Chương 4 Những yêu cầu kỳ lạ
Tắm dưới làn nước vòi sen dày và mạnh là một trong những niềm vui ít ỏi của cuộc sống
– Luci Baines Johnson.
So với việc đối xử với những người khách khó chịu nhất thế giới của các khách sạn thì việc phục vụ đệ nhất gia đình còn khó hơn nhiều. Nếu họ muốn có những chiếc bánh kem napoleon mua từ tiệm bánh của Khách sạn Watergate (như Tricia Nixon vẫn thường đòi ăn) thì họ sẽ có ngay những chiếc bánh đó. Nếu họ cần có ai đó để lắng nghe họ nói về những quyết định đau lòng của họ mỗi ngày mà không phê phán họ thì sẽ có người lập tức cho họ mượn đôi tai. Tuy nhiên một số tổng thống lại đưa ra những yêu cầu không thể thực hiện được.
Tổng thống Lyndon Johnson là một nhân vật thô lỗ và dữ tợn. Ông ít khi vừa ý bất cứ chuyện gì. (“Đứng lên đi, đồ khốn, xách đít lên”, ông được nghe thấy hét lên như thế trong thời gian ông làm tổng thống. “Có nhanh lên không hả?”). Wilson Jerman nhớ là có một ngày ông phục vụ món cơm tôm creole cho tổng thống ở ban công Truman, trên đĩa cơm có hai cái nĩa để ăn cơm. “Ông ấy nhìn lên tôi và nói – Tôi sẽ không lặp lại chính xác những gì ông nói, nhưng đại khái là “Làm thế nào mà anh nghĩ tôi có thể ăn cơm với hai cái nĩa?” Tôi nói: “Tôi xin lỗi, thưa Tổng thống. Tôi sẽ lấy ngay một chiếc muỗng cho ông”.
Sự dữ dội và kiểu nói đầy dọa nạt của Johnson khiến cho nhiều nhân viên luôn tìm cách tránh mặt ông. “Dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy ông khác với các tổng thống khác đó là các tổng thống khác thường được nửa tá nhân viên cùng những kẻ bám đuôi tháp tùng từ Phòng Bầu dục về nhà”, cựu Tổng Quản lý Rex Scouten nói”. “Còn với Tổng thống Johnson thì chỉ có mỗi các nhân viên mật vụ là hộ tống ông về nhà”.
Bác gác cửa Preston Bruce đụng độ Johnson ngay từ ngày đầu tiên tổng thống dọn vào Nhà Trắng. Hôm đó, tổng thống mời hơn hai trăm người đến dự tiệc ở khu nhà riêng của gia đình, trong đó có cả các cựu cố vấn của Kennedy lẫn các nhân viên của ông. Ông Bruce đang một mình loay hoay ứng phó với chiếc thang máy thì đột nhiên thấy đèn thang máy nhấp nháy liên tục. Điều đó chỉ có một nghĩa duy nhất là tổng thống đang bấm thang máy và đang không vui.
Vừa lên đến tầng hai, Bruce đã nhìn thấy tổng thống đang nổi giận đùng đùng. “Ông ở đâu? Nãy giờ tôi cứ chờ và chờ cái thang máy này suốt”, tổng thống hét lớn, ngực phồng lên giận dữ và thân hình lù lù đe dọa. Chính thái độ này đã khiến ông nổi tiếng với tên gọi “The Treatment” (kẻ xử lý) và được ông sử dụng để làm các thành viên Quốc hội kinh hãi.
“Thưa Ngài Tổng thống”, Bruce không chịu thua, “Tôi đang cố gắng tiễn khách của ông ra về. Tôi biết cách làm chuyện đó, nhưng cần có thời gian”.
Ông Johnson tiếp tục gào thét với Bruce trước mặt hai nhân viên của Kennedy là Ted Sorensen và Ken O’Donnell. Bruce cảm thấy rất nhục nhã. “Bị đối xử thế này, tôi sẽ không làm ở đây nữa!” Tối hôm đó ông nói với Quản lý Nelson Pierce. “Tôi sẽ không bao giờ nguôi ngoai về cái chết của Tổng thống Kennedy”.
Ngày hôm sau, Johnson làm như chẳng có chuyện gì xảy ra, và Bruce quyết định rằng cách duy nhất để chế ngự vị tổng thống mới khó tính này là không nhượng bộ. “Tôi thấy rõ là một khi tôi bắt đầu khom lưng quỵ gối khi ông ta mất bình tĩnh thì đời tôi coi như xong”. Bruce ngay từ đầu đã biết Johnson hay bắt nạt người khác và cái mà ông ta khâm phục chính là sức mạnh. “Nếu tôi đúng và biết giữ vững lập trường của mình, tôi sẽ có một người bạn tri kỷ”. Bruce đã đúng. Trước khi Tổng thống Johnson rời nhiệm sở, ông đã ca ngợi người gác cổng, nói ông ấy là một trong những người giúp ông vượt qua công việc khó khăn này. Và tổng thống thứ ba mươi sáu này quả đúng là phức tạp.
Johnson thích nói chuyện tiếu lâm tục tĩu và luôn khiến mọi người cười ầm lên mỗi khi ông bắt đầu nói. Có một ngày ông làm vỡ chiếc bệ bồn cầu và “mọi chuyện trở nên ầm ĩ”, ông thợ điện kiêm giữ chó Traphes Bryant kể lại. Một chiếc bệ bồn cầu ngoại cỡ được đặt làm cấp tốc. Không chút ngượng ngùng, Johnson khoác lác với mấy ông bạn của mình về cái bệ mới mà mình đặt làm và khoe mình là chuyên gia về chuyện này. “Ông ấy khoe mình biết về ưu khuyết điểm của mọi loại bệ cầu ông ấy có thể có: bệ nhựa, bệ không phải nhựa, bệ tre, bệ in hoa, bệ kiểu Hy Lạp, hay bệ kiểu Mỹ xưa”.
Johnson nói với bạn bè ông ấy như thế này: “Bây giờ thì đố ai dám nói là bệ bồn cầu chỉ để cho vừa đít của nhân vật số một nước Mỹ”.
Là người khởi đầu sự nghiệp với công việc giáo viên trung học, ông Johnson thường lang thang khắp Nhà Trắng để chấm điểm tất cả mọi người, kể cả gia đình ông, cho những gì họ làm. Ông thường thò đầu vào các phòng dưới tầng hầm và nói to số điểm của từng nhân viên.
Có một lần ông thò đầu vào Phòng Điện và nói với Bill Cliber: “Hôm nay anh bị điểm F”. Cliber không nhớ vì sao mình bị điểm này.
Một lần khác, nhân viên phục vụ Herman Thompson kể: “Đôi lúc chúng tôi phải phục vụ tiệc tối và sau khi khách khứa ăn xong ra về, ông ấy vào bếp nói: “Này, các cậu, tối nay tất cả các cậu đều làm tốt đấy”.
Có thể lúc đầu Tổ trưởng Tổ Nước Reds Arrington (ông được gọi là Red vì có có mái tóc đỏ chói) thấy Johnson tức cười nhưng không bao lâu sau ông vô cùng khổ sở trước những yêu cầu lập dị của tổng thống. Arrington bắt đầu làm việc ở Nhà Trắng năm 1946 và về hưu năm 1979. Sau khi ông qua đời năm 2007, bà Margaret vợ ông đã viết sách kể lại nhiều câu chuyện về chồng mình. Bà nhớ lịch làm việc thay đổi xoành xoạch của Johnson đã ảnh hưởng đến cuộc sống của vợ chồng và ba cô con gái bà thế nào. “Chúng tôi đang ở trong nhà hàng tại Annapolis thì họ gọi đến nói rằng ‘Nhà Trắng gọi ông Arrington, Nhà Trắng gọi ông Arrington’. Tôi nghĩ chuyện này đúng là buồn cười vì Tổng thống Johnson chỉ đang muốn sửa cái tủ com–mốt của ông ấy”.
Johnson khiến Reds như bị tra tấn với nỗi ám ảnh về áp lực và nhiệt độ nước vòi sen của ông ta. Cho dù các nhân viên có làm cách gì thì nước cũng phun không đủ mạnh hoặc không đủ nóng để làm hài lòng ngài tổng thống. Mỗi khi tổng thống hứng lên chấm điểm các nhân viên thì lần nào hạng mục vòi sen cũng bị cho điểm F.
Việc điều chỉnh chiếc vòi sen của Tổng thống Johnson đã được thông báo ngay từ đầu cho các nhân viên đến nay vẫn còn buồn bực. Ngày 9 tháng 12 năm 1963, Tổng Quản lý J. B. West vừa mới quay lại làm việc sau ngày nghỉ phép đầu tiên của ông kể từ ngày Tổng thống Kennedy bị ám sát thì đã được gọi đến gặp Tổng thống Johnson lập tức ở chỗ đáp thang máy của Tầng Trệt. Gia đình Johnson chỉ mới chuyển vào Nhà Trắng được hai ngày, vậy mà tổng thống đã có chuyện gấp cần bàn bạc với ông.
“West, nếu anh không thể sửa cái vòi sen của tôi thì tôi sẽ quay trở về Elms ngay”, Johnson lạnh lùng nói và bỏ đi. Elms là ngôi nhà lớn của gia đình Johnson ở Washington D.C., trong đó trang bị một chiếc vòi sen mà chưa nhân viên nào từng thấy: nước từ các lỗ phun bắn ra mọi hướng với cường độ mạnh như kim châm cùng áp lực nước mạnh khủng khiếp. Một lỗ phun chĩa thẳng vào của quý của tổng thống và được ông đặt biệt danh là “Jumbo”. Một lỗ khác phun thẳng vào mông ông. Chuyện này bây giờ khiến ta thấy buồn cười nhưng việc sửa vòi sen lúc đó cho ông Johnson đã ảnh hưởng không ít đến mối quan hệ của ông với một số nhân viên.
Johnson muốn áp lực nước ở Nhà Trắng phải giống hệt áp lực vòi sen ở nhà ông – tức tương đương với áp lực nước của vòi chữa cháy – và ông muốn có một công tắc chuyển nhiệt độ nước từ nóng sang lạnh ngay lập tức, không được ấm.
Vài phút sau khi West bị tổng thống trách mắng, bà Lady Bird Johnson yêu cầu được nói chuyện với ông ở Phòng khách Nữ hoàng nhỏ trên tầng hai.
“Hình như ông đã nghe nói về chiếc vòi sen phải không?”, bà hỏi.
“Vâng, thưa phu nhân”.
“Với bất cứ việc gì đã làm hay phải làm ở đây, xin ông nhớ cho điều này: phải ưu tiên chồng tôi trước, rồi đến mấy đứa con gái của tôi, sau đó mới đến tôi”. (Bà cũng nói thế với Quản bếp Henry Haller: “Vai trò chính của ông là làm tổng thống vui”.)
Gia đình Kennedy chưa bao giờ than phiền về vòi sen nên các kỹ sư lúc này cảm thấy rất bối rối. Một nhóm kỹ sư được gởi đến tòa nhà Elms để nghiên cứu hệ thống ống nước ở đó, Reds thậm chí cũng được gởi đến nông trại của gia đình Johnson ở gần Stonewall, Texas (có biệt danh là “Nhà Trắng ở Texas”), mục đích là làm tăng áp lực và nhiệt độ nước ở Nhà Trắng đến mức gần như nóng bỏng. Khi biết chiếc vòi sen mới đòi hỏi phải thay ống mới và lắp đặt thêm một số máy bơm mới, Johnson yêu cầu quân đội thanh toán chi phí này. Cuối cùng, dự án tiêu tốn cả chục ngàn đô la này được chi trả bằng nguồn tiền dành cho mục đích an ninh, “Chúng tôi cuối cùng đã lắp 4 máy bơm, sau đó lại phải đổi các đường ống nước trong Nhà Trắng bằng những đường ống có kích thước lớn hơn để các nơi khác không bị hút cạn nước”, Arrington nói với tạp chí Life.
Bà Margaret Arrington nhớ lại chuyện tổng thống đích thân gọi cho Reds trong lúc ông ấy đang ở trong Phòng Nước dưới mặt đất, giữa Nhà Trắng và Cánh Tây. “Nếu tôi có thể điều động mười ngàn quân trong một ngày thì chắc chắn anh cũng có thể sửa cái phòng tắm theo bất cứ cách nào tôi muốn!”, Johnson gào lên, giọng ông vang dội khắp các hành lang Nhà Trắng.
Reds héo hon vì cái vòi sen suốt hơn 5 năm trời, đến mức phải nhập viện mấy ngày vì thần kinh suy sụp. Ông Johnson bị ám ảnh bởi chuyện này đến mức mỗi khi đi đâu xa, ông ta cũng mang theo cái đầu vòi sen của mình bên cạnh cả chục thùng whisky Cutty Sark. Johnson cũng muốn phòng tắm của mình luôn sáng trưng nên đòi phải gắn gương trên trần phòng tắm. Reds và nhóm thợ của ông lắp nhiều đèn đến mức họ phải lắp thêm cả quạt để đỡ nóng. Nhiệt độ nước vòi sen cao đến mức thường xuyên kích hoạt hệ thống báo cháy.
Có một ngày, bà Margaret kể, Reds đã phải thét lên khi nhìn vào tấm gương cạo râu của Johnson, “ông ấy có thể thấy rõ từng mạch máu trên gương mặt mình và nói điều đó thật đáng sợ”.
Ngày càng có nhiều người, kể cả nhân viên của Cơ quan chăm sóc vườn quốc gia, được gọi đến số 1600 Đại lộ Pennsylvania để giải quyết cuộc khủng hoảng vòi sen. Quản lý Rex Scouten thậm chí còn mặc đồ tắm nhảy vào để kiểm tra áp lực nước. “Áp lực nước vòi sen mạnh đến mức bắn văng ông ấy vào tường”, bà Margaret nói. “Còn Reds nói ông ấy đỏ như tôm luộc khi bước ra khỏi đó”.
Năm chiếc vòi sen đã được thay thế, trong đó có một chiếc được đặt làm ở cùng chỗ làm ra chiếc vòi sen ở Elms, nhưng chẳng có cái nào có tác dụng. Những người thợ ống nước thậm chí còn lắp một bồn nước đặc biệt có bơm riêng để tăng cường áp lực nước và thêm 6 lỗ phun ở độ cao khác nhau để nước có thể phun đều khắp người. Các máy bơm phun ra ba, bốn trăm lít nước mỗi phút, mạnh hơn cả vòi chữa cháy. Nhưng cũng vẫn chưa đủ mạnh.
Cliber, từng làm việc cho Nhà Trắng suốt 41 năm từ khi ông mới 20 tuổi, kể rằng có một lần Tổng thống Johnson gọi ông đến phòng tắm ông ấy để xem ông kiểm tra vòi sen.
“Anh đã sẵn sàng để kiểm tra trên người chưa?” tổng thống hỏi, người trần như nhộng trước mặt người thợ điện, một người trong số hàng chục nhân viên được đưa đến để giải quyết cuộc khủng hoảng nội bộ này.
“Lần này tôi sẽ phun nước vào người ông”, Cliber nói.
“Okay, nhớ phun mạnh hết cỡ đó”, Johnson vừa nói vừa nhảy vào chỗ tắm.
Khi Cliber bật vòi sen lên, ông Johnson kêu lên đau đớn bởi sức nước quá mạnh, “Whoa! Anh làm gì tôi thế này?” Nhưng chỉ một phút sau, ông ta đã hét lên sung sướng. “Đợi đã, đã quá! Whoa!” Sức nước đẩy bật ông vào tường và ông bước ra với cơ thể đỏ au.
Nhưng nó vẫn chưa hoàn toàn đúng ý ông.
Ngày cuối cùng Arrington nhìn thấy Johnson trong Nhà Trắng là lúc ngài tổng thống đang ngồi ở bồn cầu. Lúc đó Reds phải sửa chữa cái gì đó trong phòng tắm tổng thống và đang đứng bên ngoài để đợi ngài tổng thống đi ra.
“Vào đi”, Johnson la lớn.
Reds ngượng ngùng bước vào.
“Tôi chỉ muốn nói với anh rằng tắm vòi sen là niềm vui sướng của tôi, và tôi cảm kích mọi chuyện anh đã làm”.
Với Reds thì dấu hiệu biết ơn nhỏ nhoi đó cũng khiến cho những năm tháng căng thẳng của ông đỡ đau buồn hơn khi nhớ lại. Bà Margaret kể rằng Phu nhân Lady Bird đã mời vợ chồng bà đến thăm gia đình họ ở nông trại Texas sau khi ông Johnson qua đời. “Hôm đó thật tuyệt. Chúng tôi ăn tối ngoài trời và tôi được gặp các minh tinh màn bạc cùng các tướng tá trong quân đội. Tôi thực sự rất vui”.
Sau này, Lynda, con gái lớn của nhà Johnson đã đích thân cảm ơn hai vợ chồng Reds: “Khi ba tôi vui thì tất cả chúng tôi cũng vui. Tôi xin cảm ơn ông Arrington về chuyện đó!”
Khi tôi phỏng vấn Luci, em gái của Lynda, cô suy nghĩ nhiều hơn về nỗi ám ảnh vòi sen của ba cô. “Tắm dưới làn nước vòi sen dày và mạnh là một trong những niềm vui ít ỏi của cuộc sống”, cô nói với tôi. Cô ý thức rõ về di sản của ba cô và biết nó đã bị cuộc chiến ở Việt Nam ảnh hưởng ra sao. “Ba tôi có thể đã đưa ra những chỉ thị rất cụ thể và bộc lộ những mong đợi của mình một cách cứng rắn. Nhưng đây cũng chẳng phải là chuyện to tát gì khi ông là nhà lãnh đạo của thế giới tự do và muốn có một chút khuây khỏa và tiện nghi trong cuộc sống”.
Nhưng ngay khi Tổng thống Lyndon Johnson rời khỏi Nhà Trắng, chiếc vòi sen của ông cũng ra đi theo. Tổng thống Richard Nixon chỉ mới nhìn thoáng qua dàn vòi sen phức tạp là đã phán ngay: “Tống cái thứ này đi”.
MẶC DÙ CÓ những yêu cầu quái đản nhưng LBJ lại được các nhân viên trung thành tuyệt đối. Thư ký xã hội Bess Abell, người gọi Tổng thống Johnson là “sếp lớn” bằng cả sự thương yêu, từng có lần chịu sức ép dữ dội từ tổng thống. Sau khi Abell sinh con trai đầu lòng, ông Johnson gọi điện đến bệnh viện để hỏi bà đặt tên cho đứa nhỏ là gì. Khi bà nói tên cậu bé là “Daniel”, Johnson nói: “Tệ thật, nếu cô đặt tên nó là Lyndon, tôi sẽ cho nó một con bê cái”.
Sau chuyện đó, bà nói mình chắc chắn sẽ đặt tên cho cậu con thứ hai là “Lyndon”, “Ông ấy muốn tất cả mọi người đặt tên con theo tên ông ấy”, bà nói.
Lynda Bird Johnson Robb nói rằng ba cô “xem đó là lời khen ngợi lớn nhất dành cho ông” khi có ai đặt tên con họ theo tên ông. Và ông cũng chẳng bao giờ ngại ép mọi người làm điều đó. Một người bạn của Lynda kể cho cô nghe về cuộc nói chuyện giữa cô với ba của Lynda trước khi con trai cô ấy ra đời. “Cháu sẽ đặt tên cho đứa nhỏ là Lyndon chứ?”, Johnson hỏi, thân hình đồ sộ một mét chín của ông che hết cả người cô.
“Dạ không, chúng cháu đã chọn tên cho nó rồi”, cô lắp bắp.
Khi thấy vẻ thất vọng hiện rõ trên gương mặt ông, cô vội vàng nói thêm: “Nhưng chắc là bác biết chúng cháu yêu tất cả mọi người trong gia đình Johnson, vì thế chúng cháu sẽ lấy tên ‘Johnson làm tên đệm cho con trai chúng cháu”.
Lynda phá lên cười khi nhớ lại chuyện này. “Tôi không biết cô ấy có thực sự làm vậy vì chúng tôi không, hay chỉ vì muốn ba tôi vui hơn một chút”.
Khi Tổng thống Johnson mới nhận nhiệm sở, ông ra lệnh cho tất cả các phòng ban cắt giảm ngân sách. Tin rằng một lượng lớn điện bị lãng phí ở Nhà Trắng, ông khủng bố tinh thần tất cả những ai quên tắt đèn mỗi khi ra khỏi phòng. Trước đây, vợ chồng Eisenhower ra quy định là phải mở hết đèn ở các phòng trên Tầng Khánh tiết ra cho đến 12 giờ đêm nhưng Tổng thống Johnson yêu cầu chấm dứt ngay quy định này. Đích thân ông rảo khắp các hành lang để xem có ai vi phạm nội quy này hay không, và nếu như ông nhìn thấy ánh đèn ở một nơi nào đó mà ông không muốn đến tận nơi kiểm tra, ông sẽ điện cho Phòng Quản lý và yêu cầu họ tìm xem ai đang ở đó. Nếu trong phòng không có ai, ông sẽ vô cùng giận dữ.
Một buổi tối, anh thợ mộc Isaac Avery ở lại trễ và đang làm việc trong Phòng Mộc thì đột nhiên căn phòng trở nên tối thui. “Mẹ kiếp, ai tắt đèn đó?” Avery hét lên. Tiếp đó là một khoảng lặng.
“Tôi”, một giọng làu bàu vọng đến từ ngoài hành lang.
Avery bật đèn lên và đi ra ngoài hành lang xem thử ai. Anh thấy tổng thống đang đứng đó, hai bên là hai nhân viên mật vụ.
“Tôi không biết các cậu làm việc trễ vậy”, Johnson nói, giọng vui vẻ vì biết mình có lỗi.
“Tôi đang làm cho xong mấy cái khung cho những bức hình ông gởi đến”, Avery nói, ngơ ngác.
Một nhân viên khác thiếu may mắn hơn cũng đang bận lắp công tắc giật dây vào mấy cái đèn huỳnh quang trong Phòng Mộc thì bị Johnson bắt gặp anh đang bật đèn – ngay giữa ban ngày ban mặt.
“Ông ấy bám theo anh ta nói xa xả”, Bill Cliber nhớ lại mà vẫn còn rùng mình.
Cliber cho biết các nhân viên đi đâu cũng phải cầm theo đèn pin vì sợ bất chợt kẹt trong bóng tối.
Tổng thống Johnson còn có một yêu cầu quá đáng khác. Các bậc cầu thang đều được mở đèn để người đi được an toàn nhưng ngài tổng thống lại cho rằng làm như thế sẽ tiêu tốn quá nhiều điện.
“Anh phải tắt hết tất cả đèn ở các bậc cầu thang”, Johnson nói với Cliber.
“Thưa ngài tổng thống, ông không thể tắt đèn ở các bậc cầu thang. Đây là một tòa nhà lớn. Mọi người đều nghĩ Nhà Trắng chỉ có ba tầng nhưng bên trong có đến tám tầng (kể cả hai tầng lửng). Vả lại các bậc thang đều bằng đá hoa. Nếu trượt chân, ông sẽ bị thương”.
“Anh chắc không?”, Johnson vẫn rất muốn tắt tất cả đèn ở đó.
“Vâng, thưa ông. Tôi chắc chắn”.
“Được, vậy thì cứ để đèn ở các bậc thang”, Johnson đáp lại. Đây là một trong những lần rất hiếm hoi mà ông nhượng bộ. Tuy nhiên, thỉnh thoảng ông vẫn ghé vào phòng làm việc của Cliber dưới tầng hầm để kèo nài: “Anh vẫn bật đèn ở các bậc cầu thang đấy à?”
Người duy nhất thực sự dám đối đầu với Johnson (ngay cả ông gác cửa Preston Bruce cũng phải nói chuyện thận trọng với ông chủ của mình) là Zephyr Wright, người đầu bếp mà gia đình Johnson đưa từ dưới Texas lên cùng với họ. Ngay từ đầu cô đã nhận ra rằng mình phải “thuyết phục ông ấy” ngay từ trước khi ông trở thành tổng thống.
Một buổi tối, Tổng thống Johnson về nhà khoảng 11 giờ 30 và muốn ăn tối. Ngay cả với Johnson, bữa ăn tối này cũng là muộn bất thường, muộn đến mức Wright cũng đã xuống nhà đi ngủ. Khi ông gọi cô lên lầu dọn ăn cho ông, cô quên bẵng chuyện tắt đèn trước khi quay trở lên lầu. Khi thấy đèn dưới nhà vẫn mở, ông dọa sẽ trừ tiền điện vào lương cô.
Thế là cô nổi điên lên. “Được, ông cứ làm thế đi vì dù sao nếu tôi ở nhà, tôi cũng phải trả tiền điện của mình, chưa bao giờ có ai nói tôi phải tắt đèn. Nhưng nếu ông về nhà đúng giờ thì ông sẽ chẳng cần lo lắng chuyện tôi tắt đèn bởi đèn sẽ không được bật nếu như ông về nhà đúng giờ”.
Phương pháp của cô đúng là có tác dụng: “Tất nhiên là sau lần đó ông ấy không còn nói kiểu đó với tôi nữa”.
LYNDON JOHNSON KHÔNG phải là cư dân Nhà Trắng duy nhất thử thách thần kinh thép của các nhân viên. Ronn Payne nhớ có một ngày bà Nancy Reagan gọi ông vào Phòng khách Tây trên tầng hai. Khi ông đến nơi, bà đang ngồi dưới chiếc cửa sổ lớn hình bán nguyệt.
“Ronn, đèn”, bà phất tay lên phía trên một cách điệu đàng. “Chưa bật”.
Payne là thợ cắm hoa chứ không phải thợ điện. Ông nhìn quanh phòng và thấy cái công tắc đèn trên tường.
“Tôi tự nhủ là công tắc đèn nằm ngay ở đây. Mình có nên bật công tắc để làm bà ấy thấy mình lố bịch, hay là nói ‘tôi sẽ gọi thợ điện đến cho bà?’”
Ông quyết định nhấn công tắc bật hết các đèn trong phòng. Như thể mình là nữ hoàng, vị đệ nhất phu nhân nhìn lên ông nói “cảm ơn” mà chẳng hề có chút ngượng ngùng bối rối.
“Bà ấy được nuông chiều quá nên hóa hư”, Payne nhăn mặt. “Khi bà ấy muốn có thứ hoa mà tháng trước bà ấy cũng đã muốn có nó, và nếu ta thuyết phục bà ấy đổi từ lan Nam Phi trắng sang huệ trắng vì không phải nơi nào trên thế giới cũng có lan Nam Phi trắng, bà ấy sẽ nói rằng: ‘Rồi anh cũng sẽ tìm ra cách thôi’”. Và đúng như thế thật: các nhân viên cắm hoa cuối cùng cũng có được những cành hoa mà họ phải cho chở tuốt từ châu Âu sang trên chuyến bay đêm chỉ để làm vui lòng bà.
Tuy nhiên, cũng như Bếp trưởng Mesnier, Payne nói ông thích Phu nhân Reagan thẳng thắn nói ra những gì mình muốn. Và nếu ta làm theo những gì bà ấy yêu cầu, bà rất vui.
“Tôi nhớ có lần tôi nghe tiếng bà ấy gọi cô hầu phòng riêng của bà bằng một giọng mà nghe qua tôi đã sợ hết hồn. Tôi không bao giờ muốn làm đối thủ của bà ấy”, cô thợ cắm hoa Wendy Elsasser nói.
Giờ làm việc của Cletus Clark thường là từ 7 giờ 30 sáng đến 4 giờ chiều, nhưng ông nhớ lịch làm việc của mình đã nghẹt cứng thế nào khi bà Reagan quyết định trang trí lại tầng hai và tầng ba.
“Bà ấy không muốn tôi về nhà! Chúng tôi làm mỗi ngày mười tiếng, một tuần bảy ngày, vậy mà lúc tôi đến chào bà ấy khoảng 8 giờ tối, bà ấy còn hỏi: ‘Anh đi đâu vậy?’ Tôi trả lời: “Tôi phải về nhà, thưa bà”. Clark cho biết chuyện này tệ hại đến mức mỗi khi ông nhìn thấy bà trong Phòng khách Tây là ông lại đi xuống bằng lối cầu thang phía đông để bà không nhìn thấy ông ra về. “Tôi phải về nhà. Sau bảy ngày làm việc liên tiếp mỗi tuần, cơ thể tôi rã rời”.
Bà Nancy Reagan có những tật kỳ lạ gần ngang với Tổng thống Lyndon Johnson. Bà không chịu được phụ nữ để tóc dài và buộc các cô hầu phòng phải đính nhãn lên quần áo của bà, trên đó ghi rõ ngày mua và lần cuối cùng chiếc áo đó được mặc.
Bà cũng có nhiều món đồ sưu tập mà bà rất tự hào trưng trong Nhà Trắng, trong đó bộ hộp nữ trang Limoges nhỏ bằng sứ vẽ thủ công, gồm khoảng hai mươi lăm chiếc hộp cả thảy, được bà xếp kỹ lưỡng trên một chiếc bàn. Bà cũng có một bộ trứng bằng sứ và một bộ đĩa. (“Họ có vô số những món đồ lặt vặt, đó là vì họ không phải lau chùi chúng”, Tổng Quản lý bộ phận phòng Christine Limerick nở nụ cười gượng gạo). Ai mà xê dịch món đồ nào dù chỉ một li, bà Nancy Reagan cũng biết ngay. Tương tự, bà yêu cầu tất cả các khung bạc cùng những lọ nước hoa đắt tiền của bà phải được xếp hoàn hảo trên kệ phòng tắm, và phải được đặt trở lại đúng chỗ cũ sau khi lau chùi xong.
Mặc dù Limerick luôn tránh không nói xấu những chủ cũ nhưng bà dành ngoại lệ cho một Nancy Reagan “vô cùng khắc nghiệt”. Limerick vẫn nhớ như in điều khiến bà rời Nhà Trắng suốt 5 năm. “Vào đầu chính quyền của họ, có một số đồ vật bị vỡ. Một cái do Bộ phận Phòng làm vỡ, một cái do Cơ quan Mật vụ làm, một cái do Bộ phận Điều hành làm”. Bà Reagan đổ hết lỗi lên đầu Limerick. “Bà ấy mắng nhiếc tôi thậm tệ, thật đó!”
Bà xỉ vả Limerick dai dẳng đến mức cuối cùng Tổng Quản lý Rex Scouten phải lên tầng hai để can thiệp. “Chris, cô đi được rồi”, Scouten quay sang Limerick nói và tự nguyện đứng ra thế chỗ bà để nghe chửi rủa. Sau này ông cho Limerick biết là ông cứu bà vì “Cô nghe đủ rồi”. Đệ nhất phu nhân liền chuyển sang trút giận lên đầu Scouten, người mà bà sủng ái đến mức đã lấy tên Rex của ông để đặt cho chú chó spaniel Cavalier King Charles của bà. Bà thậm chí còn gọi Scouten là “người đàn ông quan trọng thứ hai trong đời tôi”. Nhưng tất cả những điều đó vẫn không đủ để bà tha không la mắng ông.
Đến hơn 20 năm sau, Limerick vẫn còn bàng hoàng khi kể lại chuyện này. Bà nhớ chính xác những thứ bị vỡ: “Một cái đĩa Limoges, một chân đèn cầy, và một lần khác một nhân viên mật vụ vấp phải cái bàn khiến một số thứ rơi xuống”. Tất cả chỉ là tai nạn. Nhưng đệ nhất phu nhân không cần biết chuyện đó. “Bà ấy đau buồn đến mức bắt tôi gói nhiều món đồ cá nhân đang trưng trên mặt lò sưởi trong khu nhà ở lại. Những món đồ này được gói kỹ suốt mấy tháng trời. Mãi đến khi mọi việc lắng xuống, chúng tôi mới mở các gói đó ra trở lại”.
Sau cơn giận dữ đó, Limerick quyết định áp dụng một phương thức mới để nắm những gì có khả năng xảy ra. Các nhân viên làm phòng vẫn quét bụi và sắp xếp mọi thứ ngăn nắp trong tòa nhà nhưng mỗi tháng họ phải làm sạch một phòng thật kỹ. Limerick thậm chí còn quyết định cho chụp hình phòng ngủ, phòng tắm, phòng khách và phòng làm việc của đệ nhất gia đình trước mỗi lần dọn dẹp trong tháng để có trong tay hồ sơ chứng minh mọi thứ đã được đặt trở lại chỗ cũ.
Điều khó khăn nhất đối với Limerick là phải làm việc gần gũi với đệ nhất phu nhân. Bà thậm chí còn phải giúp đệ nhất phu nhân gói quà tặng bạn bè. Mặc dù bị phu nhân Reagan trách móc nặng nề nhưng bà không thể tự bào chữa. Tất cả những gì bà có thể làm là tiếp tục cúi đầu xin lỗi.
“Trong suốt sự nghiệp của tôi, tôi chưa từng bị ai than phiền về chuyện khăn ga hay chuyện làm giường”, bà nói. “Mấy cô làm việc cho tôi có thể khiến tôi xấu hổ mặc dù tôi có thể làm giường khá tốt”.
Năm 1986, sau khi làm việc cho Nhà Trắng được 7 năm, Limerick nghỉ việc để quay về Khách sạn Mayflower. Sau đó bà đi Hawaii vài năm trước khi quay trở lại Nhà Trắng năm 1991. Bà thừa nhận là nguyên nhân khiến bà ra đi phần nào là do việc cố gắng theo kịp những yêu cầu của đệ nhất phu nhân khiến bà kiệt quệ. “Không phải vì phu nhân Reagan là người như thế mà bởi vì tôi thấy mình lúc nào cũng như sắp buột miệng cãi lại bà ấy”. Mà chuyện đó lại là một cái tội rất lớn ở Nhà Trắng, bà biết thế.
Trong 5 năm gián đoạn công việc của Limerick, người thế chỗ bà đã làm náo loạn Nhà Trắng. Người trưởng Bộ phận Phòng mới gặp khó khăn trong việc đương đầu với căng thẳng công việc, và những câu chuyện về thái độ kỳ lạ của bà cuối cùng cũng lọt đến tai Limerick. Theo ông Roland Mesnier thì người trưởng Bộ phận Phòng này “có lần vào kho yêu cầu mua mười ngàn con gấu bông cho trẻ em trên toàn thế giới”. Bà ấy quả thực đã viết đơn đặt mua thú nhồi bông, ông nói. Một lần khác, hai nhân viên cắm hoa Ronn Payne và Wendy Elsasser cho biết bà ấy đi làm mà trên mi mắt vẽ đầy hình tam giác màu ngọc lam tươi. Bà còn nổi tiếng với chuyện vừa đi dọc hành lang tầng hầm và xịt nước khử mùi bên ngoài phòng các nhân viên vừa la toáng lên là “chỗ này hôi quá”.
Các nhân viên nói Cơ quan Mật vụ muốn sa thải người phụ nữ ấy sau các biểu hiện đáng lo ngại của bà ta nhưng người kế nhiệm Limerick được phép ở lại. Limerick nghĩ sở dĩ bà ta có thể ở lại là nhờ Phu nhân Barbara Bush thông cảm với bà ấy. Elsasser cũng đồng ý với Limerick. Cô cảm thấy là Phu nhân Bush đã cho người nhân viên rối loạn tâm trí này rất nhiều cơ hội vì mong muốn bà ấy đỡ hơn. “Phu nhân Bush có tấm lòng rất nhân hậu”, Bếp trưởng Mesnier nói. (Khi được phỏng vấn cho cuốn sách này, bà Barbara Bush quyết định không nói về người kế nhiệm Limerick ngoài việc xác nhận rằng bà ta quả thực đã gặp khó khăn trong xử lý áp lực công việc).
Cuối cùng thì bà Bush cũng nhận ra rằng thái độ của người trưởng Bộ phận Phòng không hề thay đổi. Có một ngày, Skip Allen, viên quản lý được chỉ định phụ trách bộ phận này được gọi lên lầu khẩn cấp. Wendy Elsasser đang chuẩn bị thay các bình hoa ở lối vào sảnh trung tâm dẫn vào phòng ngủ của Jenna và Barbara Bush thì đột nhiên người trưởng Bộ phận Phòng chộp lấy chiếc gối (do đệ nhất phu nhân khâu tay) ném vào người cô và hét lên “Thật nhảm nhí!”. Jenna và Barbara đang đứng gần đó khi chuyện này xảy ra. Chúng rất sợ hãi. Không biết chuyện gì khiến bà ta nổi cáu lên như thế.
Một khi các cháu của mình bị kéo vào chuyện này, đệ nhất phu nhân quyết định cho người thay thế Limerick nghỉ ngay. Allen giúp hộ tống người phụ nữ vừa đi vừa la hét đó ra khỏi tòa nhà. “Bà ta không ra đi trong yên lặng”, ông nói.
KHI TRỞ LẠI Nhà Trắng, Christine Limerick được làm việc dưới trướng những chủ nhân dễ dàng hơn, đầu tiên là Phu nhân Bush, sau đó đến Phu nhân Hillary Clinton. Một số nhân viên cảm thấy làm việc với bà Clinton là một thách thức lớn nhưng Limerick thì lại nhìn thấy khía cạnh tích cực của bà ấy trong tư dinh.
“Hillary rất rất đồng cảm với nhân viên nữ. Bà rất vui vẻ với các cô hầu phòng và nói chuyện với tất cả bọn họ. Bà biết hết những mặt mạnh yếu của họ”. Limerick biết một số nhân viên nam không đồng ý với nhận định của mình nhưng cho rằng họ làm thế vì nhiều lý do khác nhau. “Một phần là do lỗi của họ”, Limerick nói về các nhân viên nam, nhưng đồng thời bà cũng thấy rằng điều này phản ánh mối quan tâm đặc biệt của đệ nhất phu nhân dành cho các nhân viên nữ. “Tôi nghĩ là bà ấy khó khăn với nam giới hơn là với phụ nữ. Bà ấy dễ khoan dung hơn khi chúng tôi làm sai”.
Có một lần, Limerick nhớ lại, Hillary nhờ bà nhuộm một màu khác cho bộ y phục màu ngọc lam của bà. “Thường thì tôi xử lý các bộ quần áo khá tốt”, bà cười khúc khích. “Đó là loại vải giặt được. Lúc chúng tôi bắt đầu nhuộm thì bộ y phục có size 10, nhưng đến khi tôi làm xong thì nó biến thành cỡ size 2. Vậy mà bà ấy chỉ thấy tức cười về chuyện này”.
Còn Bill Clinton thì không phải lúc nào cũng biết thông cảm. Tổng thống Clinton bị dị ứng gỗ thông nhưng đến Giáng sinh, đệ nhất phu nhân lại muốn trưng một cây thông thật vài ngày trong Phòng Bầu dục Vàng ở tầng hai. Theo kế hoạch thì cây thông sẽ được dựng lên ngày 19 tháng 12 vào hạ xuống ngày 28.
Công việc của Limerick là bày tất cả những đồ trang trí cá nhân của gia đình tổng thống ra, sau đó các nhân viên Phòng Hoa và Phòng Điện mới đến gắn đèn. Limerick biết tổng thống vẫn thích trang trí cây thông Noel với con gái Chelsea vì nó giúp ông thấy như mình đang mừng Giáng sinh với gia đình như mọi người cha khác, dù là chỉ vài giờ.
Tuy nhiên năm đó đệ nhất phu nhân lại muốn trang trí cây thông Noel sớm hơn. “Tối nay tổng thống có việc bận. Cô có thể treo gần hết mọi thứ lên cây trừ hai chục thứ này ra không?” Bà Hillary chỉ vào một hộp đồ trang trí và nói với Limerick. Người quản lý bộ phận phòng làm theo những gì được yêu cầu. Đến khi tổng thống lên tầng hai sau khi dự xong sự kiện về và nhìn thấy một số đồ trang trí treo sẵn trên cây, ông nổi điên lên.
“Ai đã làm chuyện này?”, ông hét ầm lên.
“Là cô Chris, nhân viên phòng”, một người phục vụ nói với ông.
Sau này, người phục vụ đó cho Limerick biết là tổng thống đã lầm bầm một câu gì đó đại loại như: “Cô ta liệu hồn có ngày mất việc”.
Đến khoảng nửa đêm, một nhân viên phục vụ gọi cho Limerick để kể chuyện gì đã xảy ra. Bà rất lo nhưng tin rằng bà Hillary sẽ bảo vệ mình. Sáng hôm sau, một ngày thứ Bảy, bà thông báo với tầng ba là bà sẽ lên trên lầu gói quà cho gia đình tổng thống.
Bà Clinton bước qua cửa, giọng bực bội: “Sẽ không có chuyện làm ơn mắc oán trong nhà này đâu. Tôi đã nói chuyện với Bill rồi, cô đừng lo”.
“Cảm ơn bà”, Christine thở phào nhẹ nhõm.
Một lần khác, Limerick nhận được một cuộc gọi từ người hầu riêng của tổng thống. Anh ta cho bà biết là tổng thống không thích một trong số các thợ may bà giới thiệu. Trước đó, bà cho ông danh sách bốn người thợ may. “Lúc đó mới 2 giờ sáng mà anh hầu riêng đã càm ràm chuyện tổng thống tức giận và tôi phải liệu hồn”, Limerick kinh ngạc.
Sáng hôm sau, vừa đến chỗ làm bà đã vội vàng điện cho văn phòng tổng thống. Bà quá chán phải nghe mọi chuyện qua một người khác, và ngờ rằng các nhân viên phục vụ và người hầu riêng của tổng thống đã làm mọi thứ trở nên tệ hại hơn khi chuyện bé xé ra to, thậm chí là thêu dệt mọi thứ để thêm phần bi tráng.
“Tôi biết mình đang gặp rắc rối vì tổng thống không thích người thợ may”, Limerick nói với Betty Currie, thư ký của Clinton.
“Cô chờ một chút, tổng thống đang ở ngay đây”, Currie nói và chuyển điện thoại cho tổng thống.
“Xin lỗi ông”.
“Có gì to tát đâu”, ông cười lớn.
Làm mình mất công sợ, Limerick nghĩ.
Theo Skip Allen, vợ chồng nhà Clinton không phải lúc nào cũng nhất quán trong các yêu cầu của họ. “Họ đòi một thứ gì đó nhưng đến khi ta đưa nó đến thì họ lại nói đó không phải là thứ họ thực sự muốn”, Allen nói. “Họ không biết cách nói rõ điều mình muốn nên cứ đòi thứ họ nghĩ là họ muốn nhưng thực ra lại không phải vậy”.
Allen nhớ có lần bà Hillary Clinton gọi điện cho ông để than phiền là nhà bếp làm một món gà nào đó quá thường xuyên và bà muốn người đầu bếp phải ngưng dọn cho họ món đó. “Thế là tôi gọi cho bếp trưởng và nói ông ấy đưa món gà đó ra khỏi thực đơn vì họ không muốn dùng món đó nữa. Vài tháng sau, tôi nhận được một cuộc gọi của đệ nhất phu nhân nói rằng “Anh hỏi bếp trưởng xem vì sao ông ấy không dọn món gà mà chúng tôi rất thích đó nữa?”. Ông thở hắt ra: “Họ cứ thế suốt 8 năm trời”.
Các nhân viên nói rằng vợ chồng Clinton trái ngược hẳn với vợ chồng Reagan. Họ mà còn thức đến một hai giờ sáng và không thể ngủ được là lại bắt đầu sắp xếp lại bàn ghế. Theo Allen, cũng là người phụ trách Phòng Quản lý Mỹ thuật, các nhân viên quản lý mỹ thuật xem việc xê dịch bàn ghế này là cơn ác mộng bởi năm nào họ cũng phải thống kê từng thứ một trong bộ sưu tập nội thất của Nhà Trắng. “Họ tự tiện chuyển cây đèn, cái bàn hay cái ghế từ phòng này sang phòng khác. Đến khi các quản lý mỹ thuật lên lầu kiểm kê, mặc dù trên hồ sơ ghi rõ là chiếc ghế này nằm trong phòng làm việc nhưng họ phải tìm kiếm nó khắp nhà vì gia đình Clinton đã chuyển nó lên phòng khách ở tầng ba... Chuyện này khiến mọi thứ rối tung”.
Vợ chồng Clinton dường như cũng quên bẵng những quy tắc liên quan đến giờ ăn, nhưng vì ai cũng sợ nên không dám nói với họ. Bếp trưởng John Moeller, từng làm việc trong bếp từ năm 1992 đến năm 2005, không bao giờ biết đệ nhất gia đình muốn ăn lúc nào hoặc ông phải nấu cho bao nhiêu người ăn. “Với vợ chồng Bush, chúng tôi lúc nào cũng được gọi điện báo trước là hôm nay “có hai người ăn trưa lúc 12 giờ rưỡi”. Còn với vợ chồng Clinton, chúng tôi chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cho đến khi nó xảy ra rồi!”
Một tuần sau ngày gia đình Clinton chuyển vào Nhà Trắng, anh phục vụ Buddy Carter hoảng hốt chạy vào bếp nói với Moeller là gia đình tổng thống đã ngồi vào bàn và sẵn sàng dùng bữa tối – ngay bây giờ. “Đồ ăn đã có nhưng tôi phải hâm nóng lại, cho tôi một phút”, Moeller nói với anh ta. Kể từ ngày đó trở đi, ông phải luôn chuẩn bị sẵn mọi thứ trong khoảng thời gian ăn trưa và ăn tối”.
Các bạn bè và trợ lý chính trị của vợ chồng Clinton cũng thích tư vấn cho các gia nhân nhưng đôi khi lại tư vấn không đúng. “Họ nói với chúng tôi rằng bà Clinton dùng loại dầu gội đầu đó và chất khử mùi đó nên chúng tôi ra ngoài mua về khoảng hai mươi thùng”, Limerick phá ra cười khi nhớ lại chuyện này. “Tôi biết mình ngốc cỡ nào khi sau đó bà ấy [Hillary Clinton] nói với tôi rằng “Chris, tôi không thích loại đó”.
Đôi khi những nỗ lực làm vừa lòng gia đình tổng thống lại gây nguy hiểm cho các khách mời của Nhà Trắng. Mỗi năm đến mùa lễ là trong tư dinh lại xảy ra tranh cãi về chuyện nên trang trí tầng Khánh tiết làm sao cho đẹp nhất. Tổ trưởng Tổ Hoa Nancy Clarke thích trang trí cả chục ngọn nến trên bàn buffet nhưng Bếp trưởng Mesnier quả quyết rằng làm vậy có nguy cơ gây cháy. Nhưng bà Clinton muốn vậy, Clarke khăng khăng tuyên bố.
“Có một năm, trong số khách mời có một phụ nữ choàng khăn lông cáo ở cổ. Khi bà chồm người qua bàn để lấy bánh quy, lửa đèn cầy bắt vào chiếc khăn lông cáo. Ơn trời, một người phục vụ đứng ở đó đã nhanh tay giật chiếc khăn choàng ra khỏi người bà và dùng nước dập tắt ngọn lửa”, Mesnier hồi tưởng. “Tất nhiên là sau lần đó, không còn ngọn nến nào được trang trí trên mấy cái bàn của tôi nữa”.