← Quay lại trang sách

Chương 7

Bốn ngày sau, vợ chồng ông mục sư, sắm sửa cho tôi bốn bộ âu phục và lo liệu mọi sự thuận lợi cho cuộc đáp tàu xong, bắt tay tôi, bảo:

- Tàu nhổ neo vào giữa lúc ngọ, cậu hãy lên đường xuôi buồm theo gió. Thượng đế chúng tôi sẽ phò trì cho cậu phúc tuệ đủ đầy. Cậu đi chuyến này, nhớ thỉnh thoảng viết thư nhắn tin về cho chúng tôi biết.

Ông bà mục sư nói xong thì cô gái tóc nâu lòa xòa xiêm áo xanh lam, cũng đề huề bước tới. Trông nường có vẻ ưu sầu. Tới bên tôi nường đưa tay ra bắt tay tôi một cách thân thiết vô cùng. Mấy ngón tay của nường thật là mịn màng ấm áp. Nường cầm một bó tỷ la lan hoa và hàm tu thảo. Hỡi ôi hoa thảo gì như thế! Thêm một bộ sách Anh văn thân tặng. Tôi cảm tạ đón nhận tặng vật của nường. Như đón nhận một kho tàng man mác của thiên tiên thơ ngây xuống trần gian thăm viếng giấc chiêm bao thi sĩ. Nường đìu hiu không nói lời nào cả, nhưng chẳng hiểu vì sao tôi nghe rõ ràng âm thanh nường văng vẳng trong không gian. Suốt cuộc hành trình, tôi nghe âm thanh ấy vọng theo tôi mãi mãi như từ một cõi sương tuyết vô hạn nào Tây phương khôn hàn tịch mịch… - “Người một thuở, mà chàng sầu vạn kỷ. Suốt một đời chàng sẽ đứng riêng tây…” Trời vẫn xanh, sóng biếc giỡn triều ngày…Tiền trình vạn lý nghiêng mày tạ nhau - (Dư bái tạ thụ chi. Nga nhi, hải thiên tại nhãn, dư Đông hành hỹ…)

Tôi lên tàu ngồi nhìn chân trời mây sóng trùng trùng điệp điệp. Phía trước, một hình bóng… mơ hồ… Phía sau, một hình ảnh đìu hiu nụ cười chất chứa u sầu. Tôi không biết. Tôi không biết gì nữa cả.

Thuyền rẽ sóng, năm ngày năm đêm như một cơn mơ dàn rộng. Em về? Bủa rộng chiêm bao. Buồn sông sóng biển chìm sâu bên dòng…

Thuyền đã lênh đênh buồm gió vượt Thái Bình Dương. Trời xanh ngắt. Sóng ngun ngút rì rào. Mặt trời hào quang chiếu diệu. Tôi bồi hồi luẩn quẩn trên boong tàu, quẩn quanh lui tới phòng thủy thủ. Mang mang thiên hải… Diêu diêu dư hoài… Cầm mấy cuốn sách của tiểu thư đưa tặng, mở ra. Trong đầy đủ toàn tập thi phẩm Shakerpeare, Byron và Surrey. Tôi nhận thấy Byron không khác gì Lý Bạch Trung thổ chúng tôi. Shakespeare là một nòi với Đỗ Phủ. Surrey thì cũng như Lý Hạ. Byron là thiên tài, Shakespeare là thiên tài, thánh thần tài. Surrey là quỷ vương ma chúa tài.

Tôi khởi sự đọc thơ Byron. Ngâm những vần du hành của Childe Harold. Tới đoạn cuối, có sáu chương vịnh trùng khơi đại hải.

Tôi than dài một tiếng:

- Hùng hồn kỳ vĩ, kim cổ thi nhân, vô ký thất hĩ! (Hùng hồng hoằng đại, thi nhân xưa nay, thật không ai sánh kịp vậy!)

Tôi thấm bút mực tạm phỏng dịch bài thơ ra Hoa ngữ như sau:

Hoàng đào lan hãn

Linh hải ưu minh

Vạn sưu cổ tập

Phiếm nhược khinh bình

Mang mang cửu vi,

Mỗi hữu di hư

Khoáng tai thiên chiểu

Phỉ nhân du cư…

(...)

(Mạn Thù đại sư dịch theo ý thơ, hồn thơ Byron, chứ không dịch sát lời bài thơ nọ:

“There is a pleasure in the pathless woods,

There is a rapture on the lonely shore;

There is a society where none intrudes,

By the deep sea, and music in its roar.

I love not man the less, but Nature more…”

Đại khái ta có thể lược dịch tổng hợp ra thơ Việt như sau:

Ba đào bành bái tuôn sôi

Thẫm đen linh hải chèo bơi vạn thuyền

Thuyền con, chiếc lá giữa miền

Dấu bèo phiêu dạt diện tiền lưu ly

Mang mang thiên địa cửu vy

Ngàn tầm hải vực vô kỳ thái hư

Mênh mông âm điệu gầm gừ

Hồn thiêng đại khí ngôn từ lãng ba

Thiên thu chấn đãng chan hòa

Ngọn triều non bạc như hà thế nhân

Thần công uy vũ vạn phần

Bão dông nguyên thủy phân trần càn khôn

Doanh hoàn vũ trụ trao hôn

Hai vành tịch nạp liên tồn lưỡng nghi

Như nhiên chân khí lầm lỳ

Hỡi ôi đại hải ù lỳ cứ tuôn

Vạn ngàn hải lý uông uông

Vào trong bất tuyệt bắt buông ra ngoài

Con người khổ lụy trần ai

Rụng rơi vết tích phôi phai điêu tàn

Con người bài bố đa đoan

Đành xin thúc thủ trước ngàn khơi vâng

Thiên thu bão tố luống từng

Đã chơi trận trận kiêu hùng là bao?

Con người ta? Giọt mưa rào

Vất vơ vùi lấp chôn vào đáy sâu

Ty hào còn lại chi đâu

Chỉ duy đại hải nguyên màu còn ngân

Thành trì hào lũy binh đoàn

Un ùn sấm sét tan hoang cung thành

Ngất trời dao động tam bành

Té ra rốt cuộc phù danh thôi mà

Hùng quang hải thượng âm ba

Còn dư cung bậc chan hòa liên thiên

Một đời tử diệt cuồng điên

Tuyết băng bèo bọt bốn miền nhà ma

Hùng tâm từ Armada

Tới bờ tráng khí Trafalga nào

Chỉ duy biền biệt ty hào

Còn chăng riêng chỉ ba đào lãng tinh

Carthage? La Mã biên đình

Assyria Greece còn tình tự chi?

Nước đại hải? Sóng biên thùy

Đã trào xuôi ngược vô kỳ thủy chung

Hỡi ôi vương chúa kiêu hùng

Hỡi ôi nô lệ cơn vùng dậy cơn

Hỡi ôi khổ lụy vong hồn

Thanh tân man dại lá cồn rụng hoa

Hồn sa mạc thạch lựu là

Cái chi như thế cái là cái chi?

Chỉ riêng ba lãng nguyên kỳ

Thiên thu bất diệt diên trì cuộc chơi

Từ sơ thủy lóng lánh ngời

Tới bây giờ vẫn rạng ngời long lanh

Xô ùa lớp lớp vòng quanh

Trùng khơi lộn ngược tiếp nhanh điệp trùng

Gương kim cổ? một lá bùa?

Huy hoàng thể thái? Bốn mùa bão giông?

Vạn năng bao quát xuân hồng

Thu xanh đông biếc phiêu bồng hạ dương

Thời gian vĩnh thể miên trường

Gào kêu? hiu hắt? hay mường tượng ngân

Thao thao bất xá xa gần

Hách nhiên thần quỷ hay thần thánh ma

Từ bắc cực tới hoàng sa

Từ nam cực tới vùng sa mạc nào

Từ băng giá giữa chiêm bao

Tới vùng nhiệt đới anh hào trường miên

Thần linh thị giám diện tiền

Hay là duệ hậu hách nhiên như là

Phò dao dương giác hải hà

Ngưng băng dâm lệ dê hòa hài hươu

Kể chi mang diễu bài trừu

Kể chi thùy mỵ ty hào tồn liên

Chỉ duy còn mãi là riêng

Mộng hồn đại hải là viên dung hình

Hình khiếm diện? Vẫn là hình

Từ trong cô thể mà hình tượng ra

Kình ngư vạn lý hay là

Thâm sâu vô để hồn ma quái nào

Từng khu vực mỗi âm hao

Lừng vang há giống hoàng mao thi thành

Ta yêu bao xiết tam bành

Hỡi ôi đại hải bao ngành nhớ nhung

Tang thương từ kể một vùng

Tằng kinh thương hải điệp trùng mà ra

Ân tình bao xiết nhà ma

Trút về cửa quỷ chan hòa đại dương

Lãng hoa phách ngạn khôn lường

Khương an khương thịnh mù sương khuynh thành

Vong hồn nam diện một cành

Còn lưa hơi thở cho mình yêu nhau

Chuyện ngày trước chuyện ngày sau

Gần xa bành gái một màu sơ nguyên

Bàn tay khép mở dịu hiền

Hỡi ôi thương hải diện tiền đón ta

Dịch xong bài thơ Byron, tôi ngâm vang lên một trận. Lúc bấy giờ màu trắng mới ở trên trời hắt hiu rỡn rỡn. Đúng như là màu xanh trăng mới im ngầm. Phấn thừa hương cũ bội phần chia xa. Gió đàn nhị nguyệt nhà ma. Giữa hoang vu biền lập lòa bốc tia. Ngọn đèn ngư phủ xa kia. Có nghe thơ vọng tới chia niềm gì.

Sáng hôm sau, con tàu cập bến Yokohama. Tôi lên bờ tìm một khách sạn. Hành lý lẽo đẽo mang đi. Sau đây, xin thuật lại những việc xảy ra trên đất nước Nhật Bản quê mẹ.