← Quay lại trang sách

Chương 12 - Mùa Đông Cho Hai Người.

Câu chuyện kết thúc ở đó, vậy là tôi gập cuốn sổ lại, bỏ kính ra, lau mắt. Mắt tôi đã mỏi và đỏ ngầu, dù cho đến giờ nó vẫn chưa làm tôi thất vọng. Nhưng chắc sẽ sớm thôi. Cả nó và tôi đều đâu thể sống mãi. Bây giờ tôi đang nhìn bà ấy, nhưng bà ấy không nhìn lại tôi. Bà ấy lại đang chăm chăm nhìn qua cửa sổ ra sân, nơi bạn bè và gia đình của mọi người gặp gỡ.

Mắt tôi dõi theo mắt bà ấy, chúng tôi cùng nhau ngắm nhìn. Suốt ngần ấy năm, những việc hàng ngày vẫn không thay đổi. Sáng nào cũng vậy, cứ sau bữa sáng khoảng một giờ là họ bắt đầu đổ đến. Những người trẻ tuổi, đi một mình hay đi cùng gia đình, đến thăm những người sống ở đây. Họ đem ảnh, quà bánh đến rồi ngồi trên mấy chiếc ghế dài hoặc đi dạo dọc những con đường nhỏ dưới tán cây được thiết kế để tạo cảm giác có thiên nhiên. Một số sẽ ở lại cả ngày, nhưng phần lớn sẽ rời đi sau vài tiếng và khi họ đi, tôi luôn cảm thấy buồn cho những người họ để ở lại. Đôi khi tôi tự hỏi bạn bè của tôi nghĩ gì khi họ nhìn thấy những người yêu thương của mình lái xe đi mất, nhưng tôi biết đấy không phải là việc của mình. Và tôi không bao giờ hỏi họ vì tôi đã học được rằng tất cả chúng ta đề có quyền có những bí mật riêng.

Nhưng tôi sẽ sớm kể cho bạn nghe một số bí mật của tôi.

Tôi đặt cuốn sổ và chiếc kính lúp lên bàn bên cạnh, cảm thấy cái đau từ trong xương khi làm động tác ấy, và một lần nữa tôi lại nhận ra cơ thể mình lạnh thế nào. Thậm chí việc đọc sách dưới ánh mặt trời buổi sáng cũng không giúp gì được. Nhưng điều này không làm tôi ngạc nhiên thêm chút nào, vì dạo này cơ thể tôi có những luật lệ riêng của nó.

Tuy nhiên tôi cũng không hoàn toàn không may. Những người làm việc ở đây biết tôi, biết sự yếu ớt của tôi và họ làm hết sức để tôi được thoải mái hơn. Họ để lại cho tôi trà nóng ở chiếc bàn cuối cùng, tôi với cả hai tay ra lấy. Rót ra một tách trà cũng là cả một nỗ lực, nhưng tôi rót vì tôi cần trà để làm mình ấm lên và tôi nghĩ sự ráng sức đó cũng sẽ giữ cho tôi khỏi bị hoàn toàn hoen gỉ. Nhưng bây giờ tôi đã hoen gỉ rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Hoen gỉ như một chiếc xe cũ nát nằm dưới đầm lầy Everglades hai mươi năm.

Sáng nay tôi đã đọc cho bà ấy nghe, như mọi buổi sáng, vì đó là một việc tôi cần phải làm. Không phải vì nghĩa vụ - mặc dù tôi biết ta có thể tạo ra một lý do như vậy cho việc này – mà vì một nguyên nhân khác, lãng mạn hơn. Tôi ước gì mình có thể giải thích đầy đủ ngay bây giờ, nhưng vẫn còn sớm, và trước bữa trưa mà nói về sự lãng mạn thì thật không khả thi lắm, ít nhất là không khả thi với tôi. Ngoài ra, tôi không biết mọi chuyện sẽ thành thế nào, và nói thật là tôi cũng không muốn mình hy vọng quá nhiều.

Bây giờ ngày nào chúng tôi cũng ở bên nhau, nhưng đêm thì không. Các bác sĩ bảo tôi không được phép gặp bà ấy sau hoàng hôn. Tôi hiểu những lý do, nhưng mặc dù đồng tình với họ, đôi khi tôi vẫn vi phạm quy định. Vào đêm muộn, khi có tâm trạng thích hợp, tôi sẽ lén ra khỏi phòng và đến phòng bà ấy, ngắm bà ấy ngủ. Bà ấy chẳng biết gì về việc này. Tôi sẽ đi vào, ngắm nhìn bà ấy thở và hiểu rằng nếu không phải là bà ấy, tôi sẽ không bao giờ kết hôn. Và khi nhìn gương mặt bà ấy, một gương mặt mà tôi biết rõ hơn gương mặt mình, tôi biết rằng với bà ấy tôi cũng có ý nghĩa nhiều như thế hoặc hơn thế. Và điều đó có ý nghĩa với tôi vô cùng, tôi chẳng mong giải thích được.

Thỉnh thoảng, khi đứng ở đó, tôi nghĩ về việc mình may mắn biết bao khi đã cưới bà ấy gần bốn mươi chín năm trời. Tháng sau sẽ là tròn bốn mươi chín năm. Bà ấy đã nghe tôi ngáy suốt bốn mươi nhăm năm đầu, nhưng kể từ sau đó chúng tôi ngủ khác phòng. Tôi không thể ngủ ngon khi không có bà ấy. Tôi trằn trọc và thèm có được hơi ấm của bà ấy nên cứ nằm đó gần như cả đêm, mắt thao láo nhìn những bóng mờ nhảy múa trên trần nhà như đám cỏ lăn lăn trên sa mạc. Nếu may mắn thì tôi sẽ ngủ được hai tiếng, nhưng dù thế nào tôi cũng sẽ dậy trước bình minh. Chẳng hiểu sao lại thế.

Rồi nhưng việc này sẽ qua hết sớm thôi. Tôi biết thế. Bà ấy thì không. Những mục trong nhật ký của tôi đã ngắn hơn và mất ít thời gian viết hơn. Bây giờ tôi chỉ viết đơn giản, vì hầu như các ngày của tôi đều giống nhau. Nhưng tối nay tôi nghĩ tôi sẽ chép lại một bài thơ mà một y tá đã tìm cho tôi và nghĩ tôi sẽ thích. Nó như thế này:

Trước giờ khác ấy tôi chưa từng gục ngã

Trước mối tình đột ngột và ngọt ngào

Như đóa hoa, em rạng rỡ biết bao

Và tim tôi, em hoàn toàn đánh cắp

Vì chúng tôi được tự do vào các buổi tối, tôi thường được mời đến thăm những người khác. Thường thì tôi đi, vì tôi là người hay đọc sách và mọi người cần tôi, hoặc người ta bảo tôi thế. Tôi đi dọc hành lang và chỉ chọn nơi nào muốn đến vì dù tôi đã quá già không thể theo một lịch trình, nhưng sâu thẳm bên trong tôi luôn biết ai cần mình. Họ là bạn bè của tôi, khi đẩy cánh cửa phòng họ, tôi luôn nhìn thấy những căn phòng trông giống phòng tôi, tranh tối tranh sáng, chỉ được chiếu sáng nhờ chương trình Wheel of Fortune và răng của Vanna[1]. Đồ đạc trong phòng ai cũng giống nhau, và chiếc ti vi hét om sòm vì chẳng ai còn có thể nghe rõ nữa.

Dù là đàn ông hay đàn bà, khi tôi vào họ đều mỉm cười, tắt ti vi và khẽ nói, “Tôi mừng vì ông có thể đến đây,” họ nói, rồi họ hỏi thăm vợ tôi. Thỉnh thoảng tôi cũng kể cho họ. Tôi có thể kể cho họ nghe về sự ngọt ngào và duyên dáng của bà ấy, tả cho họ thấy bà đã dạy tôi cách nhìn thế giới để thấy nó đẹp đến thế nào. Hoặc tôi sẽ kể cho họ về những năm đầu chúng tôi sống cùng nhau, về cảm giác có được mọi điều mình muốn khi ôm nhau dưới bầu trời miền Nam đầy sao. Vào những dịp đặc biệt tôi sẽ thì thầm về những cuộc phiêu lưu của chúng tôi, hay về những buổi triển lãm nghệ thuật ở New York và Paris hay những bài phê bình nồng nhiệt được viết bằng những thứ ngôn ngữ tôi không hiểu. Tuy nhiên hầu như tôi chỉ mỉm cười bảo họ rằng bà ấy vẫn thế, và họ quay đi, vì tôi biết họ không muốn tôi nhìn thấy mặt họ. Nó nhắc họ nhớ tới cái chết của chính mình. Vì thế tôi ngồi lại đọc cho họ nghe để làm giảm nhẹ nỗi sợ ấy.

Hãy điềm tĩnh – hãy thư giãn cùng tôi

Tôi sẽ đón nhận em dẫu ánh trời từ chối

Dẫu cây lá không vì em xào xạc

Và mặt trời chẳng lấp lánh vì em

Thì hỡi em vẫn còn lời thơ tôi

Mãi vì em mà xạc xào lấp lánh.

Và tôi đọc, để họ biết tôi là ai.

Tôi lang thang suốt đêm trong ảo ảnh,

Cúi mình xuống với đôi mắt mở to

bên trên đôi mắt nhắm

của những người đang ngủ,

Lang thang và bối rối

Lạc lối trước chính mình

lẫn lộn, mâu thuẫn,

Tạm ngừng, nhìn chăm chú,

cúi xuống, và dừng lại.

Nếu có thể, vợ tôi sẽ đi cùng tôi đến những buổi trình diễn buổi tối đó, vì một trong những tình yêu của bà ấy là thơ ca. Thomas, Whitman, Eliot, Shakespeare, và vua David của những bản tụng ca. Những người say mê từ ngữ, những người tạo nên ngôn ngữ. Khi nhìn lại, tôi ngạc nhiên vì niềm đam mê của mình dành cho nó, và bây giờ đôi khi tôi thậm chí còn hối tiếc. Thơ ca đem lại vẻ đẹp tuyệt vời cho cuộc sống, nhưng cũng đem lại cả nỗi buồn to lớn, và tôi không chắc đó có phải là một sự trao đổi công bằng cho một người ở tuổi tôi không. Một người đàn ông nên thưởng thức những thứ khác nếu có thể: ông ta cần dành những ngày cuối đời mình dưới mặt trời. Còn những ngày cuối đời tôi lại ở bên một chiếc đèn đọc sách.

Tôi lê bước về phía bà ấy rồi ngồi trên chiếc ghế bên giường. Lưng tôi đau nhức khi phải ngồi. Thay nệm mới cho cái ghế này thôi, tôi tự nhắc nhở mình có lẽ phải đến lần thứ một trăm. Tôi với tay nắm lấy tay bà ấy, bàn tay xương xẩu và mong manh. Cảm giác thật dễ chịu. Bà ấy đáp lại bằng cách khẽ giật giật và dần dần ngón tay cái của bà ấy bắt đầu nhẹ nhàng cọ vào ngón tay tôi. Tôi không nói gì cho đến khi bà ấy lên tiếng; tôi đã học được điều này. Phần lớn các ngày tôi chỉ ngồi yên lặng cho đến khi mặt trời lặn, và vào những ngày như thế tôi không biết gì về bà ấy.

Nhiều phút trôi qua trước khi cuối cùng bà ấy cũng quay sang tôi. Bà ấy đang khóc. Tôi mỉm cười, buông tay bà ấy ra, rồi cho tay mình vào túi. Tôi lấy ra một chiếc khăn tay lau nước mắt cho bà ấy. Bà ấy nhìn tôi khi tôi làm việc đó, và tôi tự hỏi bà đang nghĩ gì.

“Đó là một câu chuyện đẹp.”

Một cơn mưa nhỏ bắt đầu rơi xuống. Những giọt mưa đập nhè nhẹ vào cửa sổ. Tôi lại cầm tay bà. Đó sẽ là một ngày tốt đẹp, một ngày rất tốt đẹp. Một ngày kỳ diệu. Tôi mỉm cười, không thể đừng được.

“Đúng thế,” tôi bảo bà ấy.

“Ông viết nó ư?” bà ấy hỏi. Giọng bà như một tiếng thì thầm, một cơn gió thoảng qua những chiếc lá.

“Ừ,” tôi trả lời.

Bà quay về phía chiếc bàn đầu giường. Thuốc của bà ở trong một chiếc cốc nhỏ. Thuốc của tôi cũng thế. Những viên thuốc nhỏ, màu sắc như cầu vồng để chúng tôi khỏi quên uống. Bây giờ họ đã đem thuốc của tôi đến đây, đến phòng bà ấy, mặc dù họ không nhất thiết phải làm thế.

“Trước đây tôi nghe chuyện này rồi nhỉ?”

“Ừ,” tôi lại nói, cũng như lần nào tôi cũng nói như thế vào những ngày như thế này. Tôi đã học cách kiên nhẫn.

Bà ấy nhìn kỹ mặt tôi. Đôi mắt bà ấy xanh như những làn sóng đại dương.

“Nó khiến tôi cảm thấy bớt sợ hơn,” bà ấy nói.

“Tôi biết,” tôi gật đầu, lắc lư đầu mình nhẹ nhẹ.

Bà ấy quay đi, và tôi lại chờ thêm chút nữa. Bà buông tay tôi ra và với lấy cốc nước. Nó ở trên bàn đầu giường, bên cạnh chỗ thuốc. Bà nhấp một ngụm.

“Đó có phải là một câu chuyện có thật không?” Bà ấy hơi nhấc người lên và nhấp một ngụm nữa. Cơ thể bà vẫn khỏe mạnh. “Ý tôi là ông có biết những người ấy không?”

“Có,” tôi lại nói. Tôi có thể nói nhiều hơn, nhưng thường thì tôi không nói. Bà ấy vẫn thật xinh đẹp. Bà hỏi:

“À, cuối cùng thì cô ấy lấy ai?”

Tôi trả lời: “Người phù hợp với cô ấy.”

“Đó là người nào?”

Tôi mỉm cười. “Rồi bà sẽ biết,” tôi khẽ nói, “đến cuối ngày. Rồi bà sẽ biết.”

Bà ấy không biết phải nghĩ gì về điều này. Nhưng bà không hỏi tôi nữa. Bà bắt đầu cựa mình. Bà đang nghĩ cách hỏi tôi một câu hỏi khác, dù chưa biết cụ thể sẽ hỏi thế nào. Bà trì hoãn một lúc và với tay ra lấy một trong hai chiếc cốc giấy.

“Cái này của tôi à?”

“Không, cái này cơ.” Và tôi với tay ra đẩy cốc thuốc của bà về phía bà. Ngón tay tôi không thể cầm chắc được nó. Bà ấy đón lấy và nhìn. Qua cái cách bà ấy nhìn chỗ thuốc, tôi có thể thấy bà chẳng biết chúng để làm gì. Tôi dùng cả hai tay mới nhấc nổi cốc thuốc của mình lên đổ vào miệng. Bà ấy cũng làm y hệt. Hôm nay bà không cưỡng lại chút nào. Như thế khiến cho việc này thật dễ dàng. Tôi nâng tách trà của mình lên làm động tác cụng ly rồi nhấp trà làm sạch vị sàn sàn trong miệng mình. Trời đang ngày càng lạnh. Bà nuốt chỗ thuốc với sự tin tưởng và chiêu thêm một ngụm nước nữa.

Một chú chim cất tiếng hót ngoài cửa sổ, và cả hai chúng tôi cùng quay đầu lại. Chúng tôi cùng yên lặng một lúc, thưởng thức một điều gì đó đẹp đẽ cùng nhau. Thế rồi nó biến đi, và bà thở dài.

“Tôi phải hỏi ông một điều nữa,” bà nói.

“Bất kể điều gì, tôi sẽ cố gắng trả lời.”

“Nhưng mà hơi khó.”

Bà ấy không nhìn tôi, nên tôi không thể nhìn thấy mắt bà ấy. Đây là cách bà che giấu những suy nghĩ của mình. Có những thứ chẳng bao giờ thay đổi.

“Cứ từ từ,” tôi nói. Tôi biết bà sẽ hỏi gì.

Cuối cùng bà quay sang nhìn vào mắt tôi. Bà mỉm cười với tôi thật dịu dàng, kiểu nụ cười mà bạn dành cho một đứa trẻ, chứ ko phải với một người yêu.

“Tôi không muốn làm tổn thương tình cảm của ông vì ông đã thật tốt với tôi, nhưng…”

Tôi chờ đợi. Lời bà sắp nói sẽ làm tôi đau đớn. Nó sẽ xé một phần trái tim tôi và để lại một vết sẹo.

“Ông là ai?”

Đến giờ chúng tôi đã sống ở Trung tâm Điều trị Mở rộng Creekside được ba năm. Chính bà ấy đã quyết định sống ở đây, một phần vì nó gần nhà chúng tôi, nhưng cũng vì bà nghĩ sẽ dễ dàng hơn cho tôi. Vì cả hai đều không chịu nổi nếu phải bán nhà, chúng tôi bịt kín nó lại bằng ván, ký một vài loại giấy tờ, và thế là chúng tôi nhận được một nơi để sống và chết, chỉ mất chút tự do mà vì nó chúng tôi đã lao động suốt đời.

Dĩ nhiên bà ấy đã đúng khi làm vậy. Tôi chẳng thể xoay xở một mình, vì bệnh tật đã đến, cả hai chúng tôi đều ốm đau. Chúng tôi đang sống những phút cuối cùng trong đời, đồng hồ đang kêu tích tắc. Rất to. Tôi tự hỏi không hiểu có phải chỉ mình tôi nghe thấy âm thanh ấy.

Một cơn đau nhói giần giật chạy qua những ngón tay của tôi, nhắc tôi nhớ rằng từ khi chuyển đến đây chúng tôi chưa từng đan ngón tay vào nhau thế này. Tôi buồn vì điều này, nhưng đó là lỗi của tôi, không phải của bà ấy. Đó là bệnh khớp ở thể nặng nhất: thấp khớp và biến chứng. Hai bàn tay tôi giờ đã biến dạng, trông kỳ quặc, cứ đau nhói suốt những giờ tôi thức. Tôi nhìn chúng và muốn chúng bién đi, cắt quách đi, nhưng như thế tôi sẽ không thể nào làm được những việc nhỏ mà tôi phải làm. Vậy là tôi sử dụng bộ móng vuốt của mình, thỉnh thoảng tôi gọi chúng như vậy, và ngày nào cũng nắm tay bà ấy bất chấp cái đau, và tôi cố hết sức để giữ chặt đôi tay ấy vì đó chính là điều bà ấy muốn tôi làm.

Dù Kinh Thánh có nói con người có thể sống đến 120 tuổi, tôi cũng chẳng muốn thế, mà kể cả tôi có muốn thì có lẽ cơ thể tôi cũng chẳng thể sống đến tuổi đó. Nó đang rời ra từng mảnh, chết mỗi lúc một mảnh, dần dần mục ruỗng từ bên trong và ở các khớp. Tay tôi thật vô dụng, những quả cật của tôi đang bắt đầu hư hỏng, nhịp tim của tôi đang giảm dần mỗi tháng. Tệ hơn nữa, tôi lại bị ung thư, lần này là ở tiền liệt tuyến. Đây là cuộc chiến đấu thứ ba của tôi với kẻ thù không nhìn thấy ấy, và nó sẽ dần dần chiếm được tôi, mặc dù nó sẽ không làm thế được cho đến khi tôi nói đã đến lúc. Các bác sĩ lo ngại cho tôi, nhưng tôi thì không. Tôi chẳng có thời gian đâu mà lo lắng trong buổi hoàng hôn của cuộc đời này.

Trong số năm đứa con của chúng tôi, bốn vẫn đang còn sống, và mặc dù rất nặng lòng khi đến thăm, chúng vẫn đến thường xuyên, điều này khiến tôi cảm thấy thật biết ơn. Nhưng kể cả nếu chúng không ở đây, ngày nào chúng cũng đến thật sống động trong tâm trí tôi, từng đứa một, chúng đem đến cho tâm trí những nụ cười và những giọt nước mắt đi song hành với việc nuôi một gia đình. Một tá ảnh viền quanh trên tôi phòng tôi. Đó là di sản của tôi, sự cống hiến của tôi với thế giới. Tôi rất tự hào. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi vợ tôi nghĩ gì về chúng khi bà mơ mộng, hay liệu bà có nghĩ gì về chúng không, hay liệu bà thậm chí có mơ mộng không. Có quá nhiều điều về bà ấy mà tôi không còn hiểu được nữa.

Tôi tự hỏi cha tôi sẽ nghĩ gì về cuộc đời tôi và ông sẽ làm gì nếu ông là tôi. Tôi không gặp ông đã năm mươi năm, bây giờ trong những suy nghĩ của tôi ông chỉ còn là một cái bóng. Tôi không thể hình dung ra hình ảnh ông rõ ràng nữa; gương mặt ông bị sấp bóng như thể có một cây đèn chiếu từ phía sau ông vậy. Tôi không chắc liệu việc này là do tôi không nhớ hay đơn giản chỉ là vì thời gian trôi qua. Tôi chỉ có một bức ảnh của tô, và ngay cả nó cũng đã mờ nhạt. Mười năm nữa nó sẽ không còn và tôi cũng thế, ký ức về ông sẽ bị xóa đi như thông điệp trên cát. Nếu không có nhật ký của tôi, tôi sẽ thề là tôi mới sống được nửa quãng thời gian mình đã sống thôi. Nhiều khoảng thời gian dài trong đời tôi có vẻ như đã tan biến. Và kể cả bây giờ đọc nhiều đoạn văn, tôi vẫn tự hỏi mình là ai khi viết ra chúng, vì tôi không thể nhớ nổi những sự kiện của cuộc đời tôi nữa. Có những lúc tôi ngồi và tự hỏi tất cả những thứ ấy đi đâu hết cả rồi.

“Tên tôi,” tôi nói, “là Duke.” Tôi lúc nào cũng là một người hâm mộ John Wayne.

“Duke,” bà thì thầm với chính mình, “Duke.” Bà nghĩ một chút, trán nhăn lại, đôi mắt nghiêm trang.

“Đúng,” tôi nói. “Tôi ở đây là vì bà.” Và sẽ luôn như thế, tôi tự nghĩ với mình.

Bà đỏ mặt lên với câu trả lời của tôi. Đôi mắt bà trở nên ướt và đỏ, rồi nước mắt bắt đầu rơi. Trái tim tôi đau nhói vì bà, và có lẽ dễ đến lần thứ một nghìn tôi ước gì mình có thể làm điều gì đó. Bà nói:

“Tôi xin lỗi. Tôi không hiểu bây giờ điều gì đang xảy ra với tôi nữa. Kể cả ông. Khi tôi lắng nghe ông nói, tôi cảm thấy như tôi lẽ ra phải biết ông, nhưng tôi lại không biết. Tôi còn không biết tên tôi là gì nữa.”

Bà ấy lau nước mắt và nói, “Hãy giúp tôi, Duke, giúp tôi nhớ ra tôi là ai. Hay ít nhất, tôi đã là ai. Tôi cảm thấy lạc lối quá.”

Tôi trả lời một câu từ tận đáy lòng, nhưng tôi nói dối bà về tên bà. Như tôi đã nói dối về tên tôi. Có lý do cho việc này.

“Bà tên là Hannah, một người yêu cuộc sống, một nguồn sức mạnh cho những ai có được bà làm bạn. Bà là một giấc mơ, một người kiến tạo hạnh phúc, một nghệ sĩ từng làm rung cảm hàng nghìn tâm hồn. Bà đã sống một cuộc đời viên mãn, bà đã có mọi điều mình muốn vì mọi nhu cầu của bà đều là về tinh thần, và bà chỉ phải nhìn vào trong chính mình là đủ. Bà tốt bụng và trung thành, bà có khả năng nhìn thấy vẻ đẹp ở nơi những người khác không thấy được. Bà là người thầy luôn có những bài học đẹp đẽ, một người luôn mơ mộng về những điều tốt đẹp hơn.”

Tôi ngừng lời một chút để lấy lại hơi. Rồi tôi tiếp tục:

“Hannah, chẳng có lý do gì để cảm thấy lạc lối cả, vì:

Chẳng có gì từng thật sự mất đi,

cũng chẳng gì bị ai làm mất:

sinh ra, bản sắc, dạng hình – bất cứ gì thuộc về thế giới,

cuộc sống, sức mạnh – bất cứ gì nhìn thấy hữu hình;…

Cơ thể, lờ đờ, già nua, lạnh giá – đám tro tàn sau ngọn lửa thanh xuân,

… vẫn sẽ lại cháy lên đúng lúc.”

Bà nghĩ về điều tôi nói một lúc. Trong lặng im, tôi nhìn về phía cửa sổ và nhận ra giờ mưa đã tạnh. Ánh sáng mặt trời đang bắt đầu rọi vào phòng bà. Bà hỏi:

“Ông viết bài thơ đó à?”

“Không, đó là thơ của Walt Withman.”

“Ai cơ?”

“Người yêu từ ngữ, người tựu hình ý tưởng.”

Bà không đáp lại ngay. Bà nhìn chăm chăm tôi một lúc, cho đến khi hơi thở chúng tôi nhịp cùng nhau. Vào. Ra. Vào. Ra. Vào. Ra. Những hơi thở sâu. Tôi tự hỏi không hiểu bà có biết tôi nghĩ bà thật đẹp không.

“Ông sẽ ở lại với tôi một lúc chứ?” cuối cùng bà cũng yêu cầu.

Tôi mỉm cười gật đầu. Bà mỉm cười đáp lại. Bà với tay ra nắm lấy tay tôi thật nhẹ nhàng và kéo nó lên hông bà. Bà nhìn chăm chăm những khớp đốt cứng đờ làm biến dạng các ngón tay tôi và nhẹ nhàng vuốt ve chúng. Tay bà vẫn là tay của một thiên thần.

“Nào,” tôi nói khi đứng lên với một nỗ lực ghê gớm, “mình cùng đi dạo nào. Không khí khô và lạnh, lũ ngỗng đang chờ. Hôm nay trời đẹp.” Tôi nhìn bà chăm chú khi nói những câu cuối này.

Bà đỏ mặt lên. Điều này khiến tôi lại thấy mình trẻ lại.

Dĩ nhiên bà rất nổi tiếng. Một trong những họa sĩ miền Nam giỏi nhất của thế kỷ 20, có người nói thế, còn tôi đã và vẫn tự hào về bà. Không như tôi, phải vật vã để viết dù là những vần thơ đơn giản nhất, vợ tôi có thể tạo ra cái đẹp dễ dàng như Chúa Trời đã tạo ra trái đất. Những bức vẽ của bà ấy có trong các bảo tàng trên khắp thế giới, nhưng tôi đã giữ lại hai bức cho mình. Bức đầu tiên bà đưa cho tôi và bức cuối cùng. Chúng được treo trong phòng tôi, tối muộn hôm đó tôi ngồi xuống và nhìn chăm chú, đôi khi khóc khi nhìn chúng. Tôi chẳng biết tại sao.

Vậy là bao nhiêu năm đã trôi qua. Chúng tôi đã sống đời mình, làm việc, vẽ, nuôi con, yêu nhau. Tôi đã được thấy những tấm ảnh Giáng sinh, những chuyến đi của cả gia đình, những ngày lễ tốt nghiệp và những lễ cưới. Tôi được thấy các cháu và những gương mặt hạnh phúc. Tôi được thấy những tấm ảnh chúng tôi, tóc dần bạc đi, những đường nhăn trên mặt sâu hơn. Một cuộc đời có vẻ thật điển hình, ấy thế nhưng lại hiếm thấy.

Chúng tôi không thể thấy trước tương lai, nhưng ai có thể chứ? Tôi bây giờ không sống như tôi từng mong đợi. Mà tôi đã trông đợi gì nhỉ? Về hưu. Con cái mang các cháu đến thăm, có lẽ là du lịch nhiều hơn. Bà ấy luôn rất thích du lịch. Tôi từng nghĩ có lẽ mình sẽ bắt đầu một thú vui nào đó, không biết là gì, có lẽ là lắp ráp tàu. Trong chai. Nhỏ, nhiều chi tiết, bây giờ là bất khả với đôi tay tôi. Nhưng tôi không cay đắng.

Cuộc đời chúng tôi không thể đánh giá bằng những năm cuối cùng, về điều này tôi chắc chắn, nhưng tôi cho là lẽ ra từ lâu tôi phải thấy trước điều gì đang chờ mình ở cuối. Giờ nhìn lại thì thấy nó có vẻ rõ ràng, nhưng lúc đầu tôi nghĩ sự bối rối của bà là có thể hiểu được và thường gặp. Bà quên chỗ để chìa khóa, nhưng ai lại không bao giờ quên? Bà quên tên một người hàng xóm, nhưng không phải là ai đó chúng tôi biết rõ hay người chúng tôi hay giao thiệp. Thỉnh thoảng bà viết sai năm khi bà viết séc, nhưng lại một lần nữa tôi cho nó chỉ là kiểu nhầm lẫn đơn giản mà người ta vẫn mắc phải khi bận nghĩ về những điều khác.

Không phải đến tận khi những sự việc rõ ràng xảy ra tôi mới bắt đầu nghi ngờ về điều tồi tệ nhất. Bàn là trong tủ lạnh, quần áo trong máy rửa bát, sách trong lò nướng. Cả những việc khác nữa. Nhưng cái ngày tôi tìm thấy bà trong chiếc xe ở cách nhà ba dãy phố, đang khóc bên vô lăng vì không thể tìm ra đường về nhà là ngày đầu tiên tôi thật sự cảm thấy kinh sợ. Cả bà cũng hoảng sợ, vì khi tôi vỗ vào kính cửa của bà, bà quay sang tôi và nói, “Ôi trời ơi, điều gì xảy đến với em thế này? Xin hãy giúp em.” Dạ dày tôi thắt lại, nhưng tôi vẫn không dám nghĩ đến điều tồi tệ nhất.

Sáu ngày sau bác sĩ khám cho bà và bắt đầu một loạt xét nghiệm. Lúc đó tôi không hiểu chúng lắm và bây giờ cũng thế, nhưng tôi cho là vì tôi sợ phải biết. Bà ấy dành cả tiếng đồng hồ với bác sĩ Barnwell, hôm sau lại tới khám. Đó là ngày dài nhất mà tôi từng trải qua. Tôi lật qua hết các cuốn tạp chí mà không thể đọc, chơi đủ trò giải trí mà chẳng để tâm. Cuối cùng ông ấy gọi cả hai chúng tôi vào văn phòng và mời chúng tôi ngồi xuống. Bà ấy nắm lấy tay tôi đầy tin cậy, nhưng tôi nhớ rõ ràng khi ấy chính tay tôi thì đang run lên.

“Tôi rất tiếc phải cho ông bà biết điều này,” bác sĩ Barnwell bắt đầu, “nhưng có vẻ như bà đang ở giai đoạn đầu của bệnh Alzheimer…”

Tâm trí tôi trở nên trống rỗng, tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới là bóng đèn sáng rực trên đầu chúng tôi. Những lời ấy vang vọng trong đầu tôi: giai đoạn đầu của bệnh Alzheimer…

Thế giới của tôi quay cuồng chao đảo, tôi cảm thấy bà ấy siết chặt cánh tay tôi. Bà thì thầm, gần như với chính mình: “Ôi, Noah… Noah…”

Và khi nước mắt bắt đầu rơi, từ ấy lại quay lại với tôi: … bệnh Alzheimer…

Nó là một căn bệnh mang lại sự cằn cỗi, trống rỗng và chết chóc như một sa mạc. Nó là kẻ chuyên đánh cắp trái tim, tâm hồn và ký ức. Tôi không biết phải nói gì khi bà thổn thức trong lòng tôi, vì thế tôi chỉ ôm lấy bà mà khẽ đung đưa.

Ông bác sĩ ngồi im. Ông ta là một người tốt, và việc này thật khó khăn với ông. Ông ta trẻ hơn cả đứa con út của chúng tôi, và tôi cảm thấy tuổi ác của mình trong sự hiện diện của ông ta. Tâm trí tôi bối rối, tình yêu của tôi đang run lên, và điêu duy nhất tôi có thể nghĩ đến là:

Không kẻ chết đuối nào biết đâu là giọt nước nơi

Hơi thở cuối cùng của mình ngưng lại;…

Lời của một nhà thơ thông thái, nhưng cũng chẳng đem lại cho tôi chút thư thái nào. Tôi không biết nó có nghĩa gì, hoặc tại sao tôi lại nghĩ về nó.

Chúng tôi cứ đung đưa một lúc, và Allie, giấc mơ của tôi, người đẹp mãi mãi của tôi, nói với tôi rằng bà ấy xin lỗi. Tôi biết mình chẳng có gì mà tha thứ, và tôi thì thầm vào tai bà. “Mọi thứ rồi sẽ ổn cả thôi.” Tôi thì thầm, nhưng sâu thẳm bên trong tôi lo sợ. Tôi là một kẻ trống rỗng chẳng có gì để cho bà, trống trơn như một chiếc ống khói bỏ đi.

Tôi chỉ còn nhớ vài phần trong những lời giải thích tiếp theo của bác sĩ Barnwell.

“Đó là một rối loạn thoái hóa não làm ảnh hưởng đến trí nhớ và tâm tính… không có cách chữa trị… Không có cách nào biết được nó sẽ tiến triển nhanh hay chậm ra sao… Một số ngày sẽ tốt hơn những ngày khác… Nó sẽ trở nên rất tệ theo thời gian… Tôi rất tiếc là người phải nói cho ông bà…

Tôi rất tiếc…

Tôi rất tiếc…

Tôi rất tiếc…

Ai cũng rất tiếc. Các con chúng tôi tan nát cõi lòng, bạn bè tôi lo sợ cho bản thân họ. Tôi không nhớ đã rời khỏi văn phòng bác sĩ như thế nào, cũng không nhớ đã lái xe về nhà như thế nào. Ký ức của tôi về ngày hôm đó đã biến mất hết, về việc này vợ tôi và tôi như nhau.

Đã bốn năm rồi. Kể từ đó chúng tôi luôn cố gắng hết sức, nếu có thể. Allie tổ chức cũng như sắp đặt mọi thứ. Bà sắp xếp để rời khỏi căn nhà và chuyển đến đây. Bà viết lại di chúc và niêm phong nó. Bà để lại những lời hướng dẫn về chuyện chôn cất rất cụ thể, chúng đang ở trên bàn tôi, trong ngăn kéo cuối cùng. Tôi vẫn chưa xem. Khi đã xong xuôi, bà bắt đầu viết. Những bức thư gửi bạn bè và con cái. Những bức thư gửi anh chị em và họ hàng. Những bức thư gửi cháu trai cháu gái và hàng xóm. Và một lá thư cho tôi.

Đôi khi tôi đọc nó khi có tâm trạng, và lúc đó, tôi nhớ lại một Allie trong những buổi tối mùa đông lạnh giá, ngồi bên lò sưởi rừng rực lửa với một cốc rượu vang ở bên, đọc những lá thư tôi viết cho bà ấy từ nhiều năm trước. Bà giữ chúng, những bức thư ấy, và bây giờ tôi giữ chúng, vì bà đã bắt tôi hứa sẽ làm thế. Bà nói tôi sẽ biết cần phải làm gì với chúng. Bà đã đúng; tôi thấy mình vui thích đọc từng phần trong nó cũng như bà đã từng vui thích. Chúng làm tôi suy nghĩ, những bức thư ấy, vì khi tôi xem xét chúng, tôi nhận ra rằng sự lãng mạn và đắm say luôn khả thi dù ở bất kỳ tuổi nào. Tôi thấy Allie bây giờ và thấy mình chưa bao giờ yêu bà ấy nhiều hơn lúc này, nhưng khi đọc những bức thư ấy, tôi nhận ra rằng lúc nào tôi cũng cảm thấy như thế.

Tối ba hôm trước tôi đã đọc chúng, rất lâu sau khi tôi lẽ ra phải đi ngủ rồi. Lúc ấy là gần hai giờ, tôi đi đến chỗ bàn và tìm thấy tập thư, dày và cao và cũ nát. Tôi cởi nút buộc, chính nó cũng đã năm mươi năm tuổi, và thấy những bức thư mẹ bà đã giấu bao nhiêu năm trước và những bức thư sau đó. Một đời của những bức thư, những bức thư bày tỏ tình yêu của tôi, những bức thư từ trái tim tôi. Tôi liếc nhìn qua chúng với một nụ cười trên môi, cầm chúng lên và chọn, và cuối cùng mở lá từ lần kỷ niệm một năm ngày cưới của chúng tôi.

Tôi đọc một đoạn trích:

Khi anh nhìn em bây giờ - cử động từ từ với một sự sống mới đang lớn lên trong mình – anh mong rằng em biết em có ý nghĩa với anh biết bao, và năm nay đã thật đặc biệt như thế nào. Không có người nào được trời thương như anh, và anh yêu em với cả trái tim mình.

Tôi đặt nó sang một bên, lướt qua xấp thư, và tìm thấy một lá khác, lá này từ một buổi tối lạnh lẽo ba mươi chín năm trước.

Ngồi cạnh em, trong khi con gái út của chúng ta đang hát lạc điệu trong buổi biểu diễn Giáng sinh của trường, anh nhìn em và thấy một niềm tự hào chỉ đến với những người cảm động sâu sắc trong tim, và anh biết rằng không ai có thể may mắn hơn anh.

Và sau khi con trai chúng tôi chết, đứa con trai giống hệt mẹ nó… Đó là khoảng thời gian khó khăn nhất mà chúng tôi từng trải qua, và những câu chữ ấy vẫn còn rung lên rất thật ngày hôm nay:

Trong những khoảng thời gian của buồn đau và thương tiếc, anh sẽ ôm em vỗ về, lấy đi nỗi buồn thương của em và biến nó thành của anh. Khi em khóc, anh khóc, và khi em đau, anh đau. Và cùng nhau, ta sẽ cố gắng ngăn lại dòng lũ nước mắt và tuyệt vọng này và sẽ vượt qua những con phố cuộc đời lắm chông gai.

Tôi dừng lại một lúc, nhớ tới con trai. Lúc ấy nó mới bốn tuổi, chỉ là một đứa bé. Tôi sống lâu hơn nó hai mươi lần, nhưng nếu được hỏi, tôi sẽ đổi cuộc đời tôi cho nó. Thật là một điều kinh khủng khi sống lâu hơn con mình, một bi kịch mà tôi ước gì không ai phải chịu.

Tôi làm hết sức để giữ cho nước mắt khỏi dâng lên, chọn lọc thư thêm một chút để tâm trí mình rõ ràng hơn, và tìm thấy bức thư tiếp theo từ lễ kỷ niệm ngày cưới thứ hai mươi của chúng tôi, nghĩ tới nó sẽ dễ dàng hơn:

Khi anh nhìn em, em yêu của anh, với mớ tóc rối bù và đôi mắt mệt mỏi vào buổi sáng trước khi đi tắm hay trong studio phủ đầy những màu vẽ, anh biết rằng em là người phụ nữ đẹp nhất trên đời này.

Chúng cứ tiếp tục, những bức thư của cuộc sống và tình yêu ấy, tôi lại đọc thêm chục lá nữa, một số đau đớn, phần lớn làm ấm lòng. Đến ba giờ sáng tôi đã mệt nhoài, nhưng tôi với lấy cuối xấp thư. Còn một lá thư, lá cuối cùng tôi viết cho bà ấy, và đến lúc đó tôi biết tôi cần phải đọc tiếp.

Tôi nhấc dấu niêm phong lên và nhấc cả hai trang lên. Tôi đặt trang thứ hai sang một bên và cầm trang thứ nhất lên chỗ có nhiều ánh sáng hơn và bắt đầu đọc:

Allie thương yêu của anh,

Hàng hiên đang yên lặng, chỉ còn tiếng vọng đến từ bóng đêm, và lần đầu tiên anh thấy bất lực với ngôn từ. Đó là một trải nghiệm kỳ lạ đối với anh, vì khi anh nghĩ về em và cuộc đời mà chúng ta đã cùng chia sẻ, có thật nhiều điều để nhớ lại. Những ký ức của cả một đời người. Nhưng để diễn đạt chúng bằng ngôn từ ư? Anh không biết anh có thể làm thế không nữa. Anh không phải là một nhà thơ, mà phải cần đến một bài thơ mới có thể diễn đạt đầy đủ cảm giác của anh về em.

Vậy là tâm trí anh phiêu dạt, anh nhớ là ban sáng khi pha cà phê anh đã nghĩ về cuộc sống bên nhau của chúng ta. Kate cũng ở đó, cả Jane, và cả hai đứa trở nên lặng im khi anh đi vào trong bếp. Anh thấy chúng đang khóc, không nói một lời nào, anh ngồi xuống cạnh chúng bên bàn và nắm lấy tay chúng. Và em có biết anh thấy gì khi nhìn chúng không? Anh thấy em của ngày xưa, cái ngày chúng ta nói lời chia tay ấy. Chúng giống hệt em hồi đó, xinh đẹp và nhạy cảm, bị tổn thương vì nỗi đau khi một điều đặc biệt bị tước đi. Và vì lý do nào đó mà chính anh cũng không chắc mình có thể hiểu, anh thấy mình khao khát muốn kể cho chúng nghe một chuyện.

Anh gọi Jeff và David vào bếp, vì chúng cũng ở đó cả, khi các con đã sẵn sàng, anh kể cho chúng nghe về chúng ta về việc em đã trở lại với anh như thế nào cái thời xa xưa ấy. Anh kể cho chúng nghe về cuộc đi dạo của chúng mình, bữa tối với món cua trong bếp, chúng lắng nghe với nụ cười khi nghe về chuyến đi thuyền, về chuyện ngồi trước lò sưởi khi cơn bão ngoài trời đang gầm thét. Anh cũng kể cho chúng nghe về việc ngày hôm sau mẹ em đến cảnh báo cho chúng ta biết về Lon – chúng cũng có vẻ ngạc nhiên như chúng ta hồi đó – và đúng, anh còn kể cho chúng nghe điều gì đã xảy ra sau đó vào ngày hôm ấy, sau khi em trở lại nhà trọ.

Phần câu chuyện đó chưa bao giờ rời khỏi tâm trí anh, kể cả sau này biết bao nhiêu thời gian đã qua như thế. Mặc dù anh không có ở đó, sau này em đã tả lại cho anh nghe, và anh nhớ mình đã kinh ngạc đến thế nào trước sự mạnh mẽ mà em đã thể hiện hôm ấy. Anh vẫn không thể hình dung ra điều gì đã xuất hiện trong tâm trí em khi em bước vào sảnh và nhìn thấy Lon, cảm giác của em khi nói chuyện với anh ta thế nào. Em kể cho anh nghe rằng hai người rời quán trọ ra ngồi bên một chiếc ghế dài bên cạnh ngôi nhà thờ Giám lý cũ kỹ, rằng anh ta nắm tay em, kể cả khi em giải thích rằng em cần phải ở lại.

Anh biết em quan tâm đến anh ta. Phản ứng của anh ta đã chứng minh cho anh thấy anh ta cũng quan tâm đến em. Không, anh ta không thể hiểu được việc vì sao lại mất em, nhưng làm sao anh ta có thể hiểu được chứ? Thậm chí kể cả khi em giải thích rằng em vẫn luôn yêu anh, rằng như thế sẽ không công bằng với anh ta, anh ta vẫn không buông tay em ra. Anh biết anh ta đau đớn và tức giận, và cố gắng suốt cả tiếng đồng hồ để làm em đổi ý, nhưng khi em đứng thẳng dậy và nói, “Em không thể trở về với anh, em xin lỗi,” anh ta biết rằng em đã quyết định. Em kể khi ấy anh ta chỉ gật đầu và cả hai người bọn em ngồi đó cùng nhau thêm một lúc lâu mà không nói gì. Anh luôn tự hỏi anh ta đã nghĩ gì khi ngồi bên em lúc đó, nhưng anh chắc đó cũng chỉ như những gì vài tiếng trước anh vừa cảm thấy thôi. Và khi cuối cùng anh ta cũng đưa em ra xe, em kể rằng anh ta bảo anh là một gã may mắn. Anh ta đã cư xử như một quý ông, lúc đó anh hiểu tại sao sự lựa chọn của em lại khó khăn đến thế.

Anh nhớ khi anh kể xong câu chuyện ấy, căn phòng đã yên lặng cho đến khi Kate cuối cùng đứng lên để ôm chầm lấy anh. “Ôi, bố,” con bé nói, mắt lấp lánh nước, và mặc dù anh đã chờ đợi việc phải trả lời những câu hỏi của chúng, chúng không hề hỏi câu nào. Thay vì thế chúng lại trao cho anh một thứ còn đặc biệt hơn nhiều.

Suốt bốn tiếng sau đó từng đứa một đã nói với anh rằng chúng ta, hai chúng ta, đã có ý nghĩa thế nào trong sự trưởng thành của chúng. Từng đứa một kể lại những câu chuyện mà anh đã từ lâu lãng quên. Đến cuối cùng, anh đã khóc vì anh nhận ra chúng ta đã nuôi dạy con thật tốt. Anh thật tự hào về các con, tự hào về em, hạnh phúc về cuộc đời mà chúng ta đã sống. Sẽ chẳng có gì có thể lấy đi những điều đó cả. Chẳng có gì. Anh chỉ ước gì em có thể ở đây để hưởng niềm vui ấy với anh.

Sau khi các con đi rồi, anh ngồi đung đưa trong lặng im, nghĩ lại cuộc sống mà chúng ta đã cùng nhau chia sẻ. Em đã luôn bên anh khi anh sống ở đây, ít nhất là trong trái tim anh, anh không thể nhớ nổi một quãng thời gian nào mà không có em trong đó. Anh không biết anh sẽ ra sao nếu ngày hôm ấy em không trở lại, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, chắc chắn anh sẽ sống và chết với những nuối tiếc mà ơn trời thực tế là anh sẽ không bao giờ phải biết nữa.

Anh yêu em, Allie. Anh là anh bây giờ nhờ có em. Em là tất cả lý lẽ sống, hy vọng và giấc mơ mà anh có, và dù có gì xảy đến với chúng ta trong tương lai, mỗi ngày ta bên nhau đều là một ngày tuyệt vời nhất cuộc đời anh. Anh sẽ luôn luôn là của em.

Và, em yêu, em sẽ luôn luôn là của anh.

Noah.

Tôi đặt bức thư sang một bên và nhớ lại lần ngồi bên Allie trên hiên khi lần đầu tiên bà đoc nó. Đó là một buổi chiều tà với những dải đỏ cắt ngang bầu trời mùa hạ, những gì còn lại của ban ngày đang dần mờ nhạt đi. Bầu trời từ từ đổi màu, và khi ngắm nhìn mặt trời lặn xuống, tôi nhớ mình đã nghĩ về cái khoảnh khắc ngắn ngủi lập lòe khi ngày bỗng nhiên biến thành đêm.

Lúc ấy tôi nhận ra bóng tối chỉ là một ảo ảnh vì mặt trời vẫn tồn tại, hoặc là ở phía trên, hoặc là ở phía dưới đường chân trời. Điều đó có nghĩa rằng ngày và đêm đang nối với nhau theo một cách mà rất ít thứ trên đời có thể; không thể nào thiếu vắng nhau, nhưng cũng không thể cùng đồng thời xuất hiện. Tôi nhớ mình đã tự hỏi cái cảm giác ấy thế nào, cảm giác khi luôn bên nhau mà muôn đời xa cách?

Giờ nghĩ lại, tôi thấy thật mỉa mai là bà đã chọn đọc bức thư ấy vào chính cái khoảnh khắc câu hỏi đó lóe lên trong đầu tôi. Dĩ nhiên thật là mỉa mai, vì bây giờ tôi đã biết câu trả lời rồi. Giờ tôi đã biết làm ngày và đêm thì thế nào; luôn bên nhau, muôn đời xa cách.

Nơi chúng tôi ngồi chiều nay thật đẹp, Allie và tôi. Đây là đỉnh cao của cuộc đời tôi. Tất cả chúng đều ở chỗ con lạch: lũ chim, lũ ngỗng, các bạn của tôi. Thân chúng nổi trên làn nước mát phản chiếu bóng những sắc màu của chúng đã khiến chúng to lớn hơn kích cỡ thật sự. Allile cũng bị cuốn hút bởi sự kỳ diệu của chúng, dần dà, chúng tôi lại thấy thân thiết với nhau.

“Thật vui khi nói chuyện với bà. Tôi thấy nhớ rồi đấy, dù mình cũng chỉ vừa nói chuyện cách đây không bao lâu.”

Tôi rất chân thành và bà ấy biết thế, nhưng bà vẫn thận trọng. Tôi là một người lạ.

“Đây có phải là việc chúng ta vẫn thường làm không?” bà ấy hỏi. “Chúng ta thường ngồi đây và hay ngắm lũ chim lắm à? Ý tôi là, chúng ta có biết nhau rõ lắm không?”

“Vừa có vừa không. Tôi nghĩ ai cũng có bí mật, nhưng chúng ta đã biết nhau nhiều năm rồi.”

Bà ấy nhìn tay mình, rồi đến tay tôi. Bà ấy suy nghĩ một lúc, ở góc này gương mặt bà như trẻ lại. Chúng tôi không đeo nhẫn. Lại một lần nữa, việc này cũng có lý do. Bà ấy hỏi:

“Ông đã bao giờ lấy vợ chưa?”

Tôi gật đầu.

“Rồi.”

“Cô ấy như thế nào?”

Tôi kể sự thật.

“Cô ấy là giấc mơ của tôi. Cô ấy đã tạo ra con người tôi như ngày hôm nay, đối với tôi việc ôm cô ấy trong vòng tay còn tự nhiên hơn là nhịp đập tim mình. Lúc nào tôi cũng nghĩ về cô ấy. Kể cả bây giờ, khi ngồi đây, tôi cũng đang nghĩ về cô ấy. Chẳng bao giờ có một người nào khác.”

Bà ấy tiếp nhận thông tin đó. Tôi không biết bà ấy cảm thấy thế nào. Cuối cùng bà nói rất khẽ, giọng bà ấy như của một thiên thần và đầy rung cảm. Tôi tự hỏi liệu bà ấy có biết tôi nghĩ như thế không.

“Cô ấy chết rồi ư?”

Cái chết là gì nhỉ? Tôi tự hỏi, nhưng tôi không nói ra. Thay vì thế tôi đáp. “Vợ tôi vẫn sống trong tim tôi. Sẽ luôn như thế.”

“Ông vẫn yêu cô ấy, đúng không?”

“Đương nhiên là thế. Nhưng tôi yêu nhiều thứ lắm. Tôi yêu việc ngồi đây với bà. Tôi yêu việc được chia sẻ vẻ đẹp của nơi này với ai đó mà tôi quan tâm. Tôi yêu việc ngắm nhìn lũ chim ưng nhào xuống phía con lạch và tìm thấy bữa tối của mình.”

Bà ấy im lặng một lúc. Bà nhìn đi chỗ khác nên tôi không thấy được mặt bà. Đó là thói quen của bà ấy nhiều năm rồi.

“Tại sao ông lại làm việc này?” Không sợ, chỉ là tò mò. Như thế tốt. Tôi biết ý bà muốn nói gì, nhưng tôi vẫn hỏi.

“Việc gì cơ?”

“Tại sao ông lại dành cả ngày bên tôi?”

Tôi mỉm cười.

“Tôi ở đây vì đây là nơi tôi cần phải ở. Có gì phức tạp đâu. Cả bà và tôi đều đang thư giãn và vui vẻ. Đừng bỏ đi thời gian tôi bên bà – nó không bị phí hoài đâu. Đó là điều tôi muốn. Tôi ngồi đây, chúng ta nói chuyện và tôi thầm nghĩ, Có gì có thể hay hơn việc tôi đang làm đây?”

Bà ấy nhìn thẳng vào mắt tôi, và trong một thoáng, chỉ một khoảnh khắc thôi, mắt bà ánh lên. Một nụ cười nhẹ nhàng hình thành trên môi bà.

“Tôi thích ở bên ông, nhưng nếu điều ông muốn là làm tôi tò mò thì ông đã thành công rồi đấy. Tôi thừa nhận là tôi thích ở bên ông, nhưng tôi sẽ chẳng biết gì về ông cả. Tôi không hề trông đợi ông sẽ kể cho tôi nghe chuyện của đời ông, nhưng tại sao ông lại có vẻ bí ẩn thế?”

“Tôi đã có lần đọc thấy rằng phụ nữ ưa những người lạ bí ẩn.”

“Đấy, ông thật sự không trả lời vào câu hỏi. Ông không trả lời phần lớn các câu hỏi của tôi. Thậm chí sáng nay ông còn không kể cho tôi nghe xem câu chuyện đó cuối cùng kết thúc thế nào nữa.”

Tôi nhún vai. Chúng tôi ngồi im lặng một lúc. Cuối cùng tôi hỏi:

“Thế có thật không?”

“Cái gì có thật không?”

“Rằng phụ nữ thích những người lạ bí ẩn?”

Bà ấy suy nghĩ về điều đó và cười to. Rồi bà trả lời đúng như tôi nghĩ.

“Tôi nghĩ một số phụ nữ như vậy.”

“Bà có thế không?”

“Đừng có nhằm vào tôi như thế đi. Tôi đâu có biết rõ ông mà trả lời câu đó.” Bà ấy trêu tôi và tôi thích thế.

Chúng tôi ngồi lặng lẽ ngắm thế giới xung quanh. Chúng tôi đã phải mất cả đời để học được điều này. Dường như chỉ có những người già mới có thể ngồi bên nhau, không nói gì mà vẫn cảm thấy bằng lòng. Thanh niên, táo tợn và không kiên nhẫn, hẳn sẽ luôn phá vỡ sự im lặng. Đấy là một sự lãng phí, vì sự yên lặng thật tinh khiết. Sự yên lặng thật trong sạch. Nó kéo người ta lại gần nhau vì chỉ có những người cảm thấy thoải mái với nhau mới có thể ngồi bên nhau mà không nói gì. Đó là một nghịch lý vĩ đại.

Thời gian trôi qua, dần dần hơi thở của chúng tôi hòa cùng một nhịp cũng giống như sáng nay. Những hơi thở sâu, thư giãn, rồi trong một thoáng bà ấy chợp mắt lơ mơ như những người cảm thấy thoải mái bên người khác thường làm. Tôi tự hỏi liệu bọn thanh niên có thể thưởng thức điều ấy không nhỉ. Cuối cùng, khi bà tỉnh giấc, một điều kỳ diệu xuất hiện.

“Ông có nhìn thấy con chim kia không?” Bà chỉ vào nó, và tôi căng mắt ra nhìn. Thật kỳ diệu khi tôi nhìn thấy nó, nhưng tôi nhìn được là nhờ ánh mặt trời rất sáng. Tôi cũng chỉ tay theo.

“Chim Caspian stern,” tôi nói khẽ, rồi chúng tôi tập trung chú ý vào con chim và nhìn chăm chú không nó lướt qua lạch Brices. Và, như một thói quen cũ được khám phá lại, khi hạ thấp cánh tay xuống, tôi đặt bàn tay lên đầu gối bà nhưng bà ấy không bắt tôi phải bỏ tay ra.

Bà ấy đúng về việc tôi hay lảng tránh. Vào những ngày như thế này, khi chỉ có trí nhớ của bà ấy ra đi, tôi trả lời thật mơ hồ vì suốt bao nhiêu năm qua tôi đã vô tình làm tổn thương vợ tôi bằng nhiều lần lỡ lời vô ý, và tôi quyết tâm không để điều đó xảy ra nữa. Vậy là tôi tự giới hạn chính mình và chỉ trả lời những gì được hỏi, đôi khi chỉ trả lời cho qua, và tôi không tự động kể chuyện gì.

Đó là một quyết định hai mặt, vừa tốt vừa xấu, nhưng cần thiết, vì cùng với nhận thức, nỗi đau sẽ đến. Để hạn chế nỗi đau, tôi tự hạn chế các câu trả lời của mình.

Sẽ có những ngày bà ấy chẳng bao giờ nhận ra các cháu của mình hay nhận ra rằng chúng tôi đã cưới nhau. Tôi rất đau lòng khi chứng kiến điều ấy, nhưng tôi sẽ không đổi ý đâu.

Việc này có làm tôi trở nên thiếu trung thực không? Có lẽ có, nhưng tôi đã từng nhìn thấy bà ấy tan nát dưới dòng thác thông tin về chính cuộc đời bà. Tôi có thể nào nhìn mình trong gương mà mắt không đỏ và hàm không run lên khi biết rằng mình đã quên hết mọi điều quan trọng trong đời? Tôi không thể làm thế, và bà ấy cũng vậy, vì khi cuộc vạn lý trường chinh này bắt đầu, tôi sẽ lại khởi đầu như thế. Cuộc đời của bà ấy, cuộc hôn nhân của bà ấy, các con của bà ấy. Bạn bè của bà ấy và công việc của bà ấy. Những câu hỏi và trả lời trong một dạng trò chơi truyền hình có tên là “Đây là đời bạn.”

Những ngày ấy thật khó khăn với cả hai chúng tôi. Tôi bỗng trở thành một cuốn bách khoa thư, một vật thể không có cảm giác, từ điển giải đáp những câu hỏi ai, cái gì và ở đâu về những sự kiện trong đời bà ấy, trong khi trên thực tế chính những câu hỏi tại sao, những gì tôi không biết và không thể trả lời, mới là điều khiến tất cả những điều ấy có giá trị. Bà ấy sẽ nhìn chằm chằm vào những bức ảnh của đám con cháu mà mình đã quên, cầm những cây cọ vẽ giờ đã chẳng hề gợi cảm hứng, đọc những bức thư tình chẳng còn đem lại niềm vui. Bà ấy sẽ yếu dần đi từng giờ, càng ngày càng xanh tái, trở nên cay đắng, và mỗi ngày lại kết thúc tồi tệ hơn lúc khởi đầu. Tháng ngày của chúng tôi đã mất, bà ấy cũng thế. Và thật ích kỷ làm sao, tôi cũng vậy.

Vậy là tôi thay đổi. Tôi trở thành Magellan hay Columbus, một nhà thám hiểm những bí ẩn của tâm trí, và tôi nhận thức được, tuy chậm chạp và vụng vê,phải nhưng dù sao cũng vẫn nhận thức được rằng mình cần phải làm gì. Và tôi nhận thức ra cái điều vốn rất rõ ràng đối với một đứa trẻ. Rằng cuộc đời chỉ đơn giản là một tập hợp những cuộc đời nhỏ, mỗi ngày ta sống hết một cuộc đời ấy. Rằng ta nên dành mỗi ngày để tìm ra vẻ đẹp ở hoa lá, thơ ca và chuyện trò cùng động vật. Rằng một ngày dành cho việc mơ màng, cho hoàng hôn và những cơn gió nhẹ trong lành sẽ tuyệt đến không thể tuyệt hơn. Nhưng trên hết, tôi nhận ra rằng cuộc sống là ngồi trên ghế dài bên những con lạch cổ xưa với bàn tay đặt trên đầu gối bà ấy, và đôi khi, vào những ngày đẹp trời, sống là để yêu.

“Ông đang nghĩ gì thế?” bà ấy hỏi.

Lúc này trời đã chạng vạng tối. Chúng tôi rời khỏi chiếc ghế dài và đi dọc theo những con đường mòn sáng đèn chạy quanh co quanh khu nhà. Bà ấy đang khoác tay tôi, tôi hộ tống bà ấy. Chính bà ấy nảy ra ý đó. Có lẽ bà ấy bị tôi mê hoặc. Có lẽ bà ấy muốn giữ tôi khỏi ngã. Dù thế nào đi nữa thì tôi cũng tự mỉm cười với chính mình.

“Tôi đang nghĩ về bà.”

Bà ấy không đáp, chỉ siết chặt cánh tay tôi, rõ là bà thích điều tôi nói. Những năm sống bên nhau đã khiến tôi có thể thấy những dấu hiệu thể hiện cảm xúc của bà ấy, kể cả khi chính bà ấy cũng không để ý. Tôi tiếp tục:

“Tôi biết bà không thể nhớ ra bà là ai, nhưng tôi thì có thể, và tôi nhận ra rằng khi nhìn bà, tôi cảm thấy thật dễ chịu.”

Bà ấy vỗ nhẹ vào cánh tay tôi và mỉm cười. “Ông là một người tốt với một trái tim giàu tình yêu. Hy vọng là trước đây tôi cũng thích ông như bây giờ.”

Chúng tôi đi thêm vài bước. Cuối cùng bà ấy nói, “Tôi phải nói cho ông biết một điều.”

“Nói đi.”

“Tôi nghĩ tôi có một người hâm mộ.”

“Một người hâm mộ?”

“Phải.”

“À há.”

“Ông không tin tôi à?”

“Tôi tin bà.”

“Ông phải tin chứ.”

“Tại sao?”

“Vì tôi nghĩ đó chính là ông.”

Tôi nghĩ về điều này trong khi chúng tôi đi dạo trong lặng im, khoác tay nhau đi qua các phòng, đi qua sân. Đến chỗ khu vườn toàn hoa dại, tôi giữ bà ấy lại. Tôi hái một bó hoa – đỏ, hồng, tím, vàng. Tôi đưa bó hoa cho bà ấy, bà dưa lên mũi. Bà ngửi chúng, mắt nhắm lại và thì thầm, “Đẹp quá.” Chúng tôi lại đi dạo tiếp, một tay bà khoác tay tôi, một tay cầm hoa. Mọi người nhìn chúng tôi, vì chúng tôi là một điều kỳ diệu bằng xương bằng thịt, hay ít nhất thì người ta cũng bảo tôi vậy. Cũng đúng, theo cách nào đó, mặc dù thường thì tôi cũng chẳng lấy thế làm may mắn.

“Bà nghĩ đó là tôi ư?” cuối cùng tôi cũng hỏi.

“Ừ.”

“Tại sao?”

“Vì tôi đã tìm thấy thứ ông giấu.”

“Cái gì thế?”

“Cái này,” bà ấy nói, đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ. “Tôi tìm thấy nó dưới gối.”

Tôi đọc, và tờ giấy ghi thế này:

Dù thân thể chậm chạp đi

cùng nỗi đau khủng khiếp,

Dẫu tháng ngày chúng ta khép lại,

lời hứa tôi vẫn sẽ còn nguyên

Dịu dàng chạm tay, một nụ hôn

Tình yêu sẽ lại hân hoan thức giấc.

“Còn gì nữa không?” tôi hỏi.

“Tôi tìm thấy cái này trong túi áo khoác của tôi.”

Linh hồn ta là một,

và sẽ không tách rời

Cùng bình minh huy hoàng

gương mặt em bừng sáng

Ta vươn tay tìm em

Tim mình ta tìm thấy.

“Tôi hiểu,” đó là tất cả những gì tôi nói.

Chúng tôi đi dạo khi mặt trời lặn xuống thấp hơn trên bầu trời. Dần dần, ánh chạng vạng màu bạc là thứ duy nhất còn lại của ban ngày, nhưng chúng tôi vẫn nói chuyện về thơ ca. Bà ấy say mê sự lãng mạn.

Đến khi chúng tôi về đến cửa thì tôi đã mệt phờ. Bà ấy biết thế, vì thế bà dùng bàn tay ngăn tôi lại rồi xoay tôi ra đối diện với bà. Tôi quay ra và nhận ra rằng mình đã còng xuống đến mức nào. Bây giờ bà ấy và tôi cao bằng nhau. Đôi khi tôi mừng vì bà không biết tôi đã thay đổi đến nhường nào. Bà ấy quay sang tôi và nhìn chăm chú một lúc lâu.

“Bà đang nhìn gì thế?” tôi hỏi.

“Tôi không muốn quên ông hay quên ngày hôm nay, và tôi đang cố lưu giữ lại ký ức về ông.”

Lần này có hiệu quả không? Tôi tự hỏi, rồi biết rằng không. Không thể. Tuy nhiên tôi không thẻ cho bà biết những suy nghĩ của mình. Tôi chỉ mỉm cười vì những câu nói của bà thật ngọt ngào.

“Cảm ơn bà,” tôi nói.

“Tôi thực sự cảm thấy thế. Tôi không muốn lại quên ông. Ông rất đặc biệt đối với tôi. Tôi không biết hôm nay tôi sẽ làm gì nếu không có ông.”

Cổ họng tôi nghẹn lại một chút. Có cảm xúc đằng sau những gì bà ấy nói, những xúc cảm mà tôi cảm thấy mỗi khi nghĩ về bà. Tôi biết điều này là lý do tại sao tôi sống, và lúc này đây tôi yêu bà ấy tha thiết. Tôi ước gì mình đủ mạnh khỏe để bế bà ấy trong vòng tay đến tận thiên đường.

“Đừng cố gắng nói gì,” bà ấy bảo tôi. “Mình cùng nhau cảm nhận khoảnh khắc này đi.”

Tôi làm theo, cảm thấy cả thiên đường.

Bệnh của bà ấy bây giờ nặng hơn lúc đầu, mặc dù Allie khác với hầu hết những người bệnh khác. Ở đây có ba người khác cũng mắc Alzheimer, ba trường hợp này là toàn bộ kinh nghiệm thực tế của tôi về nó. Họ, không như Allie, đều đang ở những giai đoạn nặng nhất và gần như hoàn toàn lạc thần. Họ thức giấc trong tình trạng bị ảo giác và lẫn lộn. Họ lặp đi lặp lại các câu nói của mình. Hai trong số họ không thể tự ăn và sẽ sớm qua đời. Người thứ ba có xu hướng đi lang thang rồi bị lạc. Có lần người ta đã tìm thấy bà này trong xe của một người lạ cách đó gần nửa cây số. Kể từ đó bà ấy bị cột vào giường. Bọn họ đôi khi rất cay nghiệt, đôi khi lại như những đứa trẻ lạc đường, buồn bã và cô đơn. Hiếm hoi lắm họ mới nhận ra nhân viên trong viện hay những người yêu quý họ. Đó là một căn bệnh khó chịu, đó là lý do tại sao con cái họ và cả con tôi thấy chuyện thăm viếng thật khó khăn.

Dĩ nhiên Allie cũng có những vấn đề của riêng bà ấy, những vấn đề chắc sẽ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Sáng nào bà ấy cũng thấy sợ hãi khủng khiếp và khóc không nguôi. Bà ấy nhìn thấy những người bé tí xíu, như lũ quỷ lùn, chắc thế, ngắm nhìn bà ấy, và bà la hét đuổi chúng đi. Bà sẵn lòng đi tắm, nhưng ăn không đều đặn lắm. Bây giờ bà ấy gầy guộc, quá gầy guộc, theo ý tôi là thế, và cứ có cơ hội là tôi lại cố hết sức vỗ cho bà ấy béo lên.

Nhưng bà ấy chỉ tương đồng với những bệnh nhân kia đến đó thôi. Đó là lý do tại sao Allie được coi là một điề