← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 2

CHƯƠNG 2

ƯỢT RA KHỎI HOÀNG THÀNH, nam hắc y dìu hắc y vào trong ngôi chùa Thi La ở cuối phường Thịnh Hào, vẫn nằm trong kinh thành. Đây là một ngôi chùa cổ, bỏ hoang phế rất lâu, không có ai lai vãng. Khi cả hai vừa trốn vào trong chùa thì bên ngoài tiếng chân và vó ngựa của quan binh chạy rầm rập, đèn đuốc sáng ngời. Mọi nhà dân đều đã thức giấc nhưng ai nấy đều cửa kín then cài, nghe ngóng, lúc này không dại gì mở cửa.

Đỡ hắc y ngồi dựa vào tường, nam hắc y gọi khẽ:

- Cô nương đỡ đau chưa?

Khi tay y vừa chạm vào vết thương trên vai thì hắc y giật mình mở mắt, nàng vung quyền đẩy gã hắc y dạt ra xa và quát lên.

- Ngươi muốn làm gì vậy?

Nam hắc y tủm tỉm cười.

- Tại hạ chỉ muốn xem vết thương cho cô nương thôi.

- Thật không? Hắc y nhìn người bịt mặt ngồi đối diện dò hỏi. Tuy không thấy mặt y, nhưng nhìn ánh mắt hắn ta nàng cũng hiểu rằng người này không có ác ý. Chưa kể trong cấm cung vừa rồi nếu y không ra tay giúp đỡ, chưa chắc nàng còn ngồi được ở đây. Tuy nhiên nàng vẫn thấy trong lòng nghi ngại.

- Kệ ta. Ta phải đi đây. - Nàng loạng choạng tựa vào tường đứng dậy. Nam hắc y đưa tay chặn lại.

- Cô nương. Cô đã bị trúng ám khí hạt thiết thủ gần huyệt kiên tỉnh. Nay vết thương đang tấy lên. Nếu không kịp thời tìm cách lấy ám khí ra, để lâu e rằng cánh tay này sẽ bị hư.

- Ta... Hắc y ngập ngừng, nàng hiểu rằng đối phương nói thật. Bây giờ đã thấy tê dại một bên người, nàng hiểu rằng mình không đủ sức thoát ra khỏi kinh thành, trong khi bọn quan binh đang lùng sục ngoài kia. Tuy nhiên là phận gái, nếu để lộ trần cánh tay trước một kẻ lạ không rõ thân phận, dù cho y đã từng cứu mình, nàng rất ngại.

Dường như hiểu tâm ý nàng, nam hắc y đưa tay trịnh trọng lập lời thề.

- Tại hạ chỉ muốn cứu cô nương. Xin lập lời thê, nếu có ý gì khác, trời đất sẽ trừng phạt.

Hơi yên tâm, hắc y từ từ ngồi xuống. Nàng ngập ngừng:

- Còn một điều nữa...

- Chuyện gì?

- Huynh đệ, ngươi có thể bỏ khăn bịt mặt của mình ra được không?

Nam hắc y ngẩn người, ngần ngừ. Việc chàng lộ diện tức sẽ lộ ra sự thật của mình trước hắc y làm cho chàng khó xử. Bấy lâu nay thân phận chàng vẫn được giữ kín vì công việc đại sự. Biết thật về chàng chỉ có một vài người. Nhìn vẻ ngập ngừng của chàng, hắc y bỗng nổi giận.

- Ngươi khỏi cần nhọc công làm gì. Và cũng không cần phải cứu ta nữa, để ta đi.

Nhìn nàng loạng choạng đứng dậy, nam hắc y bỗng mềm lòng, chàng kêu lên:

- Cô nương...

Hắc y quay lại và đối diện với một khuôn mặt tuấn tú đến không ngờ của hắc y kia. Y cầm tấm khăn bịt mặt trên tay nhìn nàng phân bua.

- Tại hạ tên là Nguyên Vũ, Trần Nguyên Vũ. Vì mang trọng lệnh bên mình nên ít khi lộ diện cho ai biết thân phận thật của mình, chứ không hề có ý gì.

Hắc y mỉm cười và đột nhiên nàng ngã nghiêng nếu như Nguyên Vũ không kịp đỡ lấy. Ôm thân hình mềm mại, thơm ngát mùi hương của nàng, chàng thấy tâm tìôn chao đảo. Nguyên Vũ phải dân lòng định thần, tránh tà niệm. Chàng cẩn thận đặt hắc y nàm xuống nền nhà và gọi nhỏ “cô nương”, nhưng không có tiếng trả lời, nàng ta đã bị hôn mê mất rồi.

Nguyên Vũ hơi ngần ngừ trước khi gỡ tấm khăn bịt mặt của nàng ra. Dù cho đang bị thương, nhưng sác diện màu hoa đào của người đẹp vãn khiến cho chàng trai không khỏi ngẩn ngơ. Tuy nhiên nhìn nàng ta cũng trên 30, hơn tuổi chàng.

Nguyên Vũ dằn lòng mình, thận trọng xé vải trên tay áo của nàng và dùng mũi kiếm dò tìm ám khí thiết thủ. Cũng may sau khi trúng ám khí, hắc y đã kịp phong bế huyệt đạo nên ám khí không vào sâu trong người. “Đây rồi“, chàng thở phào, sau một tìôi dùng tay nám nhẹ theo cánh tay nàng, cuối cùng chàng cũng tìm thấy hạt thiết thủ nằm ở gần khủy tay và dùng mũi kiếm chích nhẹ lấy ra. Cầm hạt thiết thủ hình đa giác, lóng lánh, bé tí, Nguyên Vũ lắc đầu. Chàng cẩn thận đặt hắc y nằm ngay ngán, kéo áo che cho nàng cẩn thận và sau đó lùi xa một chút, ngồi xuống xếp bằng vận khí một lát, rồi nghẹo đầu ngủ say.

Khi những ánh náng chiếu vào mặt, ngoài kia có tiếng chân người bước lao xao, Nguyên Vũ giật mình tỉnh giấc. Chàng mở mắt nhìn, không thấy hắc y đâu cả. Nàng đã bỏ đi mất rồi. Chàng nhìn thấy trên nền nhà có hàng chữ viết bằng gạch son đỏ: “Trần đệ, tỷ tên là Xuân Hương. Đa tạ đệ đã trợ giúp tối qua. Nếu hữu duyên chúng ta sẽ gặp lại. Tạm biệt.” Và chàng nhận thấy trên tay có một mảnh khăn hồng, thêu hai cánh hoa đào, chắc do Xuân Hương cố ý để lại. Nguyên Vũ bồi hồi hít hà mùi hương thoang thoảng của người đẹp như vẫn còn phảng phất đâu đây.

* - Trần tướng quân... Trần tướng quân...

Có tiếng đập cửa và tiếng gọi của Tổng quản phủ Lạng Sơn vương. Trần Nguyên Vũ giả tảng không nghe, một lát sau, chàng mới chịu đi ra mở cửa. Lão Tổng quản nhìn chàng trách:

- Gớm sao hôm nay tướng quân ngủ say thế.

- À... hôm qua tại hạ ở Hoa Xuân lầu có quá chén. Tổng quản, có chuyện gì mà gọi cửa gấp vậy?

- Vương gia cho triệu tướng quân sang gặp gấp.

Nguyên Vũ gật đầu đi vào sửa soạn y phục. Không nói nhưng chàng cũng thầm đoán chắc chắn là việc thích khách đột nhập vào Hoàng cung tối qua.

Phủ Lạng Sơn vương nằm ở đầu hồ Liễu Giai thuộc phường Thành Nguyên, gần cửa Đại Hưng phía nam của Đông Kinh. Đây là một tòa nhà rộng lớn, nhà nối nhà, kéo dài cả nửa dặm. Bên trong có hồ cá, ao sen, rừng cây, vườn hoa... Có lẽ đây là phủ đệ lớn nhất của kinh thành. Khi xưa, sau khi truất ngôi thái tử của Lê Nghi Dân, Thái Tông Hoàng đế nghĩ cũng thương tình nên quyết định chọn ngôi phủ này ban cho mẹ con Nghi Dân ở. Đây là tòa hành cung vốn được xây dựng cho nhà vua nghỉ ngơi mỗi khi đi ra ngoài.

Một bầu không khí căng thẳng lạ thường thấy rõ qua nét mặt mấy tên lính gác vương phủ. Nhận ra võ tướng của vương phủ, bọn chúng chào lễ phép và rộng cửa mời chàng vào, không khám xét gât gao như người khác. Khi Nguyên Vũ vừa đi vào đến bên trong nhà lớn đã thấy Lạng Sơn vương đang ngồi chờ, thần sác vương gia nghiêm trọng.

Chàng chưa kịp chắp tay chào, Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân đã ra hiệu ngồi xuống và nói ngay.

- Nguyên Vũ, có chuyện rồi.

Nguyên Vũ giả tảng ngơ ngác, không hiểu ý. Lạng Sơn vương ghé sát tai chàng thì thào.

- Ta mới được tin, tối qua có thích khách đột nhập vào Hoàng cung để hành thích Hoàng thái hậu. Sáng nay khâp kinh thành náo loạn vì Cấm vệ quân và Cẩm y vệ đang đi lùng bắt thích khách.

Trần Nguyên Vũ tròn mắt.

- Bẩm vương gia thật sao? Chàng lâc đầu tỏ vẻ hoài nghi - Hoàng cung canh gác nghiêm ngặt. Cẩm y vệ võ nghệ cao cường, dễ gì người lạ lọt vào, làm sao có thể nói là hành thích Hoàng thái hậu được?

- Hà... hà... ngươi thật ngây thơ. Bọn Cẩm y vệ võ công cao cường thật. Nhưng chỉ có thể với người thường thôi, chứ còn với cao thủ thì bọn chúng đâu có nghĩa lý gì.

Nguyên Vũ im lặng chấp nhận lời nói hữu lý ấy. Lạng Sơn vương thừ người ra lầm bầm.

- Thích khách ấy là ai nhỉ?

- Bẩm vương gia. Thái hậu đã giết nhiêu người thì thiếu gì kẻ thù oán bà ta muốn trả thù.

- Ta cũng biết vậy. - Lạng Sơn vương gật đầu - Tuy nhiên việc này lại làm hỏng những toan tính của chúng ta, bởi nhất định Thái hậu sẽ tăng cường phòng bị. Điều này sẽ càng làm khó khăn hơn cho chúng ta trong những ngày sáp tới.

Trần Nguyên Vũ gật gù, chàng hiểu ý của vương gia. Sau vụ việc này nhất định Hoàng thái hậu sẽ tăng cường phòng bị, và trong những ngày sắp tới mưu đồ việc lớn của Lạng Sơn vương chắc sẽ bị chậm trễ.

- Ta muốn ngươi...

Lạng Sơn vương ngừng lời khi thấy một tên lính đi vào.

- Bẩm vương gia... Tên lính đi vào quỳ xuống.

Lạng Sơn vương hất hàm: - Chuyện gì?

- Thưa vương gia, Tam gia đã về rồi, đang chờ lệnh bên ngoài.

- Bọn họ đã về rồi ư? Lạng Sơn vương tỏ vẻ vui mừng - Cho gọi họ vào ngay. Nguyên Vũ, - Lạng Sơn vương quay lại nhìn Nguyên Vũ -Này, ngươi hãy qua thăm quan Đô chỉ huy và nói là ta có lời hỏi thăm. Nhân dịp này ngươi hãy tranh thủ dò la tình hình xem bọn họ đã tìm ra manh mối gì chưa và rồi về báo cho ta rõ.

- Thưa vâng.

Trần Nguyên Vũ đứng dậy đi ra và đụng bọn võ lâm Tam gia từ ngoài đi vào. Đây là những cao thủ giang hồ lừng danh và là khách đặc biệt của phủ Lạng Sơn vương.

Đại tam gia Ưng Trảo vương Tử Kính lướt qua không nhìn chàng, còn Thiết trọc Đoan Đông thì ném ánh mắt khó chịu gườm gườm, ngược lại Lý tú tài nở nụ cười tươi như hoa với Nguyên Vũ.

Võ lâm Tam gia thành danh ở chốn giang hồ đã lâu, danh tiếng của bọn họ không những vang vọng ở nước Đại Việt mà sang tận đất nhà Minh. Trong đó khét tiếng nhất vẫn là Ưng Trảo vương Tử Kính mà bình thường người đời vẫn gọi là Trảo vương. Ưng Trảo vương Tử Kính hình như xưa nay rất ít có đối thủ. Ông ta vốn là một trong những môn hạ đắc ý của viên tướng Minh triều Thích Kế Quang, học được những võ thuật tâm huyết nhất của Thích Kế Quang ghi trong cuốn “Quyền Kinh tiệp yếu”. Sau khi Thích Kế Quang bị thất sủng buộc phải từ chức Tổng binh Quảng Châu và về chết trong uất ức ở quê nhà Bồng Lai, Ưng Trảo vương Tử Kính một mình một ngựa lang thang khắp giang hồ, dùng hai bàn tay sắt đả bại nhiều cao thủ võ lâm và được anh hùng trong thiên hạ tôn xưng là Trảo vương. Lý tú tài tên thật là gì không ai biết. Chỉ theo như lời y kể lại thì trong cuộc đời học tập của mình y đã năm lần bảy lượt lên kinh ứng thi, nhưng đều trượt. Uất hận, lần cuối y gieo mình xuống vực sâu tự tử, không ngờ được một cao nhân cứu mạng và truyền dạy cho môn võ công thiết phiến. Cũng từ đó Lý tú tài tung hoàng giang hồ với vũ khí là cây quạt giấy và luôn tự xưng là một hàn Nho thất thế của thời cuộc. Con người này thâm hiểm và rất nhiều mưu mẹo, quả xứng danh là tú tài. Ngược lại Thiết trọc Đoan Đông vốn là một tướng cướp thổ phỉ khét tiếng của vùng Hưng Hóa. Tên tướng cướp trọc đâu, mắt trố, ngu xuẩn và nổi tiếng là tàn bạo, giết người như ngóe và luôn ăn gan uống máu người làm thú vui, đó chính là Đoan Đông. Vũ khí của y là cặp vòng cần khôn quyện bằng vàng, có lưỡi sâc và đã nhuốm máu nhiều cao thủ lẫn thường dân vô tội. Quan quân triều đình đã bao nhiêu lần truy bắt Đoan Đông mà đều không được, treo giải thưởng rất cao, thế nhưng chẳng ai làm gì được y. Cho đến một ngày kia, Thiết trọc Đoan Đông bất ngờ biến mất khỏi vùng Hưng Hóa, làm cho dân cả vùng này mừng vui, nhiều nhà lập bàn thờ cúng lạy tạ trời đất, nhưng cũng không ai hiểu vì sao. Mọi chuyện đều có nguyên nhân của nó. Năm đó, Đoan Đông một lần đã tấn công một đoàn khách thương buôn vải từ biên giới nhà Minh về nước Nam. Sau khi giết toàn bộ đàn ông, chỉ còn một lũ đàn bà và trẻ nhỏ, Đoan Đông bắt nhốt họ vào động đá của mình và y dự tính mỗi ngày sẽ hãm hiếp một người đàn bà rồi sau đó giết chết. Người đàn bà thứ nhất đã bị số phận bi thảm như vậy, đến người thứ hai thì vô tình gặp Trảo vương có việc đi nước Việt. Thực ra Tử Kính cũng chẳng phải là thần thánh đạo mạo gì cho cam, tuy nhiên vô tình nghe được những lời van xin thảm thiết của nạn nhân nên động lòng ra tay tế độ. Họ thách đấu, chỉ bằng đôi bàn tay không, Trảo vương đã bóp nát cặp quyện của Đoan Đông và bẻ gãy cánh tay mặt của y để cảnh cáo rồi bỏ đi. Lần đầu tiên thất bại ê chề, nhục nhã, lòng tràn đầy ngưỡng mộ kính phục, Đoan Đông đã quỳ lết đến xin nhận Tử Kính làm sư phụ. Ban đầu Tử Kính không chịu nhưng thấy y thảm não quá mà bản thân ông ta cũng cần có một kẻ đi theo để hầu hạ, nên đã chấp nhận Đoan Đông làm sư đệ nhưng thực tế chỉ là kẻ hầu bởi võ công của Đoan Đông chưa bằng một nửa của Tử Kính. Riêng Lý tú tài vì ngưỡng mộ danh tiếng của Tử Kính mà tự tìm đến xin được kết thân và nhận là sư đệ của Tử Kính. Võ lâm Tam gia ra đời từ ấy.

Ba võ lâm cao thủ này được Lạng Sơn vương tốn khá nhiều tiền bạc chiêu mộ về giúp việc cách đây hơn một năm. Cùng là gia tướng của Lạng Sơn vương nhưng dường như bọn Tam gia không thích Nguyên Vũ và bản thân chàng cũng dè dặt cảnh giác với bọn người này. Sự hiềm khích không thể hiện ra mặt, nhưng Nguyên Vũ biết nếu có cơ hội bọn người này cũng nói xấu chàng trước mặt vương gia, nhất là Thiết trọc Đoan Đông. Tử Kính thì không, danh vọng của ông ta quá lớn nên không làm việc này, ngược lại Lý tú tài lại có vẻ mến Nguyên Vũ và thường hay trò chuyện, uống rượu đối ẩm với chàng. Thếnhưng Nguyên Vũ lại hết sức cảnh giác với Lý tú tài, sự thâm hiểm của gã thể hiện rõ qua cặp mắt láo liên và đôi môi mỏng với tiếng nói rin rít rất đáng sợ. Riêng về Đoan Đông, Nguyên Vũ cũng chảng hiểu sao gã lại thù ghét mình nữa, một sự thù ghét xem chừng rất vô lý, cũng như sự ngu xuẩn không hiểu nổi của gã vậy.

Trước kia chàng là gia tướng tin cậy của Lạng Sơn vương, nhưng từ ngày có Tam gia, sự tin cậy ấy bị chia sẻ. Chẳng trách được Lạng Sơn vương, bởi vương gia đang mưu sự việc lớn nên cần có nhiều người tài giúp việc. Và tuy là kẻ gần gũi, nhưng Nguyên Vũ cũng nhận thấy, còn rất nhiều việc làm của Lạng Sơn vương chàng vãn chưa thể tường tỏ hết. Lạng Sơn vương, con người này rất khó hiểu nếu không muốn nói là thâm hiểm, lời ông ta nói và việc ông ta làm luôn cách xa nhau, không ai có thể đoán định được những công việc sắp làm của vương gia, điều này càng làm cho chàng hết sức thận trọng giữ mình.

Trần Nguyên Vũ vào giúp việc cho Lạng Sơn vương tính ra đến nay cũng đã được mấy năm. Cách đây hơn 3 năm, phủ Lạng Sơn vương mở một cuộc thi tuyển võ tướng cho vương phủ. Trang chủ Ngoại Miêu gia trang, một anh hùng võ hiệp nổi tiếng xứ Thanh và cũng là một trong những gia thần của triều Lê, ông còn là bá phụ của Nguyên Vũ, đã đưa chàng đến gặp Đình thượng hầu, Nhập nội tư mã, Thái phó Đinh Liệt. Ông và Thái phó nhận thấy đây là cơ hội tốt cho chàng lọt vào vương phủ để nám tình hình. Bởi theo Trang chủ và Thái phó cho biết, Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân là một người có dã tâm lớn. Mẹ con Lạng Sơn vương bị Thái Tông Hoàng đế truất ngôi, chắc chắn bọn họ không phục và trước sau gì cũng sẽ tìm cách lấy lại ngôi vua đã mất. Và Tuyên Từ Hoàng thái hậu cũng không phải là kẻ vừa, bà ta cũng thừa hiểu mối nguy hiểm này như thế nào, nên trước sau gì cũng tìm cách tiêu diệt Lạng Sơn vương. Trong lúc lưỡng hổ câu thương, đây sẽ là thời cơ tốt nhất của chúng ta. Việc chàng vào được vương phủ làm võ sĩ, nám tình hình trong ấy là thượng sách, cần phải tận dụng thời cơ này.

Với thân phận là cháu của đại hiệp Nguyễn ứng, Trang chủ Ngoại Miêu gia trang, kèm theo sự bảo lãnh của Thái phó Đinh Liệt, Trần Nguyên Vũ có điều kiện thuận lợi khi ra mắt Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân. Việc giới thiệu này chẳng qua là để gây thêm niềm tin cậy với Lạng Sơn vương, còn bá phụ vẫn buộc chàng phải tham gia thi đấu tuyển võ sĩ như một người bình thường. Bởi theo bá phụ chàng muốn thì Lạng Sơn vương ngoài việc tin cậy Nguyên Vũ, ít nhất ông ta cũng thấy phải sử dụng được chàng, như vậy niềm tin cậy mới trọn vẹn. Sau một tuần thi đấu và vượt qua mấy trăm võ sĩ từ các miền về tham dự, Trần Nguyên Vũ đã đoạt giải nhất một cách xứng đáng, nhiều người cho rằng nếu sau này triều đình có thi tuyển võ trạng nguyên thì chắc chắn chàng cũng sẽ đoạt bảng vàng. Lạng Sơn vương yêu quý chàng ra mặt, từ một võ sĩ bình thường, chàng đã trở thành võ tướng chỉ huy của vương phủ. Và sau mấy năm giúp việc, dần dần chàng đã trở thành kẻ tâm phúc của vương gia. Từ đấy chàng biết được dã tâm của vương gia, đó là bằng mọi cách phải lấy lại ngai vàng đã mất. Cũng vì vậy, trong nhiều năm nay, Lạng Sơn vương bí mật chiêu binh mãi mã, quy tụ anh tài về dưới trướng rất nhiều. Ong ta đang chờ cơ hội thuận tiện để tiếm quyền. Nguyên Vũ thầm phục sự tinh tường của bá phụ mình và Thái phó Đinh Liệt.

Thời gian gần đây, chàng nhận thấy tình hình ngày càng khẩn trương hơn, không khí vương phủ rất sôi động, dường như Lạng Sơn vương đã chuẩn bị xong mưu đồ tiếm quyền và đang lựa chọn thời gian. Mọi việc chàng đều báo ngay cho Thái phó Đinh Liệt biết. Tuy hiện nay Thái phó quyền hành vẫn còn rất hạn chế, nhưng ông vẫn là người có uy tín trong triều đình và có nhiều bạn bè thân thiết. Nhất định Thái phó sẽ có cách tính toán.

Qua cuộc nói chuyện thăm dò với quan Đô chỉ huy Vũ Kính, Nguyên Vũ được biết thêm vài chuyện. Sáng nay Hoàng thái hậu đã rất giận giữ về việc thích khách tối qua. Mấy chục Cẩm y vệ đã bị lôi đi chém đầu vì chuyện này. Ngoài ra Nội quan chỉ huy quân Cẩm y vệ cũng bị biếm chức mất mấy bậc, may mà chưa mất đầu, vì là người tâm phúc của Thái hậu. Việc chỉ huy quân Cẩm y vệ trong Hoàng cung do Nội quan nắm giữ, nên quân Cấm vệ chỉ bị khiển trách, không trách phạt. Sau đó Hoàng thái hậu đã cho triệu một số đại thần tâm phúc gồm Đỗ Bí, Lê Ê, Lê Ngang, Lê Thụ... đến điện Kính Thiên để bàn việc riêng. Không rõ là chuyện gì nhưng thái độ của bọn họ rất căng thẳng và hình như vãn chưa nhất trí được với nhau. Tuy nhiên theo tiết lộ của Nội quan thì Thái hậu rất cay cú và nhất định sẽ truy cứu vụ này đến cùng. Quan Đô chỉ huy Vũ Kính lắc đầu nhè nhẹ, thở dài: “Sáp tới lại có đổ máu nữa.” Trần Nguyên Vũ nhìn quan Đô chỉ huy thông cảm, chàng với ông ta có mối giao tình khá thân thiết. Đây là một con người trung thực, đàng hoàng, vì bổn phận và trách nhiệm nên phải làm tốt nhiệm vụ của mình, dù cho trong lòng rất bất mãn. Cho nên Cấm vệ quân của ông ở kinh thành là một đội quân rất được lòng các quan và trăm họ. Lính Cấm vệ quân không hề ỷ quyền hay thế lực để sách nhiễu nhân dân như bọn Cẩm y vệ hay Thiên tử quân của Hoàng cung. Cũng chính vì vậy không thiếu gì kẻ ghen ghét, mưu hại. May nhờ Hoàng thái hậu và Hoàng thượng thương và hiểu ông là người trung thực nên vẫn giữ lại. Nhưng như quan Đô chỉ huy cũng đã tâm sự với chàng về việc không sớm thì muộn gì ông cũng sẽ phải rời khỏi chức vụ này. Và ông cho biết mình đã chuẩn bị tinh thần sẵn để xin nghỉ hưu. Việc tranh chấp trong triều đình khiến ông rất mệt mỏi và chán ngán. Trần Nguyên Vũ hết sức can ngăn, quan Đô chỉ huy xin nghỉ thì coi như chàng mất đứt một tai mắt trong kinh thành, rất tiếc là cản không được. Vũ Kính đặt tay lên vai chàng: “Nguyên Vũ, thúc biết cháu còn trẻ nên còn nhiều tham vọng. Tuy nhiên như người xưa đã nói, chim khôn nên biết chọn cành mà đậu, người khôn nên biết chọn chúa mà thờ. Mỗi người một ý chí, ta chỉ muốn nhác lại cho cháu là phải hết sức cẩn thận trong tương lai. Vì cuộc sống nơi này phức tạp lám.” Đây không phải là lần đầu tiên ông nói chuyện này với Nguyên Vũ và chàng hiểu rất rõ ý của ông. Đã nhiều lần ông tỏ ý xa xôi về việc không hài lòng lám trong chuyện chàng về đầu quân cho Lạng Sơn vương Nghi Dân. Theo ông, còn nhiều nơi xứng đáng hơn. Rất tiếc Nguyên Vũ không thể thổ lộ thật với ông rằng chàng làm việc này vì lý do khác. ”Ta đã dâng biểu xin nghỉ hưu rồi.” “Sao thúc đã xin nghỉ rồi à?” Nguyên Vũ kêu lên. “Phải, sáng nay nhân khi Thái hậu triệu vào quở trách, sẵn đó ta đã đưa biểu xin nghỉ và đã được chấp thuận.” “Thúc... thúc...” - Nguyên Vũ ỉu xìu - “Sao thúc không nói cho cháu biết sớm.” Nhìn khuôn mặt Nguyên Vũ, quan Đô chỉ huy Vũ Kính bật cười, ông thương chàng như con ruột của mình. ’’Trước sau gì ta cũng nghỉ, sao cháu lại buồn vậy.” Chàng ấp úng: “Nơi này cháu chẳng có ai làm bạn tâm giao, nay thúc đi rồi cháu biết tin cậy ai.” “Thực ra” - Quan Đô chỉ huy trầm ngâm - “Ta cũng chưa muốn nghỉ ngay đâu. Nhưng đã có những tình thế buộc phải làm vậy. Làm như thế này có thể ta sẽ giữ được mạng sống mình lâu hơn. Và việc này có liên quan đến Lạng Sơn vương.” Nhìn ánh mắt kinh ngạc của chàng trai, quan Đô chi huy nói nhỏ: “Trong thời gian gần đây Lạng Sơn vương liên tục cho người đến thăm hỏi, tặng quà cáp cho ta. Thậm chí có rân vương gia còn cho người mời ta đi săn bân cùng. Ta rất bối rối vì sự kết thân này, cho đến một ngày kia ông ta đột nhiên lấp lửng nói muốn chiêu nạp ta làm người thân tín để cùng làm việc lớn. Việc gì?” Đô chỉ huy Vũ Kính lâc đâu - “Có thể cháu cũng đoán ra là việc gì. Tuy nhiên ta không muốn nói ra đâu, bận lòng lám. Ta đã cương quyết chối từ, và thế là đã nhận những lời đe dọa xa xôi. Ta hiểu thế và lực, cũng như tâm tính con người vương gia. Việc gì ông ấy không làm được thì át người khác cũng không được. Và cũng không hiểu bằng cách nào, thế nhưng vương gia đã tác động đến tận Hoàng thượng. Kết quả thời gian gần đây có nhiều việc của Cấm vệ quân, Hoàng thượng tỏ vẻ không bằng lòng với ta. Thúc hiểu rằng đã đến lúc mình phải rút lui, như vậy may ra mới bảo toàn được mạng sống cho bản thân mình và gia đình.” “Thúc... thúc...”, Trần Nguyên Vũ nghe những lời tâm sự nao lòng của quan Đô chỉ huy mà không biết phải nói gì. Bây giờ thì chàng đã hiểu ra lý do vội vã rút lui của ông cũng như ánh mắt khó hiểu của Lạng Sơn vương sáng nay khi nói với chàng rằng vương gia gửi lời hỏi thăm quan Đô chỉ huy Cấm vệ quân. “Nay ta đi rồi, còn cháu ở lại một mình chốn hang hùm này, cháu phải hết sức thận trọng. Sơ xuất một chút là khó bảo toàn mạng sống.” Nghe những lời chân tình ấy, Nguyên Vũ tí nữa ứa nước mắt. Chàng rất muốn nói với ông một điều gì đó thật sự về mình, nhưng rồi nhớ đến trọng trách lớn lao nên đành nén lòng, chàng cầm tay quan Đô chỉ huy siết chặt. “Thúc sẽ về nghỉ ở quê nhà ư?” “Đúng vậy. Ta có một căn nhà nhỏ ở Nam Sách cùng với vài mảnh ruộng. Ta có thể cày cấy qua ngày, hoặc mở lò võ, chiêu nạp một ít học trò chẳng hạn. Chắc cũng sống được. Nếu rảnh rỗi cháu có thể ghé qua.” ”Dạ” ”Cháu đã biết ai thay ta chưa? Quan đô chỉ huy Lê Đắc Ninh” - Đô chỉ huy Vũ Kính cười lạt - “Và ta cho cháu biết, Lê Đác Ninh là người do Lạng Sơn vương tiến cử đấy.” Vương gia làm việc gì cũng có tính toán chu đáo lâm đấy.” Vũ Kính cười nói lơ lửng, Nguyên Vũ hiểu và không nói gì thêm.

* Như một khách nhàn tản, Nguyên Vũ bỏ ngựa tại dịch trạm và thong thả đi bộ về phía dãy hàng chợ của phường làng nghề Nghi Tàm. Phường làng Nghi Tàm nằm khá xa cửa Tường Phù ở phía Đông của kinh thành. Phường trải dài mấy dặm sát bên Tây Hồ, nơi này nổi tiếng với nghề dệt lụa tơ tằm. Mang hàm Thái bảo, đáng lẽ Thái bảo Đinh Liệt được ở trong kinh thành. Tuy nhiên sau khi được tha về, lấy lý do sức khỏe kém, cần được yên tĩnh nghỉ ngơi nên ông đã xin với nhà vua ban cho ít đất ở khá xa kinh thành, giáp lũy ngoài thành Đông Kinh, tận phường Nghi Tàm, để xây mấy mái nhà tranh nho nhỏ làm nơi ở với gia đình. Ở đây không khí rất trong lành, thoáng mắt, yên tĩnh, người dân hiền lành, thật thà. Tuy mang tiếng là người chốn kinh kỳ, đất Kẻ Chợ, thế nhưng người làng Nghi Tàm vẫn còn chất phác lâm, chưa nhiễm bao nhiêu cái thói điêu ngoa buôn bán ngoài chợ. Chỉ có điều bất tiện cho Thái bảo là mỗi khi có lệnh chầu và thiết triều thì đều phải đi rất sớm. Có những hôm hơi sương còn mờ phủ kín Tây Hồ, ông đã phải lên ngựa vào chầu.

Đi vào một cửa tiệm bán vải, ngó lơ đãng vài vuông vải, sau đó bất ngờ Nguyên Vũ luồn xuống cửa sau, men theo mấy vách nhà, chàng mới vào được tư dinh của Thái bảo Đinh Liệt. Gọi tư dinh cho sang, xứng với hàm Thái bảo, thực ra chỉ là căn nhà ngói, vách đất sáu gian, đồ đạc xềnh xoàng, được cái có vườn cây cảnh rất đẹp, tiếng chim luôn hát ca ríu rít.

Tháng 7 năm 1444, hai năm sau cái chết thảm khốc của Hành khiển Nguyễn Trãi và gia đình, có kẻ đã tố giác với Tuyên Từ Hoàng thái hậu rằng, khi sinh thời Nguyễn Trãi rất thân với Đình thượng hầu, Nhập nội Tư mã Đinh Liệt. Sau khi Nguyễn Trãi chết, Đinh Liệt thường tỏ thái độ bất mãn, có khả năng Đình thượng hầu là phe đảng của Nguyễn Trãi. Dường như chỉ chờ thế, lập tức Tuyên Từ Hoàng thái hậu hạ lệnh tống giam Đinh Liệt, tước bỏ hết binh quyền, mặc cho nhiều đại thần đứng ra xin. Thật ra ngay từ khi mới buông rèm nhiếp chính là Tuyên Từ Hoàng thái hậu đã nghĩ đến chuyện loại bỏ Đinh Liệt. Bà ta không thể quên chuyện Đinh Liệt đã cùng với Nguyễn Trãi đứng ra xin với Thái Tông Hoàng đế tha chết cho Tiệp dư Ngọc Dao. Thậm chí sau đó còn dám bảo bọc đưa Tiệp dư đi sinh đẻ ở nơi khác, không để ở chùa Huy Văn. Vì vậy, Hoàng thái hậu rất căm hận. Vì Đinh Liệt là cháu ruột của Lê Thái Tổ và là một công thần có nhiều công lao đối với triều đình từ những ngày đầu kháng Minh, cho nên Thái hậu chưa dám xuống chiếu giết chết. Mấy năm sau, vào tháng 6 năm 1448, Thân vương Lê Khắc Phục và công chúa Ngọc Lan, con gái của Tiên đế, đã liều chết đứng ra bảo lãnh nài nỉ Thái hậu tha cho Đinh Liệt. Lúc này đã yên vị trên ngai vàng, bản thân Tuyên Từ Hoàng thái hậu cũng nhận thấy việc mình bắt giam Đinh Liệt là vô lý. Việc làm này không những làm cho các quan bất mãn, mà trong Hoàng tộc họ Lê cũng không đồng ý, bởi dù sao ông cũng là con cháu của Thái Tổ. Lúc này Hoàng thái hậu lại rất cần sự ủng hộ của Hoàng tộc, cho nên bà ta đã hạ chỉ tha cho Đinh Liệt, tuy nhiên vẫn không trao chức quyền, cho ngồi chơi không. Thái hậu còn tàn nhẫn hơn vì vãn cho giam giữ vợ con ông, phải ba năm sau bà ta mới chịu tha cho họ. Từ đó Đinh Liệt như hùm thiêng bị trói chân, đành ngồi ngắm thế sự mà uống trà. Biết thân phận nên ông sống rất lặng lẽ, khiêm nhường, xa lánh tất cả mọi chuyện, dường như ông chỉ còn biết lấy chuyện chim ca cá cảnh làm lẽ sống vui thú điền viên. Gần 10 năm sau, đó là vào 1454, lúc bấy giờ trước sự kêu nài của nhiều đại thần, Tuyên Từ Hoàng thái hậu mới chịu nghĩ lại, cho vời Đinh Liệt vào để phục chức và ban cho hàm Thái bảo. Thực ra lúc này bà ta đã yên tâm về chỗ ngồi của mình và cần có người tài để giúp việc. Khi Trang chủ Ngoại Miêu gia trang đưa Nguyên Vũ đến ra mắt Đinh Liệt là lúc ông mới được phục chức và ban hàm Thái bảo. Thực ra Thái hậu cũng chẳng thích gì ông, cho nên, ông vẫn bị bà ta nghi ngờ và bí mật cho người giám sát, không giao binh quyền thực sự. Cái chết của Hành khiển Nguyễn Trãi đã hơn mười năm rồi nhưng vẫn là nỗi ám ảnh khôn nguôi đối với Thái hậu. Tất cả những cái gì gợi đến Nguyễn Trãi là Thái hậu đều muốn triệt bỏ. Bà ta muốn xóa tất cả dấu tích. Do vậy, mối quan hệ giữa Nguyên Vũ và Thái bảo phải được giữ bí mật.

Năm ấy thật ra Trần Nguyên Vũ cũng không hiểu lẳm về việc tại sao bá phụ lại đột nhiên dẫn chàng rời khỏi Ngoại Miêu gia trang về kinh thành và bảo chàng ứng thí để lọt vào làm võ sĩ cho Lạng Sơn vương. Việc này lại được sự đồng ý của cha ruột chàng. Sau này chàng mới được biết, đó là do Thái bảo Đinh Liệt đề nghị, và bá phụ với cha chàng đã đồng ý. Họ muốn có tai mắt trong vương phủ để nắm tình hình hoạt động của Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân. Dường như cha chàng, bá phụ và Thái bảo biết rằng Lạng Sơn vương trước sau gì cũng tạo phản để tiếm quyền và bọn họ chờ đợi. Họ chờ đợi điều gì? Sau này chàng mới rõ thêm là Thái bảo Đinh Liệt và một số đại thần khác cũng đang âm thầm muốn lật đổ Tuyên Từ Hoàng thái hậu và Lê Nhân Tông Hoàng đế. Việc làm của Lạng Sơn vương đã nghịch đạo trời, xét ra việc làm của cha chàng lẫn bá phụ và Thái bảo Đinh Liệt đâu có gì khác nhau. Từ bé chàng đã được cha dạy đạo thánh hiền, hiểu chữ trung, chữ hiếu, cho nên Trần Nguyên Vũ rất phiền lòng khi nghĩ về việc làm của họ.

Cuộc sống luôn luôn có những uẩn khuất khó nói. Thực ra cho đến tận lúc về phủ Lạng Sơn vương làm việc cho vương gia, Nguyên Vũ cũng vẫn không hiểu được thật sự đã xảy ra những chuyện gì cho gia đình và dòng họ của mình trong quá khứ. Cha là một người sống rất kín đáo. Từ ngày mẹ bị bệnh chết, cha như hóa đá, càng trở nên câm lặng hơn bao giờ hết. Nhìn ông, chàng luôn có cảm giác cha lúc nào cũng mang nặng những nỗi buồn u uất. Cha chẳng bao giờ chịu tâm sự với ai, kể cả với chàng là con trai ruột của ông, dù cho chàng đã lớn khôn. Không lẽ đó chính là những kỷ niệm buồn của quá khứ? Chàng tự hỏi như vậy. Nguyên Vũ vẫn còn nhớ rất rõ năm mình lên 5 tuổi và em trai út của chàng mới đẻ, vì lý do gì chàng không rõ, đột nhiên trong một đêm, bà nội đến ôm mấy anh em chàng vào lòng khóc sướt mướt như mưa. Sau đó mọi người nháo nhác rời khỏi nơi ở, chú, bắc, anh em mỗi người đi một ngả. Chi có bà và bắc lớn là ở lại để chờ ông nội về. Đã hơn hai mươi năm trôi qua, đến bây giờ hình ảnh của đại gia đình ngày ấy cũng đã trở nên mờ dần trong ký ức của Nguyên Vũ. Chàng chỉ còn nhớ đến bà nội là một người bà hiền lành, ham làm và rất nhân ái. Còn ông, Nguyên Vũ chỉ biết ông là một vị quan to trong triều và rất ít ở nhà. Khi ông về, cha, chú, bắc và bà không bao giờ cho các cháu lại gần, sợ quấy rầy ông. Tiếc rằng bây giờ chàng không thể nào còn nhớ được nét mặt của ông nữa, Nguyên Vũ chỉ mường tượng đến chòm râu dài và mái tóc bạc trên gương mặt hồng hào với đôi mắt sáng, và giọng nói nhẹ nhàng thanh thoát của ông.

Sau đó anh em chàng được cha mẹ bồng bế trốn lên tận miền Thái Nguyên sống với người Tày. Họ sống chui nhủi, nơm nớp trong sợ hãi. Mấy năm sau đó cả gia đình mới dám lén lút về Trung Sơn, Thanh Hóa để ở nhờ trong sự che chở của trang chủ Ngoại Miêu gia trang. Cũng mấy năm sau đó bà nội thứ ba vốn là thiếp của ông nội dắt chú Phạm Anh Vũ tìm về gia trang để nương náu.

Từ nhỏ đi đâu, lúc nào cha cũng dặn chàng phải nhập tâm nhớ một điều rằng chàng là người họ Trần tên là Nguyên Vũ. Ong không bao giờ chịu giải thích lý do vì sao phải như vậy. Trong khi Anh Vũ là chú ruột thì lại mang họ Phạm của bà. Dường như trong cha luôn mang nặng một nỗi niềm đau buồn gì đó, và đến khi lớn khôn, đã có vài lần Nguyên Vũ thử gợi chuyện, nhưng cha chẳng bao giờ chịu trả lời. Chàng muốn hiểu thực sự ngày trước đã xảy ra chuyện gì cho dòng họ của mình, và vi lý do gì mà cả nhà chàng từ bà nội cho đến tận bây giờ vẫn phải sống trong nỗi lo sợ hiện rõ trong ánh mắt của từng người. Thậm chí mẹ trước khi lìa đời cũng không chịu trả lời câu hỏi của chàng, bà chỉ khóc và nhắc chàng hãy vâng lời cha, mọi chuyện sẽ do cha quyết định. Có một lần chàng đánh bạo hỏi bà nội thứ ba, bà đã khóc và ngất đi. Từ đó cha cấm chàng tuyệt đối không được gợi lại chuyện này. Mấy anh em chàng lẫn chú Anh Vũ lớn lên trong biết bao nhiêu nỗi hoài nghi, thác mác về thân thế của chính bản thân mình. Họ chỉ lờ mờ đoán ràng hình như dòng họ mình có mang một trọng tội nào đó với triều đình, chính vì vậy mà phải trốn tránh bao nhiêu năm nay. Những người lớn biết chuyện, thế nhưng bọn họ đều kín như bưng và thường thở dài thì thầm với nhau. Nhưng đó là điều gì?

Theo vai vế trong dòng họ, trang chủ Ngoại Miêu gia trang là anh nhưng ông đối với cha rất kính trọng, coi như là khách quý, thế nhưng cha chàng luôn giữ phận là thầy đồ dạy học của gia trang, làm công việc đúng bổn phận mặc cho Trang chủ thường can ngăn, không hài lòng. Ông làm thầy dạy chữ cho chú Anh Vũ, mấy anh em chàng cùng mấy người con, cháu của Trang chủ. Ngoài giờ dạy học ông thường hay ngồi trò chuyện riêng với bà, hoặc đọc sách một mình. Nhìn b'ê ngoài cha rất nghiêm nghị, ít ai thấy ông nở một nụ cười. Mọi người kính nể nhưng xa lánh cha, vì ở ông có điều gì khô khan quá. Mấy anh em Nguyên Vũ và chú Anh Vũ lớn lên chủ yếu nhờ ở sự chăm sóc của bà nội. Ngoài việc học chữ, anh em Nguyên Vũ được học võ công do chính vị bá phụ của mình là Trang chủ Ngoại Miêu gia trang dạy dỗ. Cha không cản mà còn khuyến khích, thế nhưng khi chú Anh Vũ xin học võ thì cha nhất định không cho, mặc cho chú van xin hay khóc lóc. Thương con, bà nội có lời, cha cũng từ chối. Cha nói với bà và Trang chủ rằng đối với chú Anh Vũ học chữ là cần thiết. Bởi mạch nguồn dòng họ đến chú phải được chảy mãi không ngừng, chú là niềm hy vọng của cha, của bà và của chính ông nội, tức là của dòng họ. Điều cha nói khó hiểu quá, và bà chấp nhận. Thế là chú Anh Vũ đã không được học võ công mà còn bị bà và cha kèm chặt trong việc học chữ. Nhiêu lúc nhìn chú thấy thương quá, cho nên những lúc hai chú cháu được đi chơi, Nguyên Vũ thường lén dạy chú mấy miếng quyền để chú múa cho thư giãn. Chú thích lâm. Tuy mang tiếng là chú ruột, nhưng chú Anh Vũ lại thua Nguyên Vũ đến mấy tuổi.

Ngoại Miêu gia trang đã có hàng mấy trăm năm nay. Thuở ban đâu dòng họ Nguyễn Phước đến đất Hà Tung, phủ Tống Sơn để khai khẩn lập Bái trang. Sau đó đổi tên là Ngoại Miêu Gia trang. Khi Lê Thái Tổ dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, con cháu gia trang tham gia khá nhiều, nổi bật nhất là Nguyễn Lý, tướng cầm quân đánh hơn 50 trận, giết nhiều giặc Minh. Khi kết thúc chiến tranh, bình tướng thưởng công, vua Lê đã phong cho ông làm Bình ngô Khai quốc Đại công thần, được ban quốc tính họ Lê. Ngoài ra còn có các tướng khác như Nguyễn Dã, Nguyễn Công Duẩn, sau này cả hai đều được vua Lê phong tướng. Đặc biệt với Nguyễn Công Duẩn, công lao lớn nhất của ông trong cuộc kháng Minh đó là việc lo quân lương cho nghĩa quân Lam Sơn. Chính vì thế khi tháng lợi, vua Lê đã ban cho ông chức Phụng trực Đại phu Đô đốc, Đô kiến sự, mang quốc tính họ Lê. Ngoài ra nhà vua còn cho ông được phép lĩnh việc binh ở huyện nhà, thu ruộng đất của các thế gia đã tuyệt tự sung công truyền cho con cháu họ Nguyễn lâu dài. Vì thế Ngoại Miêu gia trang ngày càng giàu mạnh.

Đến thời hiện nay, Trang chủ Ngoại Miêu gia trang là một cao thủ nổi tiếng, được bạn bè gần xa vị nể. Ngoại Miêu gia trang cũng là nơi mà khách bốn phương thường đến thăm viếng. Vừa là quan binh ở địa phương, lại là bậc anh hùng nghĩa khí giang hồ, cho nên danh tiếng của Trang chủ vang rất xa. Nguyên Vũ sung sướng và tự hào có một người bắc như vậy. Trong số môn đệ, con cháu của trang chủ thì dường như Nguyên Vũ là học trò ưng ý nhất. Chàng thông minh sáng dạ và lanh lẹ, cho nên những sở trường võ thuật đác ý của Trang chủ, Nguyên Vũ đã tiếp thu được hết. Và dù trẻ tuổi nhưng chàng vẫn xứng đáng với danh hiệu là đệ tử đứng đầu của Ngoại Miêu gia trang.

Khi chàng vừa tròn 23 tuổi thì cũng là lúc bá phụ đưa chàng về kinh thành ra mắt Thái bảo Đinh Liệt để làm việc lớn. Sống trong phủ Lạng Sơn vương và qua những lần tiếp xúc với Thái bảo Đinh Liệt, dần dần chàng cũng hiểu việc làm của họ. Mang nặng tâm tư, cách đây một năm, trong một lần về gia trang chàng đã đánh bạo hỏi Trang chủ. Sau khi nghe chàng bày tỏ tâm ý của mình, ông đã dẫn chàng vào nơi thờ dòng họ Nguyên. Tháp ba nén hương lên bàn thờ tổ tiên, ông nghiêm nghị bảo Nguyên Vũ quỳ xuống. Sau đó Trang chủ trịnh trọng lấy trên bàn thờ ra một tấm chiếu chỉ và đọc sang sảng “Vua dụ cho bắc vệ Đại đội trưởng Nguyễn Công Duẩn, người Ngoại Miêu gia trang, huyện Tống Sơn, lộ Thanh Hóa như sau:Trẫm nhớ thuở xưa, tổ tiên các khanh thờ các triều Đinh, Lý, Trần, đều hết lòng, con cháu đời đời trung trinh... - Giọng Trang chủ nghẹn ngào vì cảm động - Nay trãm thưởng thêm hậu lộc, ban tước lớn để đền công. Nay thăng Nguyễn Công Duẩn làm Phụng trực Đại phu Đô kiến sự, lĩnh việc binh ở huyện nhà...” Trang chủ đọc xong chiếu vua cho Nguyên Vũ nghe và nhìn chàng nói: “Dòng họ Nguyễn của chúng ta đời đời trung với vua với nước, không lý nào lại làm chuyện nghịch đạo bất nghĩa. Tuy nhiên tại sao từ trước đến nay bắc và cha cháu chưa bao giờ cho cháu biết cháu đang làm vì mục đích gì, vì trong chuyện này còn có nhiều điều khó nói, thời cơ chưa đến. Nhưng bắc vẫn luôn muốn khẳng định với cháu một điều rằng những việc mà bắc cùng cha cháu đang làm là vì nước vì dân. Chúng ta đấu tranh cho sự thật và bảo vệ nó, chúng ta không muốn cho máu của trung thần đổ xuống vì hàm oan. Không muốn công lao của tiền nhân bị hủy bỏ vô ích. Tất cả những việc chúng ta đã và đang làm đều không có gì là trái đạo nghĩa cả.“

Sau đó thầy đã dãn Nguyên Vũ đi gặp cha. Lúc ấy cha đang ngồi đọc sách một mình ở ngoài vườn. Thấy hai người đến cha có vẻ bất ngờ và ngạc nhiên. Trang chủ kể lại câu chuyện, và ông nói: “Nay Nguyên Vũ cũng lớn rồi. Đã đến lúc chúng ta nên cho nó biết sự thật về những việc mà chúng ta đã lao tâm khổ tứ bao nhiêu năm nay.” Cha im lặng rất lâu và cuối cùng ông gật đầu. Cha vào trong nhà lấy ra một cuốn sách mỏng và đặt vào tay Nguyên Vũ, nói nghèn nghẹn: “Con hãy đọc đi rồi sẽ hiểu”. Cả một đêm Nguyên Vũ thức tráng để đọc lại toàn bộ những lời tâm sự trước khi chết của quan Hành khiển Nguyễn Trãi. Những dòng chữ thấm đẫm máu và nước mắt của một cuộc đời chìm nổi long đong trong phong ba bão táp của đất nước, của lòng trung thành và sự đau đớn trước những thăng trầm biến đổi của cuộc sống, của quyền lực, của con người. Đấy chính là ông nội của chàng, Hành khiển Nguyễn Trãi.

“Một người bạn của cha vào thăm ông nội và ghi lại được những lời tâm sự của ông con trong đêm cuối cùng trước khi ngày mai toàn gia họ Nguyễn chúng ta bị đưa ra pháp trường xử trảm tru di tam tộc vì tội giết vua. Con đã đọc và chắc rằng con đã hiểu tất cả những nỗi thống khổ bấy lâu nay của gia đình và dòng họ chúng ta phải chịu đựng. Cha khẳng định với con rằng ông của con không bao giờ làm chuyện ấy, chúng ta là những Nho gia sống trọn đời với tấm lòng trung thành với vua, với đất nước, chúng ta không thể nào trở thành những kẻ bất nghịch phản loạn như vậy. Bởi vì ông nội của con sống quá ngay thẳng, và quá trong sạch nên đã không thiếu gì kẻ dèm pha, mưu hại. Vụ án ở vườn Lê Chi là một âm mưu được dựng lên để gán cho ông. Ông của con là nạn nhân của một cuộc tranh giành quyền lực trong chốn cung đình. Chính vì thế mà lâu nay, cha, bá phụ của con và một số vị trung thần như Thái bảo Đinh Liệt, Nguyễn Xí đã phải âm thầm đi tìm sự thật, để vạch mặt những kẻ đang ngồi trên ngai vàng kia. Chúng ta muốn trả lại sự trong sạch cho dòng họ Nguyễn, cho thanh danh của ông.“

Cha lặng lẽ tháp hương lên bàn thờ ông nội, và rưng rưng nước mắt, nói.

“Dòng họ Nguyễn chúng ta là một trong những dòng họ lớn, nguồn mạch xuyên suốt của nước Nam từ thuở đầu mới lập nước. Có nhiều võ tướng lập chiến công kiệt xuất phục vụ nhiều triều vua từ đời Lê, Lý, Trần, Hậu Lê... Nhưng dòng họ chúng ta cũng là dòng họ chịu nhiều vụ án oan khuất nhất trong lịch sử, và luôn luôn phải trả giá bằng máu. Bắt đầu từ vụ án Định Quốc công Nguyễn Bặc bị vua Lê Hoàn giết vì ông đã chống lại vua Lê khi ngài lên ngôi thay vua Đinh. Sang đời Lý là vụ tiến sĩ Nguyễn Quốc chống bọn gian thần Đỗ Anh Vũ và bị giết. Rồi cụ cố nội Nguyễn Công Luật và cụ nội của con là Nguyễn Minh Du theo Thái úy Trang Định vương Trần Ngạc chống HỒ Quý Ly, sau này bị Hồ Quý Ly giết hàng loạt. Tuy nhiên đau đớn nhất đó vãn là vụ án Lệ Chi Viên mà ông nội Nguyễn Trãi của con là một nạn nhân trực tiếp. Không những thế chúng ta còn phải mang nỗi nhơ ngàn đời, đó là tội giết vua. Trong các đời trước, các vị tiên hiền họ Nguyễn chúng ta tuy bị giết chết, nhưng chúng ta chết vì bảo vệ cho chính nghĩa, bảo vệ cho vua, còn lần này dòng họ Nguyễn bị tru di tam tộc với nỗi oan phản vua, giết vua. Là dòng dõi khoa bảng, hiền tài cống hiến cho đất nước, phải mang vết nhơ như vậy, con phải hiểu ông nội Nguyễn Trãi của con ngày ấy đau đớn như thế nào. Ông của con chưa bao giờ sợ chết, nhưng ông chỉ sợ vì mình mà vết nhơ họ Nguyễn nghìn đời sẽ rửa không sạch. Chính vì thế ông đã chấp nhận lấy cái chết để chứng tỏ lòng trung và nhân lại với con cháu mình, phải tìm ra sự thật, rửa sạch nỗi nhơ này.” Cha tâm sự với Nguyên Vũ như vậy.

Trang chủ Ngoại Miêu gia trang đặt tay lên vai Nguyên Vũ trầm giọng nói: “Con phải hãnh diện và tự hào vì mình là con cháu của quan Hành khiển Nguyễn Trãi. Việc bá phụ và Thái bảo Đinh Liệt đang làm tất cả là vì chúng ta đều tin rằng ông của con là một người trong sạch. Ông ấy đã bị những thế lực đen tối mưu hại, muốn vùi dập thanh danh. Dù không thể làm cho ông của con sống lại, nhưng cũng phải rửa sạch nỗi nhơ ấy cho nghìn thu sau con cháu chúng ta hiểu rõ chân thật và giả dối của chuyện này.“

Cha vẫy Nguyên Vũ lại và nghiêm nghị chỉ tay ra hiệu cho chàng quỳ xuống trước mặt Trang chủ Ngoại Miêu. “Huynh làm gì vậy?”, bá phụ chàng ngạc nhiên kêu lên và vội vã đỡ Nguyên Vũ đứng dậy. Cha vuốt râu, trả lời: “Đáng lẽ tôi phải làm như vậy mới phải, nhưng e ràng huynh giận nên để cho Nguyên Vũ làm thay vì nó là con trai trưởng của tôi. Nguyên Vũ, con hãy nghe kỹ đây” - Cha trầm giọng -“Mối quan hệ giữa chúng ta và Ngoại Miêu gia trang là mối quan hệ dòng họ, nhưng cũng là mối quan hệ ơn nghĩa. Tất cả chúng ta đều là con cháu họ Nguyễn, tuy nhiên họ Nguyễn ở Ngoại Miêu gia trang do cụ tổ Nguyễn Bặc lập ra là đại tông họ Nguyễn. Năm xưa cũng vì một sự hiểu lầm mà có lần ông cố và ông nội của con đã từng bị đại tông họ Nguyễn xóa tên ra khỏi họ tộc, tuy nhiên sau này đã được phục tìôi. Quan hệ dòng họ là vậy, nhưng ơn nghĩa của Ngoại Miêu gia trang đối với chúng ta lớn lắm, ông nội Nguyễn Trãi của con thậm chí trước kia còn là con nuôi của vị cố Nguyễn Biện của Ngoại Miêu gia trang. Trước kia ông cố Nguyễn Phi Khanh của con khi gặp nạn thì lấy Ngoại Miêu gia trang làm nơi lánh nạn. Cho đến ông nội con và sau này là đại nạn của gia đình chúng ta vừa qua, chúng ta đều được Ngoại Miêu gia che chở, nuôi dưỡng. Nên ta muốn con thay ta quỳ lạy Trang chủ để tạ ơn.“

Nguyên Vũ vội vã quỳ xuống lần nữa, nhưng bá phụ chàng đã nhanh tay hơn đỡ chàng đứng dậy. Ông rưng rưng nước mắt: “Nguyễn huynh đừng nói vậy mà thêm đau lòng. Dù gì chúng ta cũng cùng trong một dòng họ, việc giúp đỡ cho nhau trong hoạn nạn là điều đương nhiên. Huống gì chuyện oan uổng của quan Hành khiển Nguyễn Trãi cũng làm cho tất cả con cháu họ Nguyễn đau đớn, việc Ngoại Miêu gia có trách nhiệm với huynh là điều đương nhiên. Huynh đừng khách sáo nói lời ơn nghĩa mà cháu nó hiểu lầm thiện ý của gia trang.“

Trang chủ đặt tay lên vai Nguyên Vũ nghiêm nghị.

“Con vẫn mang tên là Trần Nguyên Vũ như bao lâu nay, tuy nhiên tên thật của con là Nguyễn Đức Trung, chú Phạm Anh Vũ của con là Nguyễn Anh Vũ. Tất cả chúng ta chỉ có thể trở lại họ Nguyễn khi nào những nỗi oan này được làm sáng tỏ. Chúng ta đang cố rửa sạch cho thanh danh của dòng họ Nguyễn, để một mai này được tự hào xưng danh tính của mình dưới trời đất bao la này, không thẹn với tiền nhân, với thiên hạ”.

Trần Nguyên Vũ đã khóc, như chưa bao giờ được khóc.

Từ đấy, Trần Nguyên Vũ hiểu mình là ai và phải làm gì, chàng thấy tự hào trong lòng.

Sau đó Trang chủ và cha dặn từ nay chàng hãy tuyệt đối nghe theo lời chỉ dạy Thái bảo Đinh Liệt. Việc chàng về kinh thành làm việc cho Lạng Sơn vương cũng cần giữ bí mật, chàng phải hạn chế việc đi lại với mọi người ở Ngoại Miêu Gia trang, không cho ai biết sự thật việc chàng đang làm thay cha và bá phụ của chàng. Thậm chí từ bà nội cho đến chú Anh Vũ lẫn anh em ruột chàng và các anh em bạn bè con Trang chủ cùng huynh đệ đồng môn, chàng cũng không được tiết lộ. Đây là việc lớn, rất hệ trọng, nó liên quan đến sinh mạng của mọi người trong toàn gia trang, nếu như có kẻ biết việc này. Nguyên Vũ hiểu và chấp nhận.

Cũng đã gần một năm nay chàng không về thăm gia trang vì bận việc, không hiểu anh em trong trang bây giờ ra sao rồi. Nơi đó chàng đã lớn lên nên rất yêu quý. Tuy nhiên chàng đành phải nén lòng.

* Trong một căn nhà tranh, khuất phía sau vườn của tư dinh Thái bảo Đinh Liệt. Thái bảo đang ngồi chờ Nguyên Vũ, ông đã bày sẵn một bàn cờ, một bình chè cùng mấy cốc chè xanh bốc khói nghi ngút. Sau khi chờ chàng thi lễ xong, Thái bảo đẩy một cốc nước chè xanh cho chàng và nói:

- Ta biết hôm nay thế nào cháu cũng đến nên đã ra đây ngồi chờ sẵn. Sức khỏe của Bình Nguyên vương thế nào rồi, hôm trước ta có nghe nói ngài không khỏe.

- Thưa Thái bảo, cháu đã chuyển lời hỏi thăm của Thái bảo lên vương gia rồi. Vương gia cho biết, mình vẫn bình thường, chẳng qua chỉ cảm mạo sơ khi trời đổi gió.

- Dù sao thì ngài cũng bất an. - Thái bảo thở dài - Ngài cần nên giữ gìn sức khỏe - Và rồi ông hỏi tiếp. - Việc trong Hoàng cung xuất hiện thích khách có phải là cháu không? Người kia là ai?

Nghe Thái bảo Đinh Liệt nheo mắt hỏi, Nguyên Vũ hiểu ràng, tuy quyền hành của Thái bảo hiện nay rất hạn chế, nhưng rõ ràng ông có nhiều tai mắt trong triều đình.

Trần Nguyên Vũ từ tốn thuật lại mọi chuyện.

Vâng lệnh Thái bảo Đinh Liệt, đêm đó Nguyên Vũ đã đi theo lối bí mật để vào Hoàng thành, đến điện Kinh Diên vấn an sức khỏe của Bình Nguyên vương Lê Tự Thành.

Mới sinh được 14 ngày thì cha ruột là Thái Tông Hoàng đế qua đời. Sau đó cùng với mẹ là Tiệp dư Ngọc Dao bị đày đi ở nơi xa. Năm 3 tuổi, Tuyên Từ Hoàng thái hậu lấy lý do là muốn chăm sóc và dạy dỗ con cái của Tiên đế nên đã xuống sác phong cho Hoàng tử Lê Tự Thành là Bình Nguyên vương và buộc phải vào trong kinh sư để học tập cùng các vương khác. Không nói ra nhưng ai cũng hiểu rõ, mục đích của Thái hậu là muốn quản lý chặt chẽ Bình Nguyên vương. Dù rất đau đớn, nhưng Tiệp dư Ngọc Dao cũng đành phải nuốt lệ xa con trai. Bình Nguyên vương là một ngươi đoan tư liêm chính, dáng đi như rồng, ngồi như cọp, lúc nào dường như cũng có thần long hộ mạng, ai ai cũng phải kính nể. Vương gia hiểu tình thế thời cuộc và mạng sống của mình đang gặp nguy hiểm, nên bề ngoài tỏ ra rất nhẫn nhịn, ít nói, kín đáo, đôi lúc làm ra vẻ khù khờ, chỉ biết chăm chú vào việc đọc sách, xa rời chính sự, không quan tâm đến chuyện triều chính. Và điều này lại làm cho Tuyên Từ Hoàng thái hậu hài lòng lâm. Vương gia giấu mình rất khéo, càng về sau này “mẹ già” Hoàng thái hậu càng tỏ ý thương yêu, tin cậy vương gia ra mặt. Vương cũng hiểu rằng mình càng tỏ ra khù khờ bao nhiêu thì sự nguy hiểm càng bớt đi bấy nhiêu, và đó cũng là lời dặn dò của Thái bảo Đinh Liệt, Nguyễn Xí mỗi khi có dịp gặp vương gia. Thông qua Nguyên Vũ, nhiều năm nay Bình Nguyên vương vẫn liên lạc đều đặn với bên ngoài, biết được những diễn biến của tình hình chính sự, sức khỏe của mẹ mình và những chuyện khác. Vương gia rất đau lòng khi biết ràng mẹ ruột, Tiệp dư Ngọc Dao phải nhẫn nhục mặc áo nâu sòng tu trong chùa để tránh sự dòm ngó của Tuyên Từ Hoàng thái hậu, “Thời cơ chưa đến, hãy cố, mẹ chịu đựng được”, đấy là lời Tiệp dư nhân với con trai mình. Qua Thái bảo Đinh Liệt, vương còn biết mình đang được một số đại thần trung thành theo phò. Và bọn họ cũng đã dặn dò vương phải hết sức nhẫn nhịn để chờ thời cơ đến. Đã nhiều lần bí mật vào Hoàng cung gặp Bình Nguyên vương nên dần dần Nguyên Vũ thấy cảm phục vị vương gia này. Ở vương gia ẩn hiện một điêu gì đó xứng đáng với ngôi mệnh chủ, bậc chân chúa của nước Nam. Triều chính hiện nay đang loạn lạc, vua quan bạc nhược, Hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính lộng quyền, giết người không gớm tay. Đời sống nhân dân đói kém, giặc giã, thiên tai khâp nơi. Đâu đâu cũng dậy vang tiếng than oán. Và chàng thầm so sánh, nếu như Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân có lên ngai vàng, với bản tính tàn bạo của mình thì ông ta cũng sẽ chẳng khác gì Tuyên Từ Hoàng thái hậu hiện tại. Đã đến lúc nước Nam này cần phải có một bậc minh quân khác. Một con người biết vì dân vì nước và chàng đã hiểu mục đích của cha, bá phụ, Thái bảo Đinh Liệt cùng các đại thần. Và chàng tán thành họ. Sau này mối quan hệ giữa chàng và Bình Nguyên vương ngày càng trở nên thắm thiết, là hai chàng tuổi trẻ, họ dễ gần nhau.

Theo thường lệ, khoảng mươi ngày là Nguyên Vũ lại theo những con đường bí mật, với sự móc nối với một số quan quân Cấm vệ để vượt Hoàng thành vào tiếp kiến vương gia, dù cho không có việc gì quan trọng, đó là thông lệ. Đường dây này là cả một sự lao tâm khổ tứ của nhiều đại thần trong triều, do vậy rất ít người được biết đến. Đêm đó sau khi vấn an sức khỏe Bình Nguyên vương và trao đổi một số tình hình do Thái bảo Đinh Liệt thông báo cho vương gia biết, chàng đã từ giã ra về. Trên đường về, ngang qua khu vực Tử cấm thành chàng phát hiện có tiếng gươm giáo chạm nhau trong điện Minh Hòa, nơi nghỉ ngơi của Hoàng thái hậu. Lúc đầu Nguyên Vũ vì tò mò nên chỉ tính vào xem là chuyện gì, chứ không có ý định can thiệp. Vượt qua ao sen vào bên trong, vịn tường, sau một lúc quan sát, chàng nhận thấy nữ thích khách kia đã kiệt sức và không chóng thì chầy sẽ bị bắt. Thế nhưng chàng vẫn không có ý định can thiệp, chỉ đến khi chàng thấy rõ là nàng ta có ý định tự sát. Bất nhẫn quá nên Nguyên Vũ mới phải ra tay. Và...

- Nguyên Vũ, chắc nàng ta đẹp lâm phải không?

Nghe Thái bảo hỏi bất ngờ, Nguyên Vũ ấp úng không trả lời được, mặt đỏ bừng. Thái bảo thở phào, vỗ vô lên vai chàng.

- Cháu còn trẻ, lại không phải là kẻ tu hành, chuyện nữ sâc đâu có gì làm lạ.

- Dạ... nhưng nàng ấy lớn tuổi hơn cháu và quả thật trong chuyện này cháu cứu người không phải vì chuyện trai gái.

Nguyên Vũ nói thật, vì chàng đã có ý trung nhân trong lòng rồi. Thái bảo Đinh Liệt nghe chỉ cười, không bình luận gì thêm.

- Thưa Thái bảo, - Nguyên Vũ cúi đầu hối lỗi - tuy nhiên trong lúc sơ ý vì cứu nàng ta mà cháu đã để lộ diện, cho nên bây giờ cháu rất ăn năn, sợ công sức bao lâu nay sẽ bị đổ vỡ.

- Chuyện lỡ rồi, - Thái bảo lác lư đầu - có trách cháu cũng chẳng giải quyết được việc gì. Tuy nhiên theo ta nhận xét vị cô nương kia chưa chắc gì đã ác ý với cháu đâu.

Nhìn vào mắt chàng, ông bật cười.

- Này nhé... thứ nhất, cháu đã cứu nàng ta, không lý nào nàng ta lại hại cháu, trong khi nàng ta chỉ mới thấy mặt chứ chưa biết cháu là ai. Thứ hai, nàng ta vào hành thích Tuyên Từ Hoàng thái hậu, có nghĩa cũng là kẻ thù của Thái hậu, thì chắc rằng là bạn của chúng ta. Và may mắn làm sao nàng không phải là người của Lạng Sơn vương. Trong cuộc đời Hoàng thái hậu, bà ta đã giết rất nhiều người, gây nhiều tội ác. Thiếu gì kẻ muốn trả thù, có lẽ cô nương này là con cháu một ai đó trong số những người đã bị Thái hậu giết oan.

Thái bảo Đinh Liệt ung dung uống tách chè. Ông khoát tay - “Thôi bỏ qua chuyện đó đi. Mọi chuyện đằng nào cũng đã xảy ra rồi. Ta còn hy vọng một ngày nào đó cháu sẽ gặp lại vị cô nương kia kìa. Biết đâu chúng ta chẳng có thêm đồng minh mới. Do vậy, nếu cháu có truy tìm được tung tích của cô ta thì hãy cho ta biết ngay nhé.“

- Thưa Thái bảo, Thái bảo có tai mắt khâp nơi, cháu hy vọng sẽ tìm được nàng nhanh hơn cháu.

Thái bảo Đinh Liệt gật gù không nói gì. Ông trầm ngâm một lúc khá lâu rồi nói