← Quay lại trang sách

Chương 13 Văn Cao (1923-1995)-

Chương 13

văn cao (1923-1995)

ăn Cao ở trong thơ, nhạc, họa, cho nên được giới nghệ thuật ba ngành mến phục. Là tác giả quốc ca, nhưng Văn Cao suốt đời bị chính quyền cộng sản nghi ngờ, tác phẩm bị trù dập, phân biệt đối xử.

Tìm hiểu cuộc đời của Văn Cao cũng là tìm hiểu giai đoạn lịch sử 45-46, mà các văn nghệ sĩ xuất thân từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, nhiều thành phần chính trị và phi chính trị khác nhau đã theo Việt Minh để tranh đấu cho một lý tưởng: chống Pháp. Những Văn Cao, Phạm Duy, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Đình Thi, Lưu Hữu Phước,... đã có một thời hoạt động chung vai sát cánh, nhưng rồi chính trị sẽ phân lìa mỗi người một con đường, một chiến tuyến.

Tìm hiểu Văn Cao tức là tìm hiểu tại sao có sự chia cắt tinh thần và thể xác Việt Nam, tìm hiểu sự tranh giành ảnh hưởng giữa các đảng phái chính trị trên đường giành độc lập, để thoát khỏi cái nhìn một chiều về lịch sử: lịch sử ta-địch trong quá trình đấu tranh giai cấp.

Tìm hiểu Văn Cao là để tìm đến nguồn cội của vấn đề: Văn hoá Việt Nam là một toàn khối, không thể chia đôi. Tâm hồn Việt Nam là một toàn khối, không thể phân liệt. Toàn khối ấy đã thể hiện trong cuộc kháng chiến từ 1945 đến 1950: Hầu hết các văn nghệ sĩ ở mọi khuynh hướng đều cùng nhau chung lòng cứu quốc.

Văn Cao, Phạm Duy hai khuôn mặt điển hình nhất của nền Tân nhạc Việt Nam: cùng theo kháng chiến từ phút đầu. Cùng có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 1951, Phạm Duy vào thành, Văn Cao ở lại, mỗi người một giới tuyến. Nhưng tác phẩm của họ, mãi mãi sẽ là của toàn thể dân tộc Việt Nam.

● Tiểu sử

Văn Cao là tên thật, họ Nguyễn, sinh ngày 15/11/1923 tại làng Lạch Trai (gần Hải Phòng) mất ngày 10/7/1995 tại Hà Nội. Nguyên quán làng An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tiểu học trường Bonnal, trung học trường dòng Saint-Joseph, ở đây được học thêm âm nhạc. Cha là Nguyễn Văn Tề, cai máy nước. Vì cha bị mất việc, Văn Cao phải bỏ học, làm điện thoại viên ở bưu điện Hải Phòng, được một tháng, bỏ.

Cuối 1939, Văn Cao viết ca khúc đầu tiên Buồn tàn thu, ảnh hưởng Lê Thương, bản nhạc được Phạm Duy đem đi hát khắp nơi. 1940, Văn Cao đi Hà Nội, Huế, Sài Gòn, tiếp xúc với phong cảnh nên thơ và âm nhạc trữ tình của Huế và thơ Hàn Mặc Tử tại Sài Gòn. Từ điển văn học ghi: "1940, vào Nam kiếm sống, làm họa sĩ trang trí nội thất cho cho một hãng tư nhân ở Sài Gòn, gần một năm. Bị chủ quỵt tiền công nên bỏ việc ra Bắc"412. Chi tiết này không thấy ghi ở các tài liệu khác. Tựu trung, thời kỳ 1940-43, Văn Cao sáng tác sung mãn nhất. Những ca khúc lịch sử đi đôi với ca khúc lãng mạng trữ tình: Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Bến xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi... và cũng là thời kỳ gắn bó cộng tác văn nghệ và hoạt động cách mạng giữa hai nhân tài: Văn Cao-Phạm Duy.

Năm 1942, Văn Cao lên Hà Nội học dự thính (auditeur libre) trường Mỹ Thuật Đông Dương, và lần đầu tiên, thơ văn của ông được Vũ Bằng đăng trên Tiểu thuyết thứ bẩy.

1943, triển lãm tranh lần đầu ở Salon Unique - Phòng Triển lãm Độc đáo. Bức tranh Les Suicidés - Những kẻ tự sát của Văn Cao gây tiếng vang trong giới hội hoạ, theo Tạ Tỵ, đã có ý thức cách mạng.

1944, Văn Cao được Vũ Quý, quyền bí thư Thành Ủy Hà Nội, giác ngộ vào Việt Minh, giao công tác viết bài hát cho khoá Quân chính kháng Nhật, sáng tác Tiến quân ca.

1945, Văn Cao vào Đội Trừ Gian. Tháng 7/45, bắn chết Đỗ Đức Phin413 ở Hải Phòng. Bắn hụt Cung Đình Vận và Võ Văn Cẩm tại Hà Nội. Làm báo Lao Động (bí mật) của Việt Minh414, Văn Cao tự tay chép lời và nhạc Tiến quân ca vào đá (litho), in trên Lao Động số 1, tháng 11/1944.

1945, sáng tác bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc415, và các ca khúc: Chiến sĩ Việt Nam, Chiến sĩ Hải quân, Chiến sĩ Không quân, Bắc Sơn. Bài Không quân Việt Nam416 sau này trở thành bài đoàn ca của Không quân Việt Nam Cộng Hoà.

Ngày 17/8/1945, trong buổi mít-tinh của công chức, bài Tiến quân ca được Phạm Duy "cướp micro" hát lần đầu tiên và duy nhất tại nhà Hát Lớn, Hà Nội417.

Ngày 19/8/1945, Việt Minh "cướp chính quyền", dàn đồng ca Thiếu niên Tiền phong do Văn Cao điều khiển hát bài Tiến quân ca tại quảng trường Nhà hát lớn.

Ngay sau cách mạng tháng tám, Vũ Quý bị chết trong một hoàn cảnh bí mật418.

Đầu năm 1946, Quốc hội khoá I công nhận Tiến quân ca là Quốc ca Việt Nam. 1946, Văn Cao sáng tác bài thơ Ngoại ô mùa đông 46419.

Theo Tạ Tỵ và Vũ Bằng, Văn Cao có vợ trước cách mạng tháng Tám. Nhưng có lẽ chỉ mới đính hôn, sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/46, Văn Cao và gia đình Thúy Băng rời Hà Nội ra chợ Đại, gần Hà Đông, thuộc Liên Khu Ba, mới chính thức làm lễ cưới ở thôn Ba Thá. Ở Liên Khu Ba không được bao lâu, Văn Cao nhận được chỉ thị lên Phú Thọ, rồi Lào Cai, mở Quán Biên Thùy trá hình làm tình báo trong Liên Khu 10, từ xuân 1947 đến thu 1947. Phạm Duy có lên hát ở đây.

Thu 1947, Văn Cao được lệnh về Vĩnh Yên làm báo Độc Lập. Rồi lại được lệnh trở lên Việt Bắc. Trên đường ngược sông Lô lên Phú Thọ, Văn Cao mục kích chiến địa hoang tàn: Tháng 10/47, quân Pháp gồm mười lăm tiểu đoàn chia làm nhiều đạo tấn công Việt Bắc, mục đích tiêu diệt Bộ chỉ huy kháng chiến, nhưng không thành. Cụ Nguyễn Văn Tố -Bộ trưởng không bộ- bị chết.

Ngày 7/10, Pháp chiếm Sơn Tây. 12/10, Việt Minh kêu gọi triệt để áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến. 13/10 Pháp chiếm Bắc Cạn, Cao Bằng. Hoàng Cầm phải ném xuống hồ Ba Bể cùng các bản thảo khác.

Theo Phạm Duy, sau chiến thắng sông Lô, Cục Chính trị điều động các nhạc sĩ viết về Sông Lô để kích động tinh thần chiến sĩ: Lương Ngọc Trác sáng tác Lô Giang, Văn Cao, trường ca Sông Lô420, Đỗ Nhuận: Du kích sông Thao, Nguyễn Đình Phúc: Bến bình ca, Phạm Duy: Tiếng hát trên sông Lô421.

Trường ca Sông Lô được Phạm Duy đánh giá là "tác phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây Phương"422.

Tháng 3/1948, Văn Cao được kết nạp vào Đảng. Sáng tác Ngày mùa. Cuối 1948, Văn Cao được lệnh về Liên Khu Ba. Gặp lại Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Lương Xuân Nhị... Sáng tác Tiến về Hà Nội. Tổ chức triển lãm chung. Bức tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê bình. Giữa 1949, Văn Cao lại được lệnh trở lên Việt Bắc423. Chuyến đi rất gian nan nguy hiểm.

Tháng 1/1950, đảng Cộng sản tuyên bố chính thức theo đường lối Trung Quốc, thực hiện đấu tranh giai cấp trên toàn lãnh thổ.

Tháng 8/1950, Đại hội văn nghệ Việt Bắc quyết định loại trừ Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch thơ... bị coi là tàn tích của phong kiến và tư sản, chỉ giữ lại thoại kịch. Phạm Duy bị kiểm điểm. Hoàng Cầm phải treo cổ kịch thơ. Văn nghệ sĩ, người vào Liên Khu Tư "vùng tự do" với tướng Nguyễn Sơn, người bỏ về thành như Vũ Bằng, Kim Tiêu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Phan Tại, v.v...

Tại Việt Bắc, Văn Cao tham gia chiến dịch biên giới. Phụ trách giảng dạy ở trường Âm Nhạc Việt Bắc. Sáng tác: Tiểu đoàn Lũng Vài, Ca ngợi Hồ Chủ Tịch, Công nhân Việt Nam, Toàn quốc thi đua...

1952, Văn Cao được cử đi Mạc Tư Khoa trong phái đoàn Trần Huy Liệu, theo Hoàng Văn Chí, "Văn Cao được gặp nhà nhạc sĩ số một Liên Xô là Chostakovitch"424. Các tài liệu khác, không nói đến cuộc gặp gỡ này, vì Chostakovitch cũng có "vấn đề", số phận trầm luân, tương tự Văn Cao chăng? Hoàng Văn Chí viết tiếp: "Tuy nhiên sau khi đi Mạc Tư Khoa về, Văn Cao bắt đầu tỏ ý thất vọng: Liên Xô không phải là thiên đường như ông vẫn tưởng tượng. Thêm vào đấy, khi ông về nước thì cuộc đấu tố địa chủ cũng vừa bắt đầu, ông được cử đi tham quan mấy vụ đấu tố điển hình ở Việt Bắc"425.

Nguyễn Thụy Kha, viết về chuyến đi Liên Xô như sau:

"Được chọn đi thăm Liên Xô trong phái đoàn của ông Trần Huy Liệu, Văn Cao lần đầu tiên xuất ngoại, lần đầu tiên mở mắt nhìn ra thế giới của chủ nghiã xã hội - một lý tưởng mà chàng tôn thờ, đeo đuổi suốt tuổi trẻ (...) Ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, cái chết đầy bí hiểm của Vũ Quý -người giác ngộ chàng, dẫn dắt chàng vào con đường cách mạng- đã làm chàng choáng váng (...) Sang Liên Xô, tận mắt nhìn thấy, tiếp xúc với "thành trì của chủ nghiã xã hội", "Thiên đường của loài người", Văn Cao mới

vỡ lẽ ra nhiều"426.

Có thể nói, chuyến đi Liên Xô 1952, đối với Văn Cao tương tự như chuyến đi Liên Xô 1936 đối với André Gide: họ đã nhìn thấy mặt thật của "thiên đường".

1954, hòa bình lập lại, Văn Cao phụ trách ban nhạc đài Phát thanh Hà Nội.

1956, tham gia NVGP với bài thơ Anh có nghe không, đăng trên Giai Phẩm Mùa Xuân. Sáng tác trường ca Những người trên cửa biển, một đoạn in trên Nhân Văn số 4.

1958, bị kỷ luật, không nặng như các thành viên chính, phải đi thực tế Điện Biên cùng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Đến Hai Lót, Văn Cao đau dạ dày, được đưa về bệnh viện Lai Châu.

Sau Nhân Văn, người ta định chọn Bài ca cách mạng tiến quân của Đỗ Nhuận để thay thế, nhưng rồi Tiến quân ca vẫn được giữ lại. Các tác phẩm khác của Văn Cao bị cấm. Chìm vào quên lãng trong ba mươi năm, Văn Cao sống cô đơn và gian khổ như các thành viên NVGP khác. Ông vẽ bìa sách, minh họa cho các báo, trang trí sân khấu, làm nhạc đệm cho một số phim... Sau ngày thống nhất đất nước, Văn Cao sáng tác Mùa xuân đầu tiên (1976), không được hát, có lẽ vì những câu "Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người".

1980, Hiến Pháp mới không ghi Tiến quân ca là quốcca. Trong các buổi chào cờ, người ta cử nhạc. Không lời.

1981, một cuộc "vận động sáng tác quốc ca" được tổ chức quy mô, có thi tuyển, kéo dài trong 2 năm, nhưng cuối cùng vẫn không chọn được bài nào thay thế.

1983, lễ mừng Văn Cao 60 tuổi được tổ chức. Các bản nhạc Thiên Thai, Trương Chi, Suối Mơ... được tình diễn trở lại.

1988, Văn Cao được chính thức "phục hồi" cùng các thành viên NVGP. Tập nhạc Thiên Thai và tập thơ Lá được phép xuất bản.

18/8/1991, trên báo Tiền Phong chủ nhật số 26, xuất hiện bài viết: Tiến quân ca có hai tác giả? của Tô Đông Hải. Lập luận: Văn Cao chỉ viết phần nhạc, lời của Đỗ Hữu Ích. Văn Cao trả lời, trong bài phỏng vấn của Nguyễn Thụy Kha ngày 7/10/91427.

1993, Quốc hội xác định: Tiến quân ca là quốc ca Việt Nam.

Văn Cao mất ngày 10/7/1995, tại Hà Nội.

● Tác phẩm

Ca Khúc: Buồn tàn thu (1939), Thiên thai (1941), Suối mơ (1942), Thu cô liêu (1942), Bến xuân (1942-1945, sửa lời và đổi thành Đàn Chim Việt), Cung đàn xưa (1942), Trương Chi (1942), Vui lên đường, Gió núi, Anh em khá cầm tay, Chiều buồn trên Bạch Đằng Giang (1941), Gò Đống Đa (1942), Thăng Long hành khúc ca (1943), Tiến quân ca (1944), Chiến sĩ Hải quân (1945), Chiến sĩ Không quân (1945) Bắc Sơn (1945), Chiến sĩ Việt Nam (1945), Làng tôi (1947), Sông Lô (1947), Ngày mùa (1948), Tiến về Hà Nội (1949), Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1949), Mùa xuân đầu tiên (1976)... (Năm sáng tác ghi ở đây không chính xác vì các tài liệu viết khác nhau).

Đã in: Thiên Thai, tuyển tập nhạc Văn Cao (Trẻ, 1988), Lá (Tác Phẩm Mới, 1989), 28 bài; Tuyển tập Văn Cao (Văn Học, 1994) gồm các bài đã in trong Lá, thêm 20 bài nữa.

● Văn Cao có để lại hồi ký không?

Viết về Văn Cao, câu hỏi đầu tiên là: Văn Cao có để lại hồi ký không?

Có hai cuốn sách đáng chú ý: Văn Cao, người đi dọc biển của Nguyễn Thụy Kha428 trình bày như lời "ký thác" của Văn Cao. Và cuốn Nhạc sĩ Văn Cao, tài năng và nhân cách của Bích Thuận429 trình bày như lời "ký thác" của bà Văn Cao Nghiêm Thúy Băng.

1- Nguyễn Thụy Kha là một trong những cây bút trẻ gần gụi Văn Cao lúc cuối đời. Tác phẩm viết giọng tự thuật, như lời nhạc sĩ kể lại, nói lên được phần nào tâm sự Văn Cao. Tuy nhiên, có những nhược điểm: Không rõ đâu là lời Văn Cao, đâu là lời Thụy Kha. Không rõ chỗ nào thực, chỗ nào Thụy Kha thêm vào. Thí dụ, đoạn viết về Tiến quân ca, nếu đem so sánh với bản hồi ký đích thực của Văn Cao tựa đề Bài Tiến quân ca in trên Sông Hương430 năm 1987, thì đã bị cắt xén rất nhiều. Những chỗ có tên Ph. D (Phạm Duy) đã biến mất. Có đoạn sửa đi và thêm vào mấy chữ mơ hồ cho người ta hiểu đó là Nguyễn Đình Thi. Thụy Kha viết: "Căn gác số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội chợt lặng phắc như vừa qua bão tố. Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi đã đi chỉ còn lại Văn Cao với bản nháp bài "Tiến quân ca". Mới ít phút trước, căn gác còn vang lên giọng hát trầm ấm của Văn Cao trong nhịp hành khúc rắn rỏi này. Vẫn còn nguyên gương mặt xạm đen của Vũ Quý. Đôi mắt và nụ cười lấp lánh. Nụ cười thật hài lòng. Vẫn còn nguyên gương mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi và nụ cười hồn nhiên khi nhẩm xướng âm bài hát. Thi còn nói với Văn Cao: "Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về mật trận Việt Minh xem sao"431.

Trong đoạn này, Nguyễn Thụy Kha cho biết: Nguyễn Đình Thi và Vũ Quý chứng kiến sự ra đời của Tiến Quân Ca. Văn Cao hát. Nguyễn Đình Thi nhẩm xướng âm bài hát, tại số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội.

Nhưng Văn Cao không viết vậy -Xin đọc toàn bài của Văn Cao trong phụ bản ở dưới- Văn Cao cho biết khi ông sáng tác Tiến Quân Ca thì Phạm Duy ở cùng và: "Anh [Phạm Duy] rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca"

Văn Cao viết Phạm Duy là người chứng kiến sự ra đời của Tiến Quân Ca. Và ở một đoạn sau, ông mới nhắc đến Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi:

"Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và nhiều hy vọng.

Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:

- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt

trận Việt Minh xem sao?"

Đoạn văn này có nghiã: Văn Cao đang ở Việt Bắc, lùm cây của Hà Nội không còn nữa, và ông nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý và nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. So với đoạn trên, ông viết về việc Phạm Duy chứng kiến sự ra đời của Tiến quân ca, thì phải hiểu rằng: khi lên Việt Bắc, Văn Cao mới đưa nhạc phẩm cho hai đồng chí Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi xem, ông gọi họ là đồng chí, trong khi gọi Phạm Duy là anh, có khác. Cũng không thấy Văn Cao nói đến khuôn mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi, đấy là Nguyễn Thụy Kha thêm vào. Tóm lại, chỉ cần thay đổi vị trí, thêm, bớt một vài câu chữ, là ý nghĩa văn bản có thể hoàn toàn thay đổi.

Bài hồi ký tựa đề Bài tiến quân ca của Văn Cao đăng trên Sông Hương năm 1987, không đề ngày viết, được cắt ngắn, thành bài Tại sao tôi viết Tiến quân ca432, và đề ngày 7/7/76 để có vẻ như viết trước bản Sông Hương. Nhưng cũng không loại trừ khả năng bản Sông Hương được viết từ trước 1976, đến khi được đăng lần đầu, đề ngày 7/7/76, thì bị cắt xén và sửa chữa. Đến năm 1987, thời kỳ đổi mới, Văn Cao gửi cho báo Sông Hương bản đầy đủ.

Bởi vì khi so sánh hai văn bản, thì bản 7/7/76, ngoài việc cắt bỏ, sửa các lỗi có trong bản Sông Hương, câu văn cũng được "biên tập" lại: ngắn gọn hơn, thêm chấm phẩy, làm mất thi tính trong nguyên tác. Người biên tập lại không có trình độ văn hoá của Văn Cao, ví dụ, câu "những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim" của ông được sửa thành "Những băng cờ đỏ sao vàng đã thay cho những băng vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim". Văn Cao không viết như vậy. Một người tự trọng không viết như vậy. Huống hồ tác giả Tiến Quân Ca không thể không biết rõ lịch sử, biết rõ công việc của chính phủ Trần Trọng Kim.

2- Cuốn sách của Bích Thuận có ý lãng mạn hoá và tô điểm cho Văn Cao trở thành nhà cách mạng trung thành với Bác và Đảng. Một điểm đáng lưu ý, ở chỗ bà trích một đoạn hồi ký của Văn Cao, viết về bài Tiến Về Hà Nội, có câu: "Văn Cao viết trong hồi ký: "Tôi còn nhớ trong một buổi họp ở chi bộ Liên Khu Ba, tôi đã hứa với các đồng chí Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo là tôi sẽ viết một ca khúc về Hà Nội. Tối hôm ấy, tôi đã cùng ăn cơm với anh Lê Quang Đạo. Anh Đạo đã nắm chặt tay tôi và nói..." Trích đoạn này dài hơn một trang433. Chỉ nhờ câu "Văn Cao viết trong hồi ký" mà chúng ta biết Bích Thuận đã được đọc hồi ký của Văn Cao, ít nhất là một mảng, ngoài Bài Tiến Quân Ca, đã in trên Sông Hương.

Cuốn sách của Nguyễn Thụy Kha, đoạn mô tả Văn Cao lùng "Việt gian" V.V.C, có những chi tiết mà ngoài Văn Cao không ai biết được. Rồi những câu như: "Sông Hương, quả là một lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh - Tiếng nước rơi bán âm - Chợt xé ra một nỗi nhớ sông Hương trong cảm xúc, v.v...", xem ra rất Văn Cao, lác đác trải dài trong tác phẩm.

Vậy nguồn của những câu, những chữ ấy là đâu? Nếu lấy từ những trang hồi ký đích thực của Văn Cao, thì hiện giờ toàn bộ cuốn hồi ký ở đâu?

Nguyễn Thụy Kha và Bích Thuận đã "làm việc" như thế nào với những trang hồi ký mà có thể họ đã được đọc bản chính ấy? Để ghi lại chân dung một người, không gì bằng in thẳng những điều người ấy viết, trước hết, vì tôn trọng sự thật của tác giả và nhất là khi người ấy có bút pháp độc đáo như Văn Cao, vì tôn trọng văn chương của tác giả.

3- Đây là sự kiện thường xẩy ra ở Việt Nam. Phát xuất từ những lý do:

- Sự trừng trị của chính quyền đối với những chữ, những câu, những tác phẩm không đi đúng đường lối của Đảng - kiểm duyệt, tịch thu, cách chức Tổng biên tập, v.v...

- Sự sợ hãi và sự tự kiểm của nhà xuất bản.

- Sự an phận, đồng tình của giới văn học -kể cả những người ở ngoài về in trong nước- nói theo một trí thức nổi tiếng "cái nước mình nó thế!" Biết nó thế thì phải hành động làm sao cho nó thay đổi đi. Nhưng không. Chấp nhận. Lý lẽ: thà bị cắt, nhưng được in còn hơn không!

- Sự sợ hãi của tác giả, hoặc thân nhân - nếu tác giả đã qua đời. Đặc biệt, đối với những gia đình NVGP, sau gần nửa thế kỷ bị trù dập, không mấy ai còn muốn đối đầu. Họ muốn xoá "dấu chàm" trên trán để có thể sống bình thường. Muốn được chính quyền "nhìn nhận". Các giải thưởng, huân chương, chính là sự "nhìn nhận" ấy. Những người Nhân Văn "được" giải thưởng lúc cuối đời, bị đứng trước lựa chọn: gia đình hay khí phách. Họ đã chọn gia đình. Nhận giải thưởng không vì tùng phục mà vì thương gia đình, muốn con cháu thoát nạn Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ, như lời Lê Đạt.

- Những điều đã bị bỏ, bị sửa, dưới mắt người kiểm duyệt và người bị kiểm duyệt, có thể chỉ là những "chi tiết không quan trọng". Nhưng nhiều "chi tiết không quan trọng", bị đục bỏ, thêm thắt, xuyên tạc có thể thay đổi hẳn cục diện tác phẩm. Bằng chứng trước mắt là văn bản Bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Đó là một hình thức ngụy tạo tác phẩm, ngụy tạo sự thật. Nhiều tác phẩm ngụy tạo sẽ dựng nên một lịch sử ngụy tạo.

- Một câu hỏi đặt ra: Tại sao báo Sông Hương, tháng 7- 8/1987 do Tô Nhuận Vỹ tổng biên tập và Nguyễn Khắc Phê phó tổng biên tập đã "dám" in đầy đủ bài của Văn Cao không cắt xén, mà sau này không ai "dám" in lại văn bản này?

Tình trạng chung của sách báo miền Bắc trước 1975 và cả nước sau 75, về văn học hay lịch sử cận đại, là đương nhiên phải gạt bỏ những người bị chính quyền coi là "phản động", là "ngụy", nghiã là một nửa nước ra ngoài.

Người nghiên cứu nếu muốn tác phẩm của mình tồn tại sau thời kỳ cộng sản, thì không thể chỉ viết về một nửa nước. Không ai cần biết Nguyễn Du, Xuân Hương... có "trung thành" hay "phản động" đối với Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh. Nhưng một cuốn sách viết về văn học thời kỳ Nguyễn Huệ-Nguyễn Ánh mà gạt Nguyễn Du, Xuân Hương... ra ngoài, sẽ là vô dụng.

● Văn Cao Phạm Duy trước kháng chiến

Người viết hay nhất và đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy. Phạm Duy có thói quen ghi chép khá cặn kẽ các sự kiện và những sáng tác hay của các bạn. Riêng với Văn Cao, Phạm Duy chép từ những bản nhạc hướng đạo rất ít người biết, đến những lời hai, tuyệt vời của bản nhạc mà ca sĩ lười không hát, như trường hợp Trương Chi.

Tạ Tỵ viết: "Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng hát của Phạm Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn Cao, chưa chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất tử!"434

Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu năm nào?

Theo Phạm Duy là khi ông theo gánh hát Đức Huy- Charlot Miều xuống Hải Phòng, nhưng có chỗ ông ghi 1943, chỗ 1944. Phải đọc kỹ những chi tiết Phạm Duy viết, thì mới biết lúc đó Văn Cao còn "đang thất nghiệp" và đã sáng tác những bản Buồn tàn thu, Thu cô liêu, Cung đàn xưa... Vậy họ gặp nhau sớm hơn 43-44; chắc chắn trước khi Văn Cao sáng tác Suối mơ và Bến xuân, năm 42, bởi vì Phạm Duy có đóng góp trong hai tác phẩm này, cho nên Tạ Tỵ viết: "Khi hai nhạc phẩm được in ra, tên Phạm Duy xuất hiện lần thứ nhất trước công chúng, bên cạnh tên Văn Cao" 435.

Sở dĩ có sự lộn xộn về ngày tháng, vì Phạm Duy vác đàn đi khắp đất nước, riêng Con đường cái quan (xuyên Việt) ông đi về ít nhất 5 lần trong kháng chiến, và Văn Cao cũng viết: "Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm"436.

Nguyễn Thụy Kha cũng ghi lại lời tâm sự của Văn Cao khi ở Huế năm 1940: "Đầu năm nay nó xuống Hải Phòng. Và "Buồn tàn thu" đã được nó lôi đi hát vang lên trên các nẻo đường xứ Bắc. Và thế là người yêu nhạc chốn Hà Thành đã biết có một Văn Cao tiếp sau Đặng Thế Phong"437.

Đầu năm nay, tức là đầu năm 1940, nó tức là Phạm Duy. Vậy Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu, khoảng đầu năm 1940, là hợp lý hơn cả. Từ đó phát xuất một tình bạn lâu dài trong sáng tác, trong hoạt động cách mạng.

Về gia cảnh Văn Cao, Phạm Duy viết:

"Văn Cao là tên thật, họ Nguyễn, ra đời sau tôi vài năm tại bến Bính, bên dòng sông Cấm. Cha (hay anh ruột, tên là Tú) làm cai của nhà máy bơm nước ở bờ sông đó nên suốt thời niên thiếu, anh sống trong nhà máy nước này. Học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở trường Saint Joseph, Văn Cao đã có khiếu văn nghệ ngay từ khi còn đi học. Ăn ở trong một căn nhà nhỏ có cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày đêm hút nước từ dưới sông lên không lúc nào ngừng nghỉ, Văn Cao còn vất vả hơn nữa là phải lấy một tấm phản kê lên máy bơm để làm bàn học. Sau này nhớ tới "giọng máy bơm nước", Văn Cao sẽ có câu thơ:

Anh muốn giơ tay lên mặt trời

Để vui da mình hồng hồng sắc máu

Mấy năm một điệu sáo

Như giọng máy nước thâu đêm chảy...

Anh có nghe không, trong Lá, tuyển tập thơ Văn Cao.

Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà "xổ chữ nho". Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngã vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng"438.

Nhận xét về thơ Văn Cao, Phạm Duy viết:

"Vào năm 1941 mà anh đã có những câu thơ nghe như thơ Huy Cận:

Sông chầm chậm chảy trong mưa

Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo

Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều

Bến mờ mịt: mấy mái lều bơ vơ

- Đêm mưa

Chưa gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết tài soạn nhạc qua mấy bài nhạc hùng của anh rồi. Khi tới Hải Phòng, sau khi gặp Hoàng Quý tôi tìm đến Văn Cao. Cũng như tất cả thanh niên "mỏ trắng" (blanc bec) thời đó, Văn Cao đang thất nghiệp sau một tháng làm việc tại Nhà Bưu Điện. (...) Gặp tôi đang lập cuộc đời mới trong một gánh hát thì kết thân ngay. Lúc đó, tôi đã tập toẹ đánh đàn với các nhạc sĩ trong ban nhạc Tây của gánh Đức Huy (...) Và tôi đã hát cho Văn Cao nghe. Nghe xong, Văn Cao vội vàng đưa cho tôi dăm ba bài anh ta mới làm xong. Lúc đó bên cạnh hai đứa chúng tôi còn có Đỗ Hữu Ích, con ông chủ bán đồ sắt phố Hàng Đồng, soạn lời ca rất hay. Đa số những bản đầu tay của Văn Cao đều đã được Đỗ Hữu Ích giúp đỡ phần lời ca"439.

Điểm đáng chú ý là Phạm Duy không hề nhắc đến việc ông giúp bạn làm lời các bài Suối mơ, Bến xuân -vì lần in đầu có tên Phạm Duy. Ngược lại, ông nhắc nhiều đến công của Đỗ Hữu Ích. Có thể vì Phạm Duy đã có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ Ngàn lời ca, với 45 ca khúc trong 6 năm kháng chiến, trong khi Đỗ Hữu Ích không mấy ai biết đến.

Phạm Duy cũng giải thích việc bạn bè phụ giúp Văn Cao:

"Có đôi khi Văn Cao không hoàn tất vài ba sáng tác của mình, có thể vì anh là người vung vãi tài hoa nhưng thiếu tự tin. Bạn bè ở bên anh có cơ hội giúp anh hoàn thành những gì anh bỏ dở. Cũng nên biết rằng những bài hát đầu tiên của Văn Cao, về phần lời ca, còn có thêm sự phụ giúp rất hữu hiệu của một anh bạn khác là Đỗ Hữu Ích"440.

"Bạn bè" ở đây, ngoài Phạm Duy, còn có cả Hoàng Quý, Kim Tiêu441. Việc tranh chấp sau này về lời bản Tiến quân ca, dường như cũng trong bối cảnh ấy: có thể Đỗ Hữu Ích đã phụ giúp ý kiến. Bởi nếu Đỗ Hữu Ích làm lời cả bài Tiến Quân Ca, thì tại sao ông lại không "kiện" Văn Cao, ít nhất từ sau 1954, mà lại để đến 1991 mới lên tiếng?

Về tính nhút nhát của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Lúc đó, Văn Cao đã nổi danh vì những bản nhạc thanh niên và hướng đạo nhưng nếu có ai hỏi anh có phải là nhạc sĩ Văn Cao hay không thì không hiểu vì sao cu cậu cứ trả lời là không!"442 Văn Cao cũng xác nhận sự nhút nhát này: "Mày ơi! Vì sao mày đưa nàng đến để cùng tập những bài hát đầu tay của tao (...) Tao chỉ là một Văn Cao hết sức nhút nhát trước phái yếu. Nhút nhát đến gàn dở. Tuyết đến rồi qua nhanh khi Sài Gòn lùi lại sau lưng. Mày đã biết rồi đấy, tao bao lần không dám nhận mình là Văn Cao"443.

Đặt Văn Cao trong bối cảnh Tân Nhạc Việt Nam trước kháng chiến với hai loại Nhạc hùng và nhạc tình, Phạm Duy xác định sự đóng góp của Văn Cao: "Bây giờ hai nhóm Tiếng gọi sinh viên và Đồng Vọng tung ra những bài như Vui Xuân, Bạn Đường, Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước, Đêm Trong Rừng, Bóng Cờ Lau, Nước Non Lam Sơn của Hoàng Quý. Đều là những bài hát hay nhưng chỉ hay một cách bình thường. Văn Cao đóng góp vào loại nhạc hùng này với những bài như Vui Lên Đường, Gió Núi, Anh Em Khá Cầm Tay, Đống Đa, Thăng Long Hành Khúc... Theo tôi, những hướng đạo ca và thanh niên-lịch sử ca của Văn Cao có nhiều souffle (hơi thở) hơn trong câu nhạc và có nhiều tính thơ hơn trong lời ca. Trong những bài ca hướng đạo Anh Em Khá Cầm Tay, Gió Núi ta đã thấy manh nha những phóng bút tuyệt vời của Chiến Sĩ Việt Nam, Bắc Sơn hay Thiên Thai, Trương Chi sau này (...) Về phần nhạc hùng thì bài Đống Đa với câu ca: "Tiến quân hành khúc ca, thét vang rừng núi xa... nó phải dẫn tời bài Tiến quân ca của Cách Mạng Tháng Tám" 444.

Về nhạc tình của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Vào đầu thập niên 40, nhạc tình ở Hà Nội nằm trong tay nhóm Myosotis (Hoa Lưu Ly) với những bài như Thuyền Mơ, Khúc Yêu Đương, Hồ Xưa... của Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em của Dương Thiệu Tước và trong tay nhóm Tricéa với những bài như Đoá Hồng Nhung, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung, Bẽ Bàng của Lê Yên, Cô Lái Thuyền, Biệt Ly của Dzoãn Mẫn. Nhạc tình đang phổ biến dữ dội lúc đó cũng còn là của một người Nam Định, Đặng Thế Phong với ba bài hát mùa Thu: Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến và Giọt Mưa Thu... Ở Hải Phòng, nhạc tình là địa hạt của Lê Thương với những bài đầu tay rất hay như Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh (hay Bên Bờ Đà Giang), Nàng Hà Tiên... Nhất là với bài Thu Trên Đảo Kinh Châu soạn trên âm giai Nhật Bản và đang rất thịnh hành (đến độ đi vào nhạc mục của Hát Quan Họ ở Bắc Ninh).

Trong không khí nhạc tình lãng mạn toàn nói về mùa Thu như vậy, chàng tuổi trẻ Văn Cao cũng soạn ra những bài hát mùa Thu như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu... nhưng chưa bao giờ anh có cơ hội để phổ biến. Tôi sẽ là người đầu tiên đem nhạc của Văn Cao đi - nói theo lời Văn Cao đề tựa trong một bài hát - gieo buồn khắp chốn. Danh từ người du ca đầu tiên cũng do chính Văn Cao đã gán cho tôi với một sự thèm sống cuộc đời "xướng ca vô loài" như tôi lắm lắm"445.

Sau khi phân tích giá trị từng tác phẩm của Văn Cao, Phạm Duy xác định:

"Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của 50 năm Tân Nhạc thì những bài Suối Mơ, Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa! (...) Khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời, với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thủa"446.

● Văn Cao họa sĩ

Phạm Duy học Mỹ thuật Đông Dương một năm (1940-1941) với các thày Nam Sơn, Georges Khánh, Tô Ngọc Vân... và cùng lớp với Võ Lăng, Đinh Minh, Mai Văn Hiến, Bùi Xuân Phái, Phan Kế An, Quang Phòng, Phan Tại, Nguyễn Thanh Đức, Tạ Thúc Bình, Trần Phúc Duyên...

Phạm Duy viết:

"Học trước chúng tôi vài năm là Tạ Tỵ, Phạm Văn Đôn, Trần Văn Lắm, Nguyễn Thị Kim... (...) Tạ Tỵ vẽ dessin hoặc vẽ tranh sơn dầu theo lối cổ điển hay ấn tượng (impressionisme) rất thành công, nhưng anh lại chọn con đường lập thể (cubisme) của Picasso. Ngoài Tạ Tỵ ra tôi không thấy có họa sĩ Việt Nam nào dám đi vào loại tranh đó cả. Tạ Tỵ còn đi xa hơn nữa khi anh đi vào loại tranh vị lai (futurisme)"447.

Sự cách tân hội họa của Văn Cao, sẽ được Tạ Tỵ448 nhận định trong bối cảnh chung của hội họa Việt Nam thập niên bốn mươi:

"Vào những năm 40-41, tôi học chung với nhiều bạn nhưng chỉ có vài người có tinh thần tiến bộ như Nguyễn Đăng Trí, Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng. Cả ba đều học dưới tôi vài lớp. (...) Bùi Xuân Phái người Hà Nội, có đôi mắt to sáng, vầng trán cao với bộ râu đỏ hoe và nụ cười khinh bạc (...) Anh thích vẽ phố vì nhà anh ở gần phố Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Hòm là những con phố cổ của Hà Nội ngày xưa (...) Do vậy, về sau anh em thường gọi đùa là "Phái Phố"! Tôi và Bùi Xuân Phái sau này còn rất nhiều dịp sống gần nhau để tạo nên kỷ niệm (...) Còn Nguyễn Sáng, người miền Nam, tình tình nóng nẩy. Sáng cũng có vầng trán thật cao, thân xác khỏe mạnh như lực sĩ (...) Nguyễn

Sáng khéo tay lắm, nhất là tranh thiếu nữ vẽ trên lụa (...)

"Phạm Duy và Văn Cao cũng có một thời gian theo học Mỹ Thuật cũng như Phan Tại, nhà đạo diễn kịch sau này, nhưng cả ba đều bỏ ngang, có lẽ vì không thích hợp. Chỉ riêng Văn Cao vẫn vẽ, có vài tác phẩm được trưng bày tại Salon Unique năm 1943 do chính phủ Pháp tổ chức. Tác phẩm mang tựa đề "Những kẻ tự sát" (Les suicidés) với bút pháp phong phú gây được nhiều thiện cảm của giới yêu mỹ thuật lúc ấy. Qua tác phẩm này, ý thức cách mạng đã có ở Văn Cao nhưng chưa ai biết (...)

Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đã dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ý đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao trình bày bìa đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào, cuốn sách nào trình bày dưới hình thức đó"449.

Tạ Tỵ còn gặp lại Văn Cao nhiều lần trong kháng chiến và cũng chính ông là người sẽ thuật lại sinh hoạt hội họa trong kháng chiến. Bây giờ hãy tìm hiểu về giai đoạn cách mạng tháng Tám, giai đoạn Tiến Quân Ca và những ngày lịch sử.

● Tiến quân ca và những ngày lịch sử

1945, là thời điểm bản lề, phát xuất sự phân chia Quốc- Cộng, phân chia Nam-Bắc, phân chia chiến tuyến. Theo Lại Nguyên Ân thì người nghiên cứu ngoài Bắc có rất ít tư liệu văn học về thời kỳ này, phải nhờ đến những bài báo của Vũ Bằng trên Trung Bắc chủ nhật, mà ông vừa tìm lại, mới biết được những sự việc như: "Học giả Trần Trọng Kim trong vai trò thủ tướng; việc khôi phục Hà Nội trong quy chế một thành phố của nước Việt Nam độc lập; việc Hà Nội khôi phục đền Trung Liệt thờ những bậc quản thủ đã tử tiết vì thành phố..."450

1945, là năm sôi động nhất của lịch sử cận đại và Tiến Quân Ca lần đầu tiên đến với quần chúng.

Để giúp bạn đọc dễ theo dõi tiến trình hành động và sáng tác của Văn Cao và các văn nghệ sĩ thời đó, chúng tôi xin nhắc lại một số mốc lịch sử sau:

▪ 04/2/1945, Hội nghị tối cao Đồng Minh họp tại Yalta, chia thế giới làm hai khu vực: vùng ảnh hưởng Nga và vùng ảnh hưởng Anh Mỹ.

▪ Tháng 3/1945 (Ất Dậu), nhiều ngàn người chết đói ở Bắc.

▪ 09/3/45, Pháp đầu hàng Nhật.

▪ 10/3/45, Nhật tuyên bố: ủng hộ cuộc đấu tranh giành

độc lập của các dân tộc Đông Dương.

▪ 11/3/45, Viện Cơ Mật Huế thông báo: hủy bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Việt Nam khôi phục chủ quyền.

▪ 17/3/45, vua Bảo Đại tuyên chiếu: đích thân cầm quyền theo nguyên tắc Dân Vi Quý.

▪ 17/4/45, Bảo Đại ủy Trần Trọng Kim lập chính phủ, thành phần: Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Trịnh Đình Thảo, Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh, Lưu Văn Lang, Trần Văn Chương, Nguyễn Hữu Thi.

Dùng cờ quẻ LY làm quốc kỳ và tiếp tục lấy Đăng đàn cung làm quốc ca. Trần Trọng Kim giải thích:

"Nước Việt Nam đã là một nước tự chủ thì phải có quốc kỳ và quốc ca. Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài "Ðăng Ðàn" là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy.

Còn lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định đem hỏi mọi người trong nước và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gửi về. Có kiểu lá cờ vàng có quẻ Ly ở giữa là có ý nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm quốc kỳ.

Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc Sử Diễn Ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng "Ðầu voi phất ngọn cờ vàng". Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ Ly là vì trong lối chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ Ly chủ phương nam. Chữ Ly còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương.

Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ Ly là hợp với vị trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ Ly có đủ các ý nghĩa"451.

▪ 20/7/45, Nhật trả chính phủ Việt Nam các cựu nhượng địa Pháp: Hà Nội, Hải Phòng Đà Nẵng.

▪ 01/8/45, Đốc lý Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội: tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xoè ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm lính Khố Xanh, Khố Đỏ.

▪ 09/8/45, Nagasaki bị ném bom nguyên tử.

▪ 13/8/45, Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tuyên Quang, quyết định: Tổng khởi nghiã, đoạt khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi quân Đồng Minh đến Đông Dương, lập chế độ Dân Chủ Cộng Hòa.

▪ 14/8/45, Nhật trả Nam Bộ cho triều đình Huế.

▪ 15/8/45, Nhật Hoàng kêu gọi quân đội đầu hàng. De Gaulle cử Leclerc làm tư lệnh Lục quân Pháp tại Đông Dương.

▪ 17/8/45, công chức Hà Nội biểu tình biểu dương ý chí bảo vệ đất nước, cuộc biểu tình biến thành biểu tình ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến Quân Ca "lần đầu tiên và duy nhất" tại nhà Hát Lớn Hà Nội.

▪ 19/8/45, biểu tình lớn trước nhà Hát Lớn để nghe tuyên bố của Mặt trận Việt Minh. Bài Tiến Quân Ca được đoàn Thanh Niên đồng ca.

▪ 22/8/45, vua Bảo Đại thoái vị.

▪ 23/8/45, thành lập chính phủ lâm thời với Hồ Chí Minh, chủ tịch.

▪ 02/9/45, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Độc Lập tại Ba Đình. Vũ Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập, đăng trên Tiên Phong số 24, ngày 1/12/46.

▪ 09/9/45, quân đội Trung Hoa bắt đầu tới Hà Nội để giải giới quân Nhật.

▪ 05/10/45, tướng Leclerc tới Sàigòn, tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ.

▪ 22/12/45, Hồ Chí Minh ký thỏa ước với Việt Quốc và Việt Cách (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt) lập chính phủ liên hiệp.

▪ 13/1/46, Vệ Quốc Quân tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt Trì. Quân Pháp chiếm xong Nam Bộ, tiếp tục đánh ra Bắc.

▪ 2/3/46, thành lập chính phủ liên hiệp với Hồ Chí Minh, chủ tịch; Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch; Huỳnh Thúc Kháng, bộ trưởng Nội Vụ; Nguyễn Tường Tam, bộ trưởng Ngoại Giao...

▪ 6/3/46, Hồ Chí Minh ký hiệp định Sơ bộ, thừa nhận Việt Nam là quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp.

▪ 16/3/46, cố vấn Vĩnh Thụy sang Trùng Khánh.

▪ 17/4/46, khai mạc hội nghị Việt Pháp tại Đà Lạt, Nguyễn Tường Tam làm trưởng phái đoàn. Hội nghị thất bại.

▪ Từ tháng 4/46 trở đi, tình hình rối loạn: quân Tưởng đánh nhau với quân Pháp. Bộ đội Việt Minh đánh nhau với bộ đội Việt Quốc. Nguyễn Tường Tam sang Tàu.

▪ 6/7/46 Khai mạc hội nghị Fontainebleau, Phạm Văn Đồng làm trưởng phái đoàn. Chương trình nghị sự: Việt Nam và liên bang Đông Dương.

▪ 10/9/46, Hội nghị Fontainebleau thất bại.

▪ 14/9/46, đang đêm, chủ tịch Hồ Chí Minh thân hành đến nhà riêng của bộ trưởng Marius Moutet ký thoả ước tạm thời.

▪ 2/11/46, Hồ Chí Minh lập chính phủ mới, không còn tính cách liên hiệp.

▪ 19/12/46, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ452

Tóm tắt công việc của chính phủ Trần Trọng Kim trong hơn ba tháng cầm quyền, từ 17/4 đến đầu tháng 8/45:

• Bỏ Bộ Quốc Phòng, lập Bộ Thanh Niên do Phan Anh đảm nhiệm: Bỏ chiến tranh, rèn luyện tuổi trẻ.

• Hoàng Xuân Hãn, bộ trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật soạn thảo một chương trình giáo dục mới.

• Tiếp nhận các phần lãnh thổ bị Pháp chiếm: Nam Bộ và các thành phố Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội - Theo Phan Anh, việc này không dễ dàng, vì Nhật chưa muốn trả.

• Tổ chức đại lễ kỷ niệm Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Yên Bái tại vườn Bách Thảo.

• Phá những tượng đài của thực dân Pháp tại Hà Nội. Đặt lại tên Việt cho các đường phố Hà Nội.

• v.v...

Về phía các đảng phái, sự đoạn tuyệt đã rõ ràng từ khi bộ đội Việt Minh và Việt Quốc đánh nhau ở Việt Trì. Phe quốc gia, gồm những đảng đối lập với cộng sản, có khuynh hướng khác nhau: thân Tàu Tưởng Giới Thạch, thân Nhật hoặc thân Pháp. Phe cộng sản: thân Nga, thân Tàu Mao Trạch Đông. Nhưng Việt Minh đã thành công trong việc cổ động toàn dân theo Cách Mạng Tháng Tám.

Riêng về phía văn nghệ sĩ, gần như hầu hết những người không cộng sản cũng tham gia kháng chiến: Tạ Tỵ viết khẩu hiệu cho Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến quân ca. Vũ Hoàng Chương sáng tác Ngày độc lập với những câu thơ:

"... Hai cuộc tang thương tủi đọa đầy

Núi sông còn có buổi hôm nay

Kinh kỳ tám mặt reo đoàn kết

Sóng đỏ gầm quanh ngọn bút này (...)

Ngoài kia dừng chén mà coi

Núi lay xiềng khoá, sông đòi tự do

Lắng nghe dân tộc reo hò

Bốn phương thét lớn gào to: dân quyền..."

Tạ Tỵ thuật lại việc viết khẩu hiệu cho Việt Minh và Nguyễn Sáng vẽ giấy bạc cụ Hồ: "Trước ngày 19/8/1945 là ngày Việt Minh cướp chính quyền, Lê Quốc Lộc đến tìm tôi nói về tình hình chính trị: "Chúng mình không thể ngồi chờ được nữa, phải hành động!" Tôi hỏi: "Hành động cái gì?" Anh nhìn thẳng vào mắt tôi như dò xét: "Tôi nói hành động tức là phải tham gia cách mạng". - "Cách mạng nào?" Lộc trả lời với một giọng rắn chắc: "Tôi nói thực với cậu, tôi đang hoạt động cho Mặt Trận Việt Minh; tình thế đã chín mùi rồi. Nếu cậu bằng lòng, tôi mời cậu tham gia Mặt Trận". Tôi đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Lộc nói tiếp: "Công tác cũng nằm trong khả năng của tụi mình thôi, nghiã là chuyên môn". Tôi ậm ừ trả lời: "Nếu cậu làm được tôi cũng làm được". Lộc cười, cặp mắt một mí của anh hơi nheo trông giống như hai sợi chỉ kéo thẳng: "Vậy chúng ta bắt tay vào việc nhé!" (...) Chừng nửa giờ sau, Lộc mang vải, sơn đến với một tờ giấy nhỏ: "Cậu viết giùm mấy khẩu hiệu này". Nói xong Lộc đi ngay. Tôi mở tờ giấy ra coi, thấy mấy tiếng: "Hoan hô Mặt Trận Việt Minh. Chào mừng Cách Mạng thành công". (...) Sáng sớm hôm sau Lộc đến nhà tôi thật sớm. Hai tấm khẩu hiệu, Lộc cho vào chiếc bao bột mì, buộc gọn vào yên xe rồi ngồi lên trên, đạp nhanh như có chuyện gì gấp lắm. Ngay buổi chiều hôm đó, nhân có cuộc mít tinh của công chức và dân chúng, Mặt Trận Việt Minh lợi dụng ngay dịp đó, bắn mấy phát súng chỉ thiên và trương cờ đỏ sao vàng cùng khẩu hiệu. Thế là xong! Trang sử Việt Nam đã lật, nhưng nước Việt Nam còn phải kinh qua nhiều giai đoạn nhục nhằn ở mỗi hoàn cảnh đấu tranh để làm nên lịch sử (...) Mấy tháng sau, Tôi được Lê Quốc Lộc giới thiệu vào cơ quan tuyên truyền để vẽ những tấm tranh cổ động. Tiền công cũng đủ sống qua ngày. Trong lúc tôi làm công tác trên thì Nguyễn Sáng được tuyển dụng vào công việc vẽ giấy bạc "cụ Hồ". Sáng vốn khéo tay và cần cù, rất thích hợp với tài năng. Tôi không biết ai đã giới thiệu Nguyễn Sáng với Bộ Tài Chánh của Việt Minh. Nguyễn Sáng làm việc với một ông cụ tuy già nhưng kẻ chữ còn tinh vi lắm (...) Tất cả mọi loại giấy bạc tiêu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đều do Nguyễn Sáng vẽ."453

Tạ Tỵ đã phản ảnh rõ tâm trạng và tình thế những người đi theo kháng chiến. Nguyễn Huy Tưởng trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô và Văn Cao trong Bài Tiến Quân Ca cũng có những cái nhìn tương tự.

● Ngày 17 và 19 tháng tám 1945 và Tiến Quân Ca

Tiến Quân Ca được viết từ mùa thu năm 1944, nhưng đến tháng tám năm 1945, mới có vai trò lịch sử. Chủ động trong hai ngày 17 và 19/8/45. Vậy những tác nhân chính viết gì về những ngày lịch sử đó?

Phạm Duy viết: "Sau khi Nhật đầu hàng, Quân Đội Nhật ở Việt Nam trao trả phủ Toàn Quyền cho phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Để tỏ ý chí bảo vệ đất nước, vào ngày 17 tháng 8, công chức Hà Nội được lệnh của vị Khâm Sai Phan Kế Toại đứng ra tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc mít tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến thì bỗng nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả từ bao lơn của Nhà Hát xuống, rồi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Thế là cuộc biểu tình của Tổng Đoàn Công Chức bỗng nhiên biến thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh.

Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đích thân đứng ra tổ một cuộc mít tinh khổng lồ cũng ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sau đó đoàn người biểu tình kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ. Ông Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng ngay. Coi như cướp được quyền hành chánh rồi, đoàn người kéo luôn qua trại Khố Xanh ở đường Đồng Khánh để cướp quyền quân sự. Một ngàn lính Bảo An ở trong trại không kháng cự. Cờ quẻ Ly được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.

Thế là cuộc tổng khởi nghĩa thành công tại Hà Nội. Một Ủy Ban Nhân Dân được thành lập ngay hôm đó. Đồng thời tại nhiều địa phương, các đoàn võ trang tuyên truyền được gọi là "Dân Quân Giải Phóng" cũng tới chiếm chính quyền trong tay các tỉnh trưởng hay quận trưởng của một chính phủ mà ông Thủ Tướng là Trần Trọng Kim đã từ chức"454.

Trong đoạn hồi ký trên, Phạm Duy viết ngắn và rất chi tiết, nhưng ông không hề nhắc đến vai trò của mình trong ngày 17/8/1945, chỉ ghi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao và trong cuốn hồi ký, ông cho biết những ngày ấy ông ở trong Nam. Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy không thể công khai nhìn nhận mình có "vai trò lịch sử trong những ngày Việt Minh cướp chính quyền" cũng như Lê Đạt không thể công khai nhận mình đã theo Quốc Dân Đảng.

Nhưng Văn Cao ghi lại rõ ràng, trong hồi ký như sau: "Tôi ở lại một mình trên căn gác vắng455 vào những ngày đầu thu năm 1944.

Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.

Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph. D. là bạn thân của tôi từ Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường chú ý giúp đỡ tôi. (...) Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng thần thánh. Một hôm, Ph. D. nói với tôi:

- Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn gặp anh ấy không?

Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động viên bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.

Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của chúng tôi thật hết sức đơn giản.

- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa? - Được.

- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.

Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.

Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:

- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dung những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.

Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để nói, tìm một âm thanh đầu tiên. (...) Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.

Những ngày ấy, Ph. D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về Hải Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt Minh ngày càng nhiều.(...)

Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca.

(...)

Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài "Tiến quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, những tờ bướm in "Tiến quân ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh.

Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph. D. qua loa phóng thanh. Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát.Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất"456.

Đoạn hồi ký này xác định năm sự kiện quan trọng:

1/ Bà mẹ Văn Cao vì đói khổ, phải đưa các cháu từ Nam Định ra Hải Phòng, giữa đường bị lạc mất đứa cháu lên ba. Việc này Hoàng Văn Chí có ghi lại đúng như thế.

2/ Phạm Duy ở trong "tổ chức" trước Văn Cao. Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy khi học trường Thăng Long là học trò của Võ Nguyên Giáp.

3/ Phạm Duy "nhắc nhở" Văn Cao tìm gặp Vũ Quý.

4/ Phạm Duy "chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca" ở căn gác phố Mongrand.

5/ Phạm Duy "buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát trước quần chúng lần đầu tiên" với "sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng" trong ngày 17/8/1945.

Trước kháng chiến, câu "Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn" của Văn Cao đã trở thành huyền thoại.

Lần này, Văn Cao muốn trả lại vai trò lịch sử của Phạm Duy đối với Cách Mạng Tháng Tám. Vai trò đã bị lịch sử một chiều cuốn đi, cướp mất. Văn Cao muốn cái gì của César phải trả về cho César.

● Không khí ám sát thủ tiêu

Tìm hiểu Văn Cao không thể bỏ qua giai đoạn ông hoạt động trừ gian. Nhưng muốn hiểu rõ hành động ấy, lại phải tìm hiểu không khí thanh trừng giữa Việt Minh và các đảng phái đối lập. Vũ Bằng viết về không khí thời ấy:

"Bầu không khí ấy là bầu "không khí cảnh sát" mà Việt Minh vừa mới nắm được chánh quyền đã tạo được liền: thu hút dân vì lẽ dám đứng ra đánh thực d