1- Thời gian chuẩn bị hay chờ đợi
Ngày 25.2.1861, Đô đốc Pháp Charner và đại tá Tây Ban Nha Palanca đem quân đến phá đại đồn Chí Hòa. Thống tướng Nguyễn Tri Phương phải lui binh. Triều đình cử Nguyễn Bá Nghi tới thay thế. Pháp đề nghị với Nguyễn Bá Nghi thương thuyết ngưng chiến. Phía Việt Nam do dự nấn ná. Ngày 10.4.1861, Pháp chiếm đóng kinh Bảo Định (từ Tân An đến Mỹ Tho). Ngày 12.4.1861, Đô đốc Page chiếm Mỹ Tho. Đến đây, những điều kiện thương thuyết của Charner tương đối còn nhẹ, thí dụ chỉ muốn được giao thương trong toàn quốc Việt Nam và đòi một thương điếm vĩnh viễn giống Hồng Kông hoặc Tân Gia Ba. Nguyễn Trường Tộ liền gửi tới Nguyễn Bá Nghi một văn thư:
“Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình một miếng đất mà thôi. Nếu cứ cương quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết, từ khách quay lại làm chủ, như thế là tiếc một mảnh đất mà đem cả nước trao cho họ. Nếu biết rằng họ đã đến là không đi, họ ỷ thế vào những nước khác, thì đánh với họ tức là mất cái lớn không đáng mất mà còn tỏ ra mất đó là vì bất lực, không hợp tình, không kêu nài gì được, chi bằng hòa mà mất cái nhỏ không thể không mất mà còn tỏ ra mình ngoại giao biết điều và là việc hợp tình hợp lý có hơn không?...
Nhượng một tấc đất mà nhân dân được lợi vô cùng. Như thế chẳng phải là làm việc chung cho thiên hạ đó sao? Người xưa cũng làm như thế thôi. Không thể bỏ cách đó mà theo khác được. Thế là xoay chuyển một cái mà kẻ sống người chết đều chịu ơn, thật là sáng rõ, rõ như ánh sáng lửa rọi, chẳng còn hình tích gì đáng nghi nữa cả. Dân đã yên, sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển sang các nước lớn học cách đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu dài, mới biết lường sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỹ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy sức nhuệ, đợi thời hành động, mất ở phía Đông thì lấy ở phía Tây cũng chưa muộn gì” [1].
Triều đình Huế không chịu điều đình. Ngày 20.11.1861, Charner bàn giao quyền hành cho Đô đốc Bonard. Ngày 9.12.1861, Bonard đánh chiếm Biên Hòa. Ngày 1.2.1862, thiết lập trại giam ở Côn Đảo. Ngày 28.3.1862, Bonard đánh chiếm Vĩnh Long. Sau đó Bonard đề nghị lập hòa ước nhưng với những điều kiện nặng nề hơn Charner nhiều. Sử Thực lục ghi:
“Nguyên soái Phú Lãng Sa là Phố Na (Bonard) sai Xuy Mông chạy tàu máy vào cửa biển Thuận An... để đưa thư bàn về việc hòa” [2]. Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Lâm Duy Thiếp “lấy việc cho sứ đi là phải”. “Thư đưa nói ba việc là: một là đặt toàn quyền; một là bồi trả quân nhu; một là đưa trước 10 vạn quan tiền để làm tin... Vua nói: Tạm thời khuất mình, tạm thời chịu phí, mà có thể cứu được quân dân, không bị mất đất đai thì nên lắm. Duy sợ không tiếp tục mãi được thì việc quân lại dấy lên, thành ra không được việc gì. Đến như việc đặt toàn quyền, đến lúc ấy mà không thể nói được, nếu theo họ thì có nước cũng như không, đã chịu nhục mà đời đời chịu tai vạ...” [3].
Sử Thực lục ghi tiếp: “Khi ấy Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp xin đi. Lại chuẩn cho sung làm chánh phó sứ toàn quyền đại thần đề nghị về việc hòa. Lại sai đình thần bàn định đại ý về điều ước, vua sửa định rồi trao cho”. Đình thần bàn định khá kỹ về 14 điều do Pháp đề nghị. Tự Đức phán bảo rằng: “Về khoản đạo giáo công hành, quyết không thể cho được. Nếu không được đúng thì chỉ được theo như lần trước đã nghĩ: đến thì phải trình, ở thì phải có nơi. Nam Kỳ thì chỉ một xứ Gia Định, Bắc Kỳ thì Nam Định hoặc Hải Dương một xứ mà thôi... Đến như địa hạt Gia Định, Biên Hòa, Định Tường chỉ cho ở đấy buôn một hai nơi mà thôi; nếu không dừng được thì chỉ đến chuộc là cùng”. Trước khi sứ đoàn ra đi, chỉ thị còn nói: “Những khoản nào chưa có dự nghĩ, thì việc nhỏ mọn nên chiểu lẽ mà làm cho ổn thỏa, còn việc quan trọng to lớn thì lấy lẽ mà tranh biện. Nếu họ nghe theo thì thôi, họ không nghe thì kiếm lời thoái thác để ngừng hoãn lại, đợi được báo cáo sẽ làm cho hợp sự thế” [4].
Ngày 24 tháng 4 năm Nhâm Tuất, sứ đoàn Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp đi thuyền Loan Thoại vào Gia Định. Trong sứ đoàn có linh mục Đặng Đức Tuấn làm thông ngôn. Ngày 9 tháng 5 (dương lịch là ngày 5.6.1862) là ngày ký hòa ước. Phía đối phương có Đô đốc Bonard đại diện nước Pháp, đại tá Palanca - Guttierez đại diện Tây Ban Nha. Aubaret dịch giả Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức làm thông ngôn (Cố Trường Legrand de la Liraye và Trương Vĩnh Ký chỉ làm thông ngôn ở vòng ngoài về phía Pháp).
Ngày 26.5.1862, sứ đoàn Việt Nam tới Sài Gòn, đại diện ba nước trao đổi ủy nhiệm thư trên chiến hạm Le Duperré đậu ở bến sông đầu đường Đồng Khởi nay. Sau đó là hội nghị diễn ra tại Trường Thi (Nhà Văn hóa Thanh niên, 4 Phạm Ngọc Thạch, Q.1 hiện tại). Đối phương đòi những điều kiện quá đáng, linh mục Đặng Đức Tuấn kể lại:
Phan - Lâm đòi Tuấn hỏi han:
“Tây xin nhiều quá, Tuấn bàn làm sao?”
Tuấn rằng: “Ông lớn lượng cao,
Đòi bồi thì chịu, đừng giao tỉnh thành.
Ý tôi thời vậy đã đành,
Mặc lượng quan lớn quyền hành chủ trương” [5].
Ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất tức ngày 5.6.1862, ba bên ký kết một hòa ước rất bất lợi cho ta.
Sử Thực lục ghi rõ: “Khi sắp đi, vua rót rượu của vua dùng ban cho. Rồi dụ rằng: đất đai quyết không thể nào cho được, tà giáo quyết không cho tự do tuyên truyền. Kịp khi hai viên ấy (Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp) đến Gia Định, bèn đem đất ba tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa nhường cho Tây dương, lại nhận số bạc bồi quân phí đến 400 vạn đồng, ước tính đến 280 vạn lạng bạc) và lập nhà giảng đạo, mở phố thông thương, gồm 12 khoản... Vua nói: thương thay con đỏ của lịch triều, nào có tội gì? Rất là đau lòng! Hai viên này không những là người có tội của bản triều mà là người có tội của nghìn muôn đời vậy!... (Đình thần) xin bắt tội. Vua nói: bây giờ há có người hiền tài nào mà đổi hết được dư. Bèn cho Thanh Giản lãnh tổng đốc Vĩnh Long, Duy Thiếp lãnh tuần phủ Thuận Khánh cùng với tướng nước Phú Lãng Sa biện bác để chuộc tội” [6].
Kết quả hòa ước Nhâm Tuất như vừa kể rất tai hại cho Việt Nam; khác xa với sự phân tích tình thế và mong đợi của Nguyễn Trường Tộ trình bày trong Di thảo số 1 Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ (Thiên hạ đại thế luận) [7]. Đọc kỹ nội dung Di thảo này, chúng ta sẽ biết đây là văn kiện mà Nguyễn Trường Tộ viết trước khi có hòa ước Nhâm Tuất (5.6.1862), chứ không phải là “tháng 3-4 năm 1863”. Xin trích dẫn khá đầy đủ Di thảo này:
“Tôi là Nguyễn Trường Tộ, bề tôi nước Đại Nam đã từng trốn ra nước ngoài xin đem những điều mà tôi đã biết và thấy một cách chính xác về sự thế trong thiên hạ, mạo tội kính bẩm...
Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây nam cho đến Đông bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng... Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt...
Đến như địa thế Trung Hoa chiếm 1 phần 3 Đông phương, nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng phải thần phục họ cả, thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chất thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế hải (Biển Đông), là trạm nghỉ chân của người Tây phương trên đường sang Đông...
Mới đây, người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ...Người Pháp đến đây, một là hỏi ta vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao không chịu giao thiệp, ba là xin ta cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm. Lúc đầu họ không có ý đi cướp nước ngoài. Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn...
Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp lũy trừ kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào như cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa.
Tôi thường nghiên cứu sự thay thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách. Hơn nữa ở châu Âu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả... Thật đúng như sách Doanh hoàn chí lược đã chép vậy.
Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu...
Quân lính của ta lại chuyên dùng gươm dao gậy gộc, không thạo súng ống, dù phục binh gài bẫy, nhưng trận đồ như vậy chỉ hợp cho những tình thế không cấp bách, chỉ đánh được gần chứ không đánh được xa...
Hơn nữa họ đã lão luyện chiến trận, những phương pháp của Đông phương như dụ địch, kiêu binh, địa lôi, hỏa công, sập hầm, thuốc độc họ đều biết cả... Huống chi việc thắng bại lại do ở nhuệ khí. Họ từ xa đến dấn thân vào chỗ chết với khí thế một ra đi là không trở về...
Theo binh pháp, muốn cố thủ phải có hai điều kiện: một là thành trì, hai là nhân tâm. Lúc địch mới đến thì phải gấp rút chặn những chỗ xung yếu mà đuổi nó đi. Nếu kẻ địch đã thọc sâu vào cứ điểm, thì phải có thành cao hào sâu để hãm kẻ địch mệt mỏi. Đó là thượng sách. Ngày nay quân Pháp có hỏa thuyền để vận tải thì việc vượt muôn dặm cũng bằng chèo một mái chèo mà thôi... Nếu cần lắm thì phải gửi giấy xin quân Anh đóng ở Ấn Độ, Hương Cảng, Thượng Hải... thì sớm chiều là có thể đến nơi để giúp. Lại có quân của Y Pha Nho ở Lữ Tống (Phi Luật Tân) đến dồn sức tấn công...
Hiện nay tình hình trong nước rối loạn. Trời thì sinh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ..., trong Triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau;... ngoài ra các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá... bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước... Như thế loạn không phải chỉ từ bên ngoài mà ở ngay trong nước vậy...
Sự thế hiện nay chỉ có hòa...
Dân sẽ yên, sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển sang các nước lớn học cách đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu dài, mới biết lường sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỹ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy sức nhuệ, đợi thời hành động, mất ở phía Đông thì lấy lại ở phía Tây...” [8].
Chúng tôi trích dẫn tóm tắt Di thảo số 1 và thiển nghĩ đây là một dị bản của điều trần Hòa từ được đệ đạt từ năm 1861 hoặc đầu năm 1862, nghĩa là trước khi ký kết hòa ước Nhâm Tuất (5.6.1862) rất bất lợi cho ta. Tư tưởng chiến hay hòa là tư tưởng của thời kỳ Âu Tây đem quân đi chiếm thuộc địa khắp thế giới. Lấy tư tưởng ngày nay mà phê bình thì không thích đáng. Lời nhận định nặng nề của Nguyễn Trường Tộ về tình hình nội bộ của ta, tỏ ra ông là người sáng suốt và cương trực. Thật đáng suy nghĩ!
Trong Hòa từ cũng như trong Thiên hạ đại thế luận, Nguyễn Trường Tộ viết khi Charner “đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt” với ý đồ “hỏi một là tại vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao không chịu giao thiệp, ba là xin ta cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm”. Đó là khoảng đầu năm hay giữa năm 1861. Cuộc nghị hòa chưa thực hiện. Ngày 29.11.1861, Charner trao quyền cho Bonard; viên này đánh chiếm nốt các tỉnh miền đông Nam Kỳ và cả Vĩnh Long. Triều đình thấy nguy cơ lan rộng đành chấp nhận hòa đàm. Bonard đặt điều kiện hòa ước nặng nề hơn Charner. Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp nhỡ ký hòa ước Nhâm Tuất (5.6.1862), mặc dầu có góp ý “không giao tỉnh thành” của linh mục Đặng Đức Tuấn. Vì có điều liên can đến lịch sử Giáo hội tại Việt Nam, chúng tôi xin tạm dịch lời mở đầu với 12 điều của hòa ước.
Chú thích:
[1] Trương Bá Cần, sđd, trang 84.
[2] Quốc sử quán, Đại Nam thực lục. Tập XXIX. Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1974. Trang 297.
[3] Như trên, trang 297.
[4] Quốc sử quán, Đại Nam thực lục. Tập XXIX. Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1974. Trang 298 - 301.
[5] Lam Giang - Võ Ngọc Nhã, Đặng Đức Tuấn. Sài Gòn, 1970. Trang 148.
[6] Đại Nam thực lục, sđd, trang 301-305.
[7] Trương Bá Cần, sđd, trang 107-114.
[8] Trương Bá Cần, sđd, trang 107-114.