu thuẫn giai cấp đối kháng của xã hội. Bọn thống trị bóc lột tàn ác cũng chưa được xây dựng thành những nhân vật phản diện đậm nét trong tác phẩm của anh trước 1945. Chúng chỉ là những đường viền để làm nổi bật lên phẩm chất tốt đẹp và khát vọng vươn tới ánh sáng của những người dân nghèo thành thị.
Cảm hứng chủ đạo của nhà văn dường như bắt nguồn từ một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc đối với những lớp người cùng khổ. Anh là một cây bút đôn hậu, luôn luôn hướng đến cái cao đẹp, trong sáng, niềm tin yêu thắm thiết. Tất nhiên lúc cần, ngòi bút Nguyên Hồng vẫn làm việc tố cáo, đập phá những áp bức, bất công nhưng chủ yếu anh là người ca ngợi và xây dựng. Chính vì thế nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét khá đúng về anh, sau khi đọc những bức thư trong Cuộc sống: "Tôi là một thằng thích phá đình phá chùa, mà anh thì đúng là một người ưa chuyện tô tượng đúc chuông...".
Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm Nguyên Hồng kế tục và phát huy truyền thống nhân đạo chủ nghĩa trong văn học dân tộc. Những cô Kiều ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, những người đàn bà "đòn gánh tre chín dạn hai vai" trong Văn chiêu hồn của Nguyễn Du, những Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Kiều Nguyệt Nga đảm đang chung thủy và cả những bà vợ hiền "lặn lội thân cò khi quãng vắng, eo sèo mặt nước buổi đò đông" trong thơ Tú Xương... Thời đó Nguyên Hồng cũng có điều kiện tiếp xúc với những tác phẩm mang truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của phương Tây như Những người khốn khổ của Hugo, David Copperfield của Dickens, Thời thơ ấu của Gorki và những truyện ngắn của Alphonse Daudet...
Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu và những truyện ngắn mang tinh thần nhân đạo chủ nghĩa khác của Nguyên Hồng chắc chắn có chịu ảnh hưởng hoặc nhiều hoặc ít, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp những tác phẩm kể trên.
Nguồn suối tình cảm yêu thương của Nguyên Hồng bắt nguồn từ cuộc đời thực của tác giả và của những người đàn bà nghèo ở các ngõ hẻm, ngoại ô thành phố. Cuộc đời cơ cực của những người vợ kiếm miếng cơm manh áo, tần tảo nuôi chồng nuôi con, chịu đựng bao cảnh hà hiếp, bóc lột, bao lề thói cũ kỹ, khắc nghiệt của xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Có thể nói tác phẩm của Nguyên Hồng đã ghi lại những nỗi khổ điển hình của người đàn bà Việt Nam trong những năm dài tối tăm trước Cách mạng tháng Tám.
Bắt đầu từ cuộc đời một bà mẹ, lúc còn trẻ sống nhẫn nhục bên người chồng già mà nàng không yêu, sống thầm lặng như "cái bóng ngắn của bức tường dày mãi mãi thần phục ở dưới chân rồi sẽ tan xuống đất nếu ánh sáng soi tắt"; khi người chồng chết, bà phải tha phương cầu thực tìm cách nuôi con và chịu đựng mọi sự khinh bỉ, ruồng bỏ của gia đình nhà chồng. "Phong tục và lễ nghi cổ hủ đã bắt buộc người mẹ coi sự sinh nở khi chưa đoạn tang chồng cũ ghê tởm hơn là những tội gian ác xấu xa nhất. Và các thành kiến gông cùm từ ngàn xưa truyền lại đã nâng một đứa con trai chưa đầy mười bốn tuổi lên một địa vị cao trọng để mẹ nó phải khuất phục, cầu khẩn" (Những ngày thơ ấu). Ở nông thôn, lễ giáo phong kiến ghê gớm hơn vì nó được giai cấp thống trị duy trì như một phương tiện để đàn áp bóc lột. Tám Bính đã rùng mình khi nhớ lại hình ảnh người đàn bà bị làng phạt vạ, quỳ giữa sân đình nắng chang chang, tay bế đứa con mới được mười ngày đỏ hon hỏn và một lũ kỳ mục kiếm chác, ăn uống trên sự đau khổ của người đàn bà khốn khổ (Bỉ vỏ). Bao nhiêu cô gái đáng thương như thế đã phải bỏ làng ra thành phố rồi biến thành những vật trao đổi rẻ tiền cho bọn làng chơi! Tiểu thuyết Bỉ vỏ đã viết những chương thật cảm động về cuộc đời tủi nhục của những gái điếm ở phố Hạ Lý. Bao nhiêu cô gái bán trôn nuôi miệng đã bị các mụ chủ nhà chứa bóc lột cho kiệt sức, ho ra máu rồi chết. Người ta thuê vài người phu chợ đùm kẻ bất hạnh trong chiếc chăn cũ rồi đem chôn. "Tấm áo quan bằng gỗ mỏng đu đi đu lại, cọ vào chiếc thừng treo lủng lẳng ở đòn ống làm thành những tiếng kẽo kẹt thay cho những tiếng khóc viếng". Những người đàn bà đáng thương này chết như những người ăn mày khốn cùng không thân thích chết đường chết chợ...
Từ cuộc đời đau khổ, nhẫn nhục của bà mẹ mình, Nguyên Hồng đã yêu thương bao nhiêu bà mẹ Việt Nam khác, đã quan tâm tha thiết đến số phận những người phụ nữ bị lễ giáo phong kiến và những lề thói khắc nghiệt của xã hội cũ vùi dập, đày đọa.
Và cũng bắt đầu từ cuộc đời một đứa bé sống cô đơn, ngơ ngác trong một gia đình tàn tạ có "một người cha và một người mẹ tính tình khác nhau, không hiểu biết, không yêu thương và gần như khinh miệt nhau"... sau khi người cha nghiện ngập chết ho lao, người mẹ đi bước nữa, đứa bé bị hắt hủi, sống cô độc lang thang trên các vỉa hè, đường phố: "Tôi cảm thấy một cách cay chua sự trơ trọi hèn hạ của tôi, một đứa trẻ côi cút cùng khổ" (Những ngày thơ ấu). Cuốn hồi ký đầy tinh thần nhân đạo chủ nghĩa này từ năm 1938 đã làm xúc động bao nhiêu tâm hồn bạn đọc, vì nó là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong những lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn" (Thạch Lam).
Từ cuộc đời côi cút, tủi nhục của mình, Nguyên Hồng đã yêu thương bao nhiêu cuộc đời những em bé nghèo khổ, lang thang kiếm ăn ở các thành phố lớn (Hai nhà nghề, Con chó vàng), những em bé còm nhom như con mèo, con các gia đình lao động nghèo khổ ở cái xóm Bà Cả Nam Định, thiếu ăn, thiếu sữa, thiếu sự chăm sóc của bố mẹ và phải làm quần quật ngay từ tuổi thơ, "những đàn trẻ tồng ngồng và lúc nhúc... chẳng kém phần ầm ĩ và khác lạ như của Bạch Mai, Phúc Xá hay Lạc Viên, Chợ con nhiều lắm". (Những mầm non, Cuộc sống). Nguyên Hồng cũng nói đến những em bé sớm bị đày đọa trong các nhà tù đế quốc (Tù trẻ con) và lòng anh đau quặn lên trong một đêm giao thừa nào đó ở nhà lao Nam Định, bỗng nghe một tội nhân... trẻ con thức giấc từ lâu khóc thét mãi lên, những trẻ con ốm yếu của các tù đàn bà vô tội" (Tết của tù đàn bà).
Văn học nhân đạo chủ nghĩa ở phương Đông cũng như phương Tây đều nói nhiều đến nỗi đau khổ của phụ nữ và trẻ em. Đó là những lớp người bị đày đọa nhiều nhất và ít có khả năng tự vệ nhất trong cái xã hội người với người là chó sói.
Trong phạm vi chủ đề này người ta thường nói đến sự gặp gỡ ở một mức độ nào đó giữa Nguyên Hồng với Gorki. Hai nhà văn này đều xây dựng được những hình tượng rất đẹp về những bà mẹ đau khổ từ trong bóng tối của cuộc đời cũ vươn lên ánh sáng, đều quan tâm sâu sắc đến vận mệnh những em bé bị vứt ra ngoài lề của xã hội, đi kiếm ăn lang thang dọc các thành phố lớn, đều băn khoăn đến cả cuộc đời những tầng lớp lưu manh ở dưới đáy của xã hội... Cả hai nhà văn từ buổi thiếu niên cũng đã từng lăn lộn trong tầng lớp phu phen, thuyền thợ, do đó họ viết rất say mê, rất tự hào về những người lao động, về cái đẹp, chất thơ trong lao động. Chính nguồn suối tinh thần yêu thương đó của những người đã từng lam lũ, vất vả, từng đổ mồ hôi để xây dựng nên cuộc sống cũng như những ánh sáng của lý tưởng cộng sản đã tạo nên ở họ một chủ nghĩa lạc quan tràn đầy sức sống, một nguồn tin yêu thắm thiết ở Con Người.
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, các báo chí của Đảng và những báo chí tiến bộ đã nói nhiều đến nỗi thống khổ của dân quê và dân nghèo thành thị. Trước yêu cầu của đông đảo bạn đọc, tờ Ngày nay của Tự lực văn đoàn không thể không nói đến bình dân một cách thời thượng. Từ 1937 Tự lực văn đoàn bắt đầu tặng giải thưởng cho những tác phẩm hiện thực như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng và Kim tiền của Vi Huyền Đắc; rồi từ năm 1938 tờ Ngày nay giới thiệu hồi ký Những ngày thơ ấu.
Gần gũi phần nào với Nguyên Hồng trong Tự lực văn đoàn có lẽ là Thạch Lam. Những truyện ngắn của Nguyên Hồng (Tôi dạy học, Lớp học lẩn lút, Hai mẹ con, Hàng cơm đêm...) và của Thạch Lam (Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Một cơn giận) đều toát lên một tấm lòng nhân đạo đối với cuộc đời đau khổ của những người dân nghèo thành phố. Mặt khác, hai nhà văn là những cây bút hình thành trong không khí của thời kỳ Mặt trận Dân chủ, họ đón nhận hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc nhiều hoặc ít những luồng gió mới, những vang động sâu xa của phong trào cách mạng.
Thạch Lam bắt đầu quen và yêu mến Nguyên Hồng từ sau khi Những ngày thơ ấu được giới thiệu trên tờ Ngày nay.
Tuy cùng viết về những nỗi đau khổ của dân nghèo nhưng Thạch Lam dầu sao cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều khuynh hướng cải lương tư sản của Tự lực văn đoàn, còn Nguyên Hồng thì ngày càng tiến gần lại phong trào vô sản.
Ánh sáng của quan điểm giai cấp và những nhận thức chính trị đã nâng cao chất lượng nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng. Sức tố cáo được tập trung, dồn nén hơn, do đó kết cấu cũng chặt chẽ hơn. Hàng cơm đêm, Nhà bố Nấu, Người đàn bà Tàu, Giọt máu, Buổi chiều xám... là những truyện ngắn hay. Trong truyện Giọt máu, cái không khí ngột ngạt tức thở của những năm 1942-1944, cái dã man tàn bạo của chế độ phát xít đã được phản ánh qua một câu chuyện tưởng như tầm thường, nhỏ bé nhưng lại gây ấn tượng rất sâu đậm trong lòng người đọc. Lối kết cấu tương phản giữa một bên là lũ bóc lột giàu có, bất nhân, cướp đoạt và chà đạp lên mọi thứ một cách tàn bạo và một bên là em bé lặng lẽ như một cái bóng, với hai luống ngô non mà em trồng trên một hố đất, trước kia mụ chủ nhà để cỏ mọc um tùm lẫn với mảnh chai và rác rưởi thối nát. Tất cả cái hạnh phúc nhỏ xíu, mong manh, vô tội, vun xới được qua bao ngày tháng bởi đôi bàn tay non yếu, cuối cùng bị cướp đoạt, phá phách một cách tàn nhẫn, đau xót. Sấm sét, sự tàn bạo đã trút lên đầu những em bé nghèo khổ, nhỏ nhoi, hiền như chiếc lá non, hoàn toàn không có chút khả năng tự vệ và chính vì thế mà sự đối lập nghệ thuật ở đây đã làm cho bạn đọc run lên vì căm giận trước những hành động vô nhân đạo của bọn người giàu có, bóc lột táng tận lương tâm!
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng ngày càng mài sắc tính chiến đấu. Anh phản đối thái độ quỳ mọp dưới tôn giáo để cầu xin sự thưởng phạt công bằng của Chúa. "Nhưng ta đã thấy bao nhiêu xương thịt tan tành, thối nát, bao nhiêu nước mắt và máu đã ngập lụt tỉnh thành, bao nhiêu sinh mạng đã chết và đương chết trong cảnh đói rét bên một đám người hả hê sung sướng mà có bao giờ tìm ra những sự giải quyết của Chúa Trời?" (Tết của tù đàn bà). Nguyên Hồng ca ngợi người mẹ Việt Nam, người đàn bà chịu thương chịu khó, tần tảo, đảm đang, giàu lòng hy sinh, nhưng anh không lý tưởng hóa "đức tính" cam phận, nhẫn nhục, không ca ngợi sự phục tòng như một số nhà văn lãng mạn; anh chủ trương đánh thức dậy ở họ ý thức tự đấu tranh giải phóng, đấu tranh cho cuộc sống bình đẳng, công bằng hơn, hạnh phúc hơn. Người con gái trong Vực thẳm xót xa khi nghĩ đến người mẹ lam lũ đáng thương của mình, người đàn bà thờ chồng, rồi thờ anh chồng, "nhất nhất vâng theo và cúi đầu chịu đựng như đối với thần thánh":
"Không! Tôi không dám làm thơ mê say với con người này đâu. Những nguồn cơn kia đều đẫm những mồ hôi nước mắt của mẹ tôi, sao tôi lại phạm tội ru những người đàn bà xấu số khốn nạn chúng tôi vào đó? Những quang gánh thúng sọt nặng trĩu những ngô khoai, rau muống, bèo kia, kĩu kịt trên những sống vai gầy rạc của cái kiếp người tần tảo, lần hồi, nếu có thành những điệu thơ thì phải là những tiếng kêu rên thống thiết của sự đau đớn chua xót, đòi gọi sự thay đổi cho cuộc đời được no ấm, yên vui, rất xứng đáng phần cho những người mẹ hiền từ, chịu khó" (Vực thẳm).
Trong một số tác phẩm của mình từ 1938 trở về sau, Nguyên Hồng phê phán cái chủ nghĩa nhân đạo than thở theo kiểu thương vay khóc mướn trong văn học lãng mạn và chủ trương một chủ nghĩa nhân đạo thức tỉnh, một chủ nghĩa nhân đạo lạc quan cách mạng. Chính sự khác biệt này trong thế giới quan, trong cách nhìn nhận cuộc sống mà một số truyện ngắn của Nguyên Hồng và Thạch Lam, nhìn bên ngoài tưởng như giống nhau vì cùng viết về một loại đề tài và nhân vật, nhưng bên trong lại chứa đựng nhiều sắc thái rất khác nhau.
Trước đây thỉnh thoảng Nguyên Hồng lại có một truyện đề tặng Thạch Lam. Có khi cả một tập truyện ngắn. Hàng cơm đêm hơi giống truyện Hai đứa trẻ (1938) của Thạch Lam. Thạch Lam viết về một phố huyện gần ga xép. Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, tiếng ồn ào đã lắng hẳn. Đêm xuống. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, bã mía quen thuộc quá, khiến hai đứa bé "tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này". Phố huyện chìm sâu vào bóng tối của một vùng quê mênh mông. Chỉ còn một vài chấm sáng lù mù quen thuộc xung quanh ngọn đèn con của một chõng hàng nước, cái bếp lửa của hàng phở khuya vắng khách và ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa của một cửa hàng tạp hóa. Trong cái cảnh chìm chìm nhạt nhạt và vắng lặng đó, đêm nào cũng có một đoàn tàu đi qua, mang theo những luồng ánh sáng quét mạnh vào hai bên và tiếng ồn ào làm xao động cả một phố huyện yên tĩnh. Đoàn tàu như mang đến một thế giới khác hẳn với cái vầng sáng lù mù của mấy ngọn đèn quanh quất nơi phố vắng của một huyện nhỏ. Một chút ánh sáng ở một thế giới xa xăm, những ước mơ của hai đứa trẻ vụt đến và đi qua, phố huyện lại chìm sâu vào bóng tối hiu quạnh...
Thạch Lam viết truyện với một nghệ thuật tinh tế, nhất là việc sử dụng sự tương phản và hài hòa giữa các âm thanh, giữa các vùng ánh sáng. Câu chuyện để lại trong tâm hồn ta những dư vị đằm thắm của quê hương và một sự cảm thương man mác những cuộc đời thầm lặng như những chấm sáng lù mù bị nhòe đi trong bóng tối dày đặc của một vùng quê tù đọng.
Nguyên Hồng chưa có được cái tinh tế, cái lắng sâu vào bên trong đó của bút pháp Thạch Lam. Tuy nhiên truyện ngắn của anh lại có những âm thanh và màu sắc riêng, nó nói lên cái khỏe, cái vui hồn hậu và lạc quan của cuộc đời lao động mồ hôi nước mắt. Nguyên Hồng cũng viết về một phố nhỏ gần một cái chợ. Cũng một thứ mùi nồng nực của rác rưởi quanh chợ chưa được quét dọn. Cũng những ngọn đèn của các hàng cơm đêm, hàng phở, hàng tạp hóa, hàng mã, hàng thiếc, của cái mái lá tồi tàn những gia đình phu phen lao động. Ngoài phố "những cây bàng cao và to đẫm bóng tối, dán xuống đường những bóng lá đen sẫm". Trên mặt đường cũng những bóng người thưa thớt lặng lẽ đi lại và "thỉnh thoảng tiếng rao phở phào lên rồi mất trong sương khuya". Nhưng trước khi cái phố chợ chìm vào trong đêm thì ta đã nghe mọi thứ tiếng ồn ào, huyên náo lúc hoàng hôn đang dần dần xuống: tiếng chuông xe đạp bấm liên thanh của học sinh và công chức, tiếng guốc khua, tiếng xe bò chuyển ầm ầm vì đường phố gồ ghề và tiếng va chạm của xẻng, cuốc, ván gỗ trong thùng xe, tiếng mời chào mặc cả, cãi vã ầm ĩ hai bên đường... và trong cửa hàng cơm là tiếng chuyện trò cười nói vui vẻ của phu phen, thuyền thợ "quần áo rách rưới và lấm láp của họ thở ra những mùi khét lẹt của dầu mỡ, cát bụi và bùn lầy mà họ đã đầm đìa ở những xưởng máy, những kho hàng, những hầm tầu, những lán gỗ", tiếng đùa nghịch chòng ghẹo nhau của "những chị phu hồ, phu than ríu rít như bầy chim sẻ".
Cuộc đời tầm thường, đáng thương của những người dân nghèo trong truyện ngắn của các nhà văn lãng mạn cứ lặng lẽ trôi đi trong sự an phận, chịu đựng, cái thế giới tĩnh tại ấy gần như không thể thay đổi; còn trong truyện ngắn Nguyên Hồng những người lao động thuyền thợ, tự tin ở năng lực của mình, ở sự làm việc cần cù của mình, đã bắt đầu hy vọng một sự thay đổi, một cuộc đời mới. Vịnh, cô gái bán hàng cơm đêm đã cảm thấy ngạt thở, tù túng trong cuộc đời cũ, hy vọng "một sự phá bỏ rồi thay đổi hẳn lại thì mới được thở một bầu không khí trong lành, một nguồn ánh sáng rực rỡ bên một cuộc đời mới, không đói rét, không đầu tắt mặt tối. Sự lật đổ và làm mới lại ấy, Vịnh chưa cảm thấy... Nhưng có một cái gì soi chiếu vào tâm trí nàng, một cái gì gợi dậy tất cả năng lực, tất cả lửa lòng của Vịnh lên" (Hàng cơm đêm). Từ những truyện ngắn đầy tinh thần nhân đạo chủ nghĩa đăng trên các báo chí công khai năm 1939, Nguyên Hồng đã muốn rọi "một tia sáng vào dòng đời tối tăm chảy nặng nề" của những người dân nghèo thành phố, muốn đánh thức dậy cái tinh thần đấu tranh "tự giải phóng thoát khỏi những sự áp chế bằng những năng lực dồi dào sẵn có" của chính họ (Hai mẹ con). Cho nên trong truyện và tiểu thuyết Nguyên Hồng đã tập trung miêu tả "những tia mắt nảy lửa" của mấy người đàn bà ở đề lao Nam Định, khi họ bị khám xét và làm nhục, đã khai thác cái ý thức căm thù và phản kháng, "dám đối chọi chứ không chịu một bề van xin", của những người dân nghèo bị cắm nhà cắm đất (Hơi thở tàn), đã chứng minh lẽ tất yếu phải có "một sự chồm dậy, hất tung và san bằng những cái đè nén và ràng buộc cái đời đàn bà nhà quê cằn cỗi" (Cô gái quê). Ảnh hưởng của sách báo macxit và những hậu thuẫn của phong trào đấu tranh thời kỳ Mặt trận Dân chủ đã giúp cho những tác phẩm của Nguyên Hồng ngày càng mài sắc thêm tính chiến đấu và thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo cách mạng cao cả của giai cấp công nhân.
Ngay từ tháng 6 năm 1939, trên tờ báo Mới của Đoàn thanh niên Dân chủ, Nguyên Hồng đã cất tiếng kêu gọi thống thiết, đấu tranh giành quyền sống cho các trẻ em, cho các bà mẹ lao động ở Việt Nam và trên toàn thế giới.
"Phải mau trả lại sữa cho những người mẹ làm lụng đầu tắt mặt tối ở những xưởng thợ, những nhà máy, những kho hàng, không có thì giờ chăm ẵm con, không có đủ thức ăn uống để lấy sữa cho con bú, trong khi mồ hôi, nước mắt và khí lực của mình đã trút ra thành vải vóc, vàng bạc, rượu thịt cho các ông chủ bụng phệ, các bà chủ béo ú, cùng với bầu đàn thê tử nhà họ an nhàn ngồi hưởng...
Phải đem sữa lại cho những bà mẹ nhiều con dại ở các nước bị chiến tranh tàn phá; những người mẹ đang để tang cha chồng, anh em; những người mẹ phải thay những người đã chết vì chiến tranh kia, làm đủ mọi việc để có đủ quần áo và lương thực cho tụi quân lính hung hãn đi xâm chiếm những nước yếu hèn. Phải trả lại sữa cho những cái miệng bé nhỏ há rộng, lưỡi gần cứng đờ đó, dưới những bầu vú lép.
Những cái miệng khát sữa, chỉ mong sữa trong khi những mụ đàn bà phú hào và quý tộc tắm bằng sữa cho da thịt mịn màng, trong khi bọn tư sản đổ hàng ngàn, vạn thùng sữa xuống biển để có thể bán chỗ sữa còn lại với giá đắt trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng" (Những giọt sữa).
⚝ ❖ ⚝
Không phải lúc nào Nguyên Hồng cũng viết bằng một bút pháp hiện thực tỉnh táo và nói chung, ít khi anh sử dụng một lối viết nặng về trí tuệ. Ở anh, những yếu tố nội tâm, những tình cảm sôi nổi, dạt dào từ bên trong đôi lúc cứ muốn lấn lướt, trùm lên cái hiện thực khách quan được miêu tả.
Người ta thường nói đến màu sắc trữ tình lãng mạn trong những tác phẩm của Nguyên Hồng. Chính do cái chất trữ tình sôi nổi thiết tha đó mà tác phẩm của anh làm cho người đọc xúc động, nó luôn luôn mang đến cho tuổi trẻ những tình cảm tin yêu thắm thiết, những ước mơ hy vọng về tương lai, những khát vọng vươn lên ánh sáng của lý tưởng cao đẹp.
Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu chưa đi thẳng vào những trung tâm mâu thuẫn của hiện thực khách quan lúc bấy giờ, mà dường như lại thu hút chúng ta bởi những cảm xúc tươi mới trong sáng, dào dạt của một cây bút trẻ đang dễ xúc động, dễ ngạc nhiên trước cuộc sống, bởi những kỷ niệm đau xót, những rung động chân thành của một linh hồn trẻ dại bị lạc loài, bị vùi dập trong lòng một gia đình cũ kỹ sắp tàn.
Những ngày thơ ấu là những lời tâm sự thiết tha, thầm kín, những hồi ức của một cái "Tôi" đau khổ tự trình bày cuộc đời riêng tư của mình trên trang giấy một cách chân thành, tin cậy (trước đó, trong văn học ta chưa nhiều những hồi ký như thế):
"Thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì thương yêu nhau, sự trái ngược cay đắng đó tôi đã hiểu rõ rệt và thấm thía ngay từ năm tôi lên bảy lên tám... Những buổi chiều vàng lặng lẽ, lạnh lẽo của mùa đông, những buổi chiều mà bụi mưa như có một thứ tiếng van lơn thầm thì trong hơi gió vu vu, lửa lò than rực rỡ vờn lên chân tường những ánh hồng lấp lánh hay rủ rê tâm trí người ta vào những cõi buồn nhớ là những buổi chiều làm tê tái mẹ tôi hơn hết".
Trong tập hồi ký rất xúc động này, Nguyên Hồng đã lắng nghe được những âm vang sâu lắng của tâm hồn, ghi nhận được những cảm giác tinh tế tự bên trong và diễn tả chúng qua cái nhìn hồn nhiên, tươi sáng của tuổi thơ, khiến cho ta có cảm tưởng thú vị như được đưa về "thời thơ ấu của nhân loại":
"Tôi ngồi lên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt... Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng".
Cũng như một số nhà văn trẻ thời ấy, Nguyên Hồng đã bắt đầu cuộc đời sáng tác của mình bằng một đôi mắt xanh non, một cái nhìn rất độc đáo, tươi mới, trẻ trung.
Đó là cái tuổi mà tâm hồn dễ xúc động, các kỷ niệm để lại những ấn tượng sâu sắc, mênh mang như cái ánh trăng bàng bạc của đêm thu đầy trăng, xao xuyến như hương hoa cau hoa lý ngát thơm cả một góc vườn đang vỡ lở ra trong tiếng khóc nức nở của hai mẹ con người đàn bà tội nghiệp, đáng thương (Mợ Du). Đó cũng là một tâm hồn ham mê thanh sắc, đắm chìm trong những cảnh đẹp rực rỡ, quyến rũ của thiên nhiên: một bầu trời xanh trong bát ngát "với ánh nắng rực rỡ phấp phới trên các cành cây lá óng ả, mượt nõn và những chòm xoan xanh tươi hứa hẹn màu thắm của các vừng hoa đỏ" (Những ngày thơ ấu); "những hương hoa quả thơm nồng, bay thấp thoáng trong không khí tê mê rạo rực", những "tiếng chim chích chòe đậu trên những ngọn cau, ngọn xoan, hót lanh lảnh, vang rất xa dưới vùng trời bao la và lấp lánh" (Vực thẳm).
Đó cũng là một sự sống ngùn ngụt, nóng hổi, một lòng "ham sống dào dạt", trong ấy mọi thứ đều như rung lên cùng với một lòng thương yêu thắm thiết,trong ấy như có một lớp sóng cứ trào lên không ngớt, như có một thứ tiếng rùng rùng âm vang bát ngát. Cái sức sống bên trong đó là sự rung động đến cực điểm của "một quả tim trên hai mươi tuổi đẫm máu đỏ tươi và hơi thở nóng nảy" (Cuộc sống). Tôi nhớ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, một lần phải dịch ra Pháp văn một đoạn trong Những ngày thơ ấu, cái đoạn nói về tiếng kèn náo nức, dồn dập rung vang đó:
"Tiếng kèn mỗi giây một dướn cao, một vang to, rung động cả làn không khí êm ả của một góc trời. Rồi nương tiếng gió lao xao trong những chòm cây phấp phới, âm thanh náo nức, dồn dập của tiếng kèn càng cuốn lên cao, tràn ra xa, rất xa, đến những vùng xa sáng tươi nào đó. Càng về sau tiếng kèn càng niềm nở, ân cần như những lời thúc giục thống thiết... Hãy bước đi, hãy bước đi, như làn lá nhỏ bay theo gió... Tiếng kèn vồn vã vẫn rõ ràng, trong sáng và bầu trời mở rộng rung vang...".
Cả tập thư trong Cuộc sống cũng là một lòng yêu đời đắm đuối, thiết tha. Đó là những dòng nhật ký của tác giả lúc bị giam ở trại Bắc Mê, ngồi nhớ về phố Cảng thân yêu của mình. Hải Phòng hiện ra với "một bầu trời tràn ngập ánh sáng nắng rực, những tiếng cười nói và những cử chỉ không thể kìm hãm được", những "sự rạo rực đã phát tiết ra" và khắp nơi" cây cỏ rung lên trước gió, mưa rào rào phấn vàng phấn bạc vãi tung ra khắp bốn phương trời những hột bụi nảy nở của muôn ngàn bầu nhị" (Những mầm sống).
Trong các tác phẩm của Nguyên Hồng thời kỳ đầu, những tình cảm không những tươi mới, trẻ trung, mà lúc nào cũng được biểu hiện ở cường độ cao: nó phải ngùn ngụt nóng hổi, nó phải đằm thắm thiết tha, nó phải trong ngần tươi mát... Còn những cảnh sắc thì bao giờ cũng lao xao, phấp phới, chói lòa rực rỡ hoặc rùng rùng âm vang...
Dường như cái sức sống tự bên trong tâm hồn nhà văn, một cái gì say sưa, rạo rực, tha thiết tin yêu đã in dấu lên mọi cảnh vật, mọi màu sắc. Nó làm cho những cảnh sắc đó sôi động hẳn lên, rung lên, vang lên mạnh mẽ, thu hút tình cảm người đọc, khiến cho người ta không thể dửng dưng lạnh nhạt trước một sự chân thành, nồng nhiệt đến như thế.
Đã có lúc Nguyên Hồng cho rằng sự đòi hỏi thôi thúc của nội tâm, cái nhiệt tình, sôi nổi tha thiết tự bên trong là điều kiện gần như tất cả đối với một nhà văn. Hồi đó anh bị bắt ở Hải Phòng và bị đưa đi Bắc Mê (Hà Giang), phải nghỉ viết vừa đúng ba năm! Cho nên cũng dễ hiểu khi anh cho rằng trong tác phẩm chỉ cần "sự cởi mở của tâm hồn", "sự giao cảm với cuộc đời", "sự thiết tha tìm thấy trong Người" mà anh "không thể nén nhịn được phải kêu lên ráo phổi với Người". "Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào thiếu những cái đó là không có tất cả, là chết!" (Cuộc sống).
Tất nhiên không có ngọn lửa bên trong đó thì nghệ thuật không thể gây được sự say mê, xúc động trong lòng người đọc. Nhưng ở Nguyên Hồng, cái bên trong đôi lúc lấn lướt cái bên ngoài, sự say sưa chủ quan không kết hợp được với sự tỉnh táo khách quan. Văn xuôi đòi hỏi một vốn sống, một sự từng trải, kể cả một trí tuệ tỉnh táo để làm cho nhân vật hiện lên, đi đứng khóc cười như trong cuộc đời thật. Cái ngọn lửa say mê tự bên trong đó có thể làm nên chất thơ, chất trữ tình đằm thắm, chứ chưa đủ để làm cho nhân vật sống động, gân guốc, tạo hình nghĩa là có một vận mệnh riêng, một kiểu ngôn ngữ hành động và đời sống tâm lý riêng. Cho nên với ngọn lửa ngùn ngụt bên trong đó, Nguyên Hồng đã viết nên một Cuộc sống bằng thư, chứ chưa phải là dựng lên những nhân vật, những trang tiểu thuyết. Văn xuôi hiện thực, dù là văn xuôi trữ tình, cũng không thể chỉ tự ca hát mình, chỉ bình giá hiện thực, mà còn có nhiệm vụ tái tạo cái hiện thực khách quan như nó vốn có.
Trên kia ta thấy trong văn Nguyên Hồng luôn luôn có nắng gió lao xao, phấp phới, rực rỡ và một bầu trời xanh trong lấp lánh rất đẹp. Cái đó là gì, nếu không phải là lòng ham sống, tin yêu cuộc sống, là vẻ đẹp của lý tưởng, là những ước mơ lãng mạn về tương lai.
Chứng kiến cái cảnh con người bị cưỡng đoạt, bị sa đọa trong xã hội đồng tiền, Nguyên Hồng khao khát một cuộc sống của những người lao động thương yêu, đùm bọc lẫn nhau và luôn luôn vươn đến những cái gì cao quý, trong trắng, nó là vẻ đẹp, là chất thơ của cuộc đời. Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của anh có nguồn gốc sâu xa từ cái nhân hậu của những người dân nghèo Việt Nam, từ cái trung hậu công bằng của những truyện cổ tích, cái bát ngát tươi thắm của ca dao. Còn chất thơ trong văn xuôi của anh thì đó là sự rung cảm trước cái đẹp của cuộc sống vất vả, ồn ào của những người lao động. Trong cuộc sống, trong lao động có một vẻ đẹp, một chất thơ riêng, rất giàu màu sắc lãng mạn. Có lẽ Nguyên Hồng là nhà văn đầu tiên ở nước ta ca ngợi vẻ đẹp của lao động. Tác phẩm Cuộc sống (1942) là một thứ tuyên ngôn về chất thơ trong lao động. Chất thơ lãng mạn chan chứa, đậm đà trong từng trang sách, khi Nguyên Hồng ở căng Bắc Mê (Hà Giang) nhớ về thành phố Cảng thân yêu của mình. Dù bị bóc lột, bị cướp đoạt, bị đày đọa, cuộc sống của những người lao động vẫn cứ vươn lên với một sức mạnh, một vẻ đẹp không thể gì dập tắt nổi! Cái nhìn của Nguyên Hồng ở đây rất giống với cái nhìn tin tưởng đầy tính chất nhân đạo của Gorki.
Màu sắc lãng mạn cách mạng đã ánh lên qua các truyện ngắn của Nguyên Hồng thời kỳ 1938-1939 và qua những trang đầy chất thơ trong Cuộc sống.
1-5-1939, trên tờ báo Mới số 1 xuất bản ở Sài Gòn, bên cạnh những vần thơ của Tố Hữu ta được đọc một tác phẩm của Nguyên Hồng ca ngợi lao động của thợ thuyền tràn đầy ánh sáng tương lai:
"Một góc thành phố chuyển động vì sự nhộn nhịp, huyên náo làm bằng tiếng guốc khua vang, tiếng cười nói tràn lên như gió bão, tiếng xe bò chuyển ầm ầm, tiếng chuông ran không ngớt của muôn ngàn người cùng chung một đường đi, cùng dưới một bầu trời tràn ngập ánh nắng rực rỡ này... Một ai đây dù hoài nghi cũng phải tin rằng cái hình thức tối tăm, cằn cỗi và như thối nát của sự sống một phần nhân loại lầm than chỉ là một cái vỏ mỏng sắp sửa nổ vỡ. Vì trong cái vỏ ấy, bao nhiêu mầm sống nảy nở đã chín muồi sắp chồm dậy, sắp xé tung sự trùm lấn, đè ép để tự do thở hít ánh sáng và khí trời để tràn lên mênh mông.
Làn sóng người đã lan ra khắp hang cùng ngõ hẻm. Người ta mong đợi một ngày kia làn sóng cuồn cuộn ngày hôm nay sẽ lôi cuốn được tất cả những làn sóng rải rác khác để chồm lên và vượt qua những dốc cản trở, những tảng đá đè nén, những hố sâu vùi dập, để đi tới một dải đất rực rỡ, sán lạn như bầu trời xuân tràn ngập ánh nắng trong buổi trưa này" (Những mầm sống).
Chất lãng mạn cách mạng trong văn Nguyên Hồng, như trên đã nói, bắt nguồn từ một tâm hồn bị vùi dập, bị đày đọa, nhưng chính vì thế mà càng yêu đời, yêu cuộc sống, luôn luôn muốn vươn lên một cuộc sống tươi đẹp hơn, công bằng hơn; mặt khác, chất lãng mạn cách mạng đó lại được khơi dậy từ những ảnh hưởng sâu sắc có tầm quyết định của Đảng đối với một thanh niên đang say sưa đi tìm lý tưởng. Những ảnh hưởng của Đảng, của phong trào và sách báo macxit tiến bộ như một "thứ ánh sáng đã làm sôi nổi cả người tôi và cả cái tuổi... lần đầu tiên bứt rứt thấy trong mình mọng những sinh lực tươi tốt và những khả năng vĩ đại" (Cuộc sống).
Trong văn xuôi của Nguyên Hồng có một chất say. Cái say của văn Nguyên Hồng thời đó cũng có phần nào giống cái say mê, cuốn hút của thơ Tố Hữu lúc gặp ánh sáng của Đảng. Ở Tố Hữu, "mặt trời chân lý" đã bừng sáng trong tâm hồn và anh đã thành một chiến sĩ. Còn Nguyên Hồng thì tuy còn ở trong thời kỳ quyết tâm nhập vào đội ngũ ấy nhưng đã bắt đầu nhận ra vẻ đẹp của lý tưởng, đã tự nguyện đi dưới ánh sáng của "mặt trời chân lý". Tập thơ Từ ấy có cái say của một mối tình đầu đến với cách mạng. Tác phẩm của Nguyên Hồng những năm 1938-1939 về sau cũng có cái tâm trạng của một thanh ni?